Khương Đường xem qua một vòng và đã đưa ra quyết định, mau chóng làm xong thủ tục, chờ đến đầu xuân sẽ bắt đầu cày ruộng trồng trọt.
Lái buôn vốn tưởng rằng Khương Đường sẽ không muốn, suy cho cùng cũng hơn một ngàn lượng bạc, ai ngờ xem qua xong là lập tức quyết định ngay.
Giá cả không thể thương lượng thêm, nhưng lái buôn nghĩ cách để giảm bớt phần thuế phí một chút.
Mất ba ngày là giải quyết xong xuôi, mua thôn trang tiêu hết tổng cộng một ngàn hai trăm ba mươi lượng bạc.
Nông hộ bên này vẫn ở đây, chờ vào xuân là có thể cho bọn họ tiếp tục gieo trồng. Ngoại trừ phần nộp thuế, một mẫu đất thu hoạch được sẽ cho bọn họ hai phần, thông thường một nhà cũng được chia hai phần như vậy, chỉ khi tốt một chút mới cho ba phần.
Khương Đường nhớ rõ Lục Cẩm Dao chia ba phần, chỗ nàng không cần như vậy, chia hai phần trước là được.
Khương Đường đã từng tới thôn trang của Lục Cẩm Dao thu hoạch vụ thu, đối với chuyện trồng trọt là dốt đặc cán mai, nhưng nàng biết như thế nào là cho một cây gậy kèm theo một quả táo, không cần lo lắng nông hộ sẽ lừa nàng.
Thôn trang khá nhỏ, bên trong có tổng cộng bốn hộ, có vẻ là người thành thật, nhưng cũng chỉ mới thấy qua một lần, còn chưa biết ra sao đâu.
Vụ gieo trồng mùa xuân bắt đầu từ tiết thanh minh, tháng ba, bất quá trước đó có thể mua hạt giống trước, ươm cây con, đến lúc đó chỉ cần trồng trực tiếp xuống đất là được.
Khương Đường mở một tiệm lẩu, cần phải trồng thêm nhiều loại rau dưa, như vậy tiện cho tiệm lẩu sử dụng.
Trồng đủ cung cấp cho cửa hàng, sạp ăn vặt và cho chính nàng ăn là được, không cần trồng quá nhiều, đến vụ thu hoạch mùa thu là lại có ăn rồi.
Chuyện Khương Đường mua thôn trang cũng chưa nói với bất kỳ ai, tài lộc không được để lộ ra ngoài, đạo lý này không thể quên.
Tháng giêng tới cũng không sai biệt lắm so với suy nghĩ của Khương Đường, chuyện kinh doanh của Cẩm Đường Cư không tốt lắm, không chỉ có là Cẩm Đường Cư, cả Ngũ Hương Cư và các cửa hàng điểm tâm khác cũng không tốt.
Chuyện buôn bán của tiệm lẩu cũng vậy, ngay cả thu nhập của sạp ăn vặt cũng không giống như trước, nhưng chắc chắn là có lợi nhuận.
Bất quá, qua một mùa tết, trên đường đã xuất hiện không ít sạp hàng “giống nhau như đúc”, còn có vài tiệm lẩu.
Sạp ăn vặt nhỏ lẻ cho thêm đồ ăn, tiệm lẩu Khương Đường cũng bổ sung món ăn mới.
Tuy nước lẩu và nước chấm bên ngoài khác biệt, nhưng giá cả lại rẻ hơn, một cân thịt dê bốn năm chục văn, cho dù đắt hơn sạp thịt một chút nhưng cũng có nhiều người tới ăn.
Tự nhiên cũng có đầu bếp lợi hại làm ra hương vị của riêng mình, nhưng lẩu nấm vẫn là chiêu bài độc nhất của tiệm lẩu Khương thị.
Mấy người Tiền Tùng Bách thấy ăn ngon, thấy cửa hàng nào mới khai trương là đến ăn thử, cuối cùng lại về tiệm lẩu Khương thị, Khương Đường không biết mấy chuyện này, chỉ thấy vui vẻ vì khách quen đã trở lại.
Qua tháng giêng, trời lại có tuyết rơi lớn, chuyện kinh doanh của tiệm lẩu mới khôi phục lại.
Khương Đường nghĩ chờ đến lúc trời nóng trở lại thì thu nhập của tiệm lẩu sẽ ngày càng kém, đang dự tính sẽ kinh doanh thêm món khác.
Sạp ăn vặt tuy lời ít, nhưng có câu nói tích tiểu thành đại, nàng cũng không thể bỏ sạp ăn vặt được.
Rõ ràng là năm mới, nhưng đảo mắt đã hết một tháng, mấy thứ pháo hoa sặc sỡ giống như đã là chuyện rất lâu về trước.
Lúc giữa tháng giêng Cố Kiến Sơn có gửi thư về, Khương Đường cũng đã gửi công thức làm cốt lẩu bò dầu cay qua đó, nếu là có thể hữu dụng với tướng sĩ biên quan thì nàng tình nguyện đưa ra, lại nói cũng không ảnh hưởng tới chuyện buôn bán của nàng, cớ gì lại không đưa.
Chính là Cố Kiến Sơn…
Nàng cho rằng, có một số tình cảm sẽ càng lúc càng mờ nhạt theo thời gian, tựa như Nam Hương và Nam Tuyết ở chính viện, còn có Tôn đại nương Lý đại nương, trước đây quan hệ cũng tốt, nhưng không gặp nhau thì tình cảm cũng nhạt phai.
Nhưng nếu là Cố Kiến Sơn, dường như càng xa lâu lại càng nhớ, có những lúc lơ đãng lại nhớ về hắn.
Lúc làm thức ăn ngon đều sẽ nghĩ hắn ở Tây Bắc ăn cái gì.
Có khi mơ thấy hắn cảnh tượng hắn ở núi giả bắt lấy tay áo của nàng, còn có cảnh quay đầu nhìn thấy hắn trên cầu Chức Nữ vào đêm trung thu.
Vòng tay hắn đưa, trâm cài hắn tặng, còn có cua và thức ăn, một chùm nho căng mọng.
Thời gian càng lâu, càng thêm rõ ràng.
Rõ ràng biết giữa hai người có nhiều chuyện khó xử, nhưng từng ngày cứ ghi tạc từng chút ở trong lòng.
Thậm chí có khi mở cửa ra, Khương Đường sẽ đứng ngoài cửa ngẩn ngơ một hồi, nghĩ Cố Kiến Sơn có thể đột nhiên xuất hiện hay không.
Nhưng đa số thời gian nàng đều rất bận rộn, hiện tại nàng đã có năm sạp ăn vặt, lại tiến tới gần mục tiêu thêm một bước.
Mùng sáu tháng hai, sáng sớm Khương Đường đang dự định ra ngoài mua thịt, vừa mở cửa thì thấy có một người đang ngồi xổm phía trước.
Tóc hơi ướt, cúi đầu, một thân giáp bạc, người ngợm bẩn hề hề.
Cổ họng Khương Đường nghẹn đắng, âm thanh như tắc lại trong cổ họng: “Cố Kiến Sơn.”
Trời vẫn còn tối, Khương Đường vẫn cầm đèn lồng trong tay.
Khương Đường gọi một tiếng nhưng Cố Kiến Sơn vẫn không ngẩng đầu, hình như đã ngủ say. Nàng duỗi tay chạm nhẹ vào bả vai của Cố Kiến Sơn, Cố Kiến Sơn giật mình một cái, đột nhiên ngẩng đầu, tay bắt đầu mò mẫm như đang muốn tìm thứ gì đó, nhưng thứ đó lại không ở cạnh hắn, duỗi tay s.ờ soạng cũng chỉ là một khoảng không.
Trong ánh mắt của hắn còn mang theo sự tàn nhẫn, hoàn toàn không giống với Cố Kiến Sơn mà Khương Đường quen thuộc. Cố Kiến Sơn trong ấn tượng của nàng tuy không thể gọi là ôn tồn lễ độ nhưng bụng dạ phóng khoáng, làm việc biết co giãn vừa phải, tuyệt đối sẽ không hành động như thế này.
Hắn là vừa từ Tây Bắc trở về, người về tới Thịnh Kinh nhưng suy nghĩ vẫn còn ở lại chiến trường.
Người trực tiếp đối diện với sinh tử sao có thể bình thường lại trong thời gian ngắn ngủi.
Khương Đường thu lại cánh tay, lại gọi hắn một tiếng, đôi mắt của Cố Kiến Sơn dần dần khôi phục lại vẻ sáng sủa, hắn ngửa đầu nhìn Khương Đường, sau đó chậm rãi đứng lên: “Ta… Ta đã trở về.”
Khương Đường đưa Cố Kiến Sơn vào nhà trước, chờ hắn mờ mịt vào trong rồi Khương Đường mới đóng cổng và cài chốt.
Điểm Kim và Ô Kim vây quanh chân Cố Kiến Sơn, nóng nảy nhe răng, trong cổ họng phát ra tiếng gầm gừ đầy sự uy hiếp.
Khương Đường sờ đầu trấn an hai con chó: “Không phải người xấu, không sao đâu.”
Lúc này Điểm Kim và Ô Kim mới không sủa nữa.
Cố Kiến Sơn đứng ở cửa, chờ Khương Đường rót cho hắn một chén nước như lúc trước, rõ ràng trên đường về đây đã suy nghĩ rất nhiều lời muốn nói, sau khi gặp người ta rồi lại không biết phải nói cái gì.
Đầu óc trống rỗng không biết nên nói gì cho phải.
Khương Đường đi vào phòng, đi vài bước mà vẫn không nghe thấy tiếng bước chân theo sau, quay đầu nhìn lại thì thấy Cố Kiến Sơn vẫn còn đứng cạnh cửa.
Má phải của hắn có vết thương nhưng đã kết vảy, tóc tai lộn xộn, không biết đã bôn ba trên đường bao nhiêu lâu.
Chỉ có một đôi mắt vẫn sáng lấp lánh dưới ánh đèn dầu.
Trong mắt Cố Kiến Sơn dường như có ánh lửa.
Khương Đường chỉ cảm thấy lòng mình run lên, không thể nói là đang đau lòng hay khó chịu.
“Đứng ở đó làm gì, không chê trời lạnh sao.”
Khương Đường thấy Cố Kiến Sơn đã bước thêm vài bước, ngay sau đó nàng đã cảm nhận được một hơi thở lạnh lẽo.
Giống như tuyết ở Tây Bắc vậy, lạnh lẽo nhưng thanh mát, còn có hương vị bùn lầy do vó ngựa dẫm phải trên đường về cùng với hương cỏ cây. Bộ giáp bạc mà Cố Kiến Sơn đang mặc cũng lạnh như băng, cộm đau cả người.
Khương Đường do dự trong chốc lát rồi duỗi tay vòng qua eo Cố Kiến Sơn: “Cuối cùng chàng cũng trở lại.”
Tuy Cố Kiến Sơn không biết phải nói gì nhưng có thể ôm Khương Đường một chút cũng khiến lòng hắn thoải mái hơn nhiều.
Sáng sớm giờ Dần hắn về đến Thịnh Kinh, vừa dơ vừa mệt.
Nếu trực tiếp về Hầu phủ thì hắn còn phải rửa mặt chải đầu, lại phải vào cung báo cáo công tác, không biết khi nào mới xong việc nên mới quyết định tới đây gặp Khương Đường trước.
Người xung quanh còn chưa thức dậy, nếu không đợi được hoặc có người ra ngoài thì hắn sẽ về Hầu phủ trước.
May mắn.
Cố Kiến Sơn không ôm quá lâu, ôm đã thèm rồi cũng buông tay theo Khương Đường vào nhà.
Khương Đường thắp sáng chiếc đèn trên bàn, căn phòng lập tức sáng bừng lên.
Khương Đường nói: “Chàng ngồi xuống trước đi.”
Nhà chính rất lớn, có một chiếc bàn vuông lọt vào tầm mắt, còn có bốn chiếc ghế dựa, bên cạnh là một chiếc bình phong vẽ sơn thủy, hoa cỏ, chim chóc.
Phía dưới có một bếp lò để nấu nước, than trong lò vẫn còn nóng đỏ, còn có hai con chó nằm bò như hổ rình mồi.
Khương Đường đi rót nước, Cố Kiến Sơn ngồi xuống duỗi tay sờ đầu Điểm Kim: “Đã lớn như vậy rồi.”
Khương Đường nói: “Cũng không nghĩ xem chàng đã đi bao lâu rồi.”
Lúc bọn chúng được ôm về là đã được bốn tháng, lại nuôi ở Đại Lý Tự hơn một tháng, mang tới đây cũng đã được gần nửa năm.
Cố Kiến Sơn gật đầu, lại nghe ra được hương vị tưởng nhớ trong lời nói: “Không phải đã về rồi sao, nhưng mà qua thời gian này là phải đi rồi.”
Mùa xuân năm nay Hồ tộc ăn khổ, Ngự Triều đã có thời gian nghỉ ngơi lâu hơn, bọn họ cũng cướp được không ít dê bò, Từ Trinh Nam muốn nhân cơ hội này tiến thêm một bước.
Lần này Cố Kiến Sơn trở về là để báo cáo tình hình trong quân với An Khánh đế, trong triều đã bắt đầu có động thái, cho người khác đưa tin cũng không còn an toàn nữa.
Chuyện chiến sự ở Tây Bắc hoàng đế chắc chắn sẽ không để cho các hoàng tử nhúng tay vào, rất nhiều chuyện phiền phức.
Hoàng Thượng đã già, ai nấy đều nhìn chằm chằm vào binh lực Tây Bắc.
Không chỉ có Hoàng Thượng chuyện Hoàng Thượng đã già, mà cả Từ tướng quân cũng già rồi.
Khương Đường không lên tiếng, Cố Kiến Sơn nhấp môi dưới: “Nhưng ta bảo đảm, khi về tới ta sẽ đều đến gặp nàng đầu tiên.”
Ai cần hắn qua gặp nàng trước tiên chứ, đã lạnh thành như vậy rồi, nhìn cứ như dân chạy nạn vậy.
Khương Đường xoay người, trong mắt mang theo ý cười: “Uống miếng nước trước đi, chàng có đói bụng không, ta đi lấy cho chàng ít thức ăn.”
Cố Kiến Sơn nuốt nước miếng, gật đầu nói: “Rất là đói bụng.”
Khương Đường đang làm nóng nồi cơm để hấp lại sủi cảo và bánh bao.
Lúc nàng ăn cơm một mình có khi sẽ rất lười nấu, một ngày đều ăn qua loa cho qua bữa, ngẫu nhiên mới nguyện ý bỏ công nấu nướng một chút, Cố Kiến Sơn vừa may về ngay lúc nàng siêng nấu.
Bánh bao nhỏ như vậy, Cố Kiến Sơn cắn một lần là có thể ăn được một cái,
Ăn xong hai xửng nhỏ, lại ăn thêm hai củ khoai nướng thì mới tính là no, hắn dọn dẹp sạch sẽ số chén đũa mới dùng xong rồi nói: “Nàng chờ thêm hai ngày, ta có chút đồ mang tới đây. Bọn ta bắt được một đám dê bò, ta có lấy được một ít thịt. Nhưng không phải là cho ta, đây là thịt cho nàng.”
Nếu không phải Khương Đường đưa công thức cho quân doanh thì cho dù Cố Kiến Sơn là Đại tướng quân thì cũng không lấy được chỗ thịt này.
Đồ vật của quân doanh, cho dù hắn muốn mang về Hầu phủ cũng không được.
Công lao là của Khương Đường, hắn chẳng qua chỉ góp lời một chút.
Khương Đường gật đầu: “Nếu cần gì khác thì cứ nói với ta.”
Cố Kiến Sơn không thể ở chỗ này quá lâu, lát nữa hàng xóm hai bên đều sẽ thức dậy.
Khương Đường nhìn Cố Kiến Sơn cười cười: “Ta đây muốn gặp chàng…”
Cố Kiến Sơn nói: “Sáng mai ta sẽ qua đây, ta sẽ tới tìm nàng.”
*
Không giống như những người khác trong Hầu phủ, trước khi về đều đã viết thư gửi về trước, từ sớm đã có gã sai vặt đứng chờ ở cổng thành, một khi nhận được tin sẽ lập tức quay về bẩm báo.
Từ trước tới nay Cố Kiến Sơn vẫn luôn bất ngờ trở về, có khi là buổi chiều, có khi là buổi tối. Hắn cưỡi ngựa về kinh, không báo cho ai biết.
Nghe người gác cổng tới bẩm báo, Trịnh thị mới biết ấu tử đã trở lại.
Cố Kiến Sơn tới chính viện thỉnh an trước, lúc này Vĩnh Ninh hầu và Trịnh thị còn chưa dùng cơm, Trịnh thị đau lòng nhi tử mới sáng sớm đã phải gấp gáp chạy về, lập tức dặn dò nha hoàn rồi nói: “Ở chỗ này ăn sáng đi, Nam Hương, lấy thêm chén đũa.”
Cố Kiến Sơn cụp mắt gật đầu: “Vâng.”
Trên bàn cơm Trịnh thị vẫn luôn gắp thức ăn cho Cố Kiến Sơn: “Hiện tại có bị thương chỗ nào không? Ăn nhiều một chút, chắc là ở Tây Bắc không ăn được thứ gì tốt rồi.”
Cố Kiến Sơn cúi đầu ăn cơm, Vĩnh Ninh hầu nói: “Mọi người ở Tây Bắc đều ăn uống như nhau, Kiến Sơn cũng không thể ngoại lệ.”
Ông lại hỏi nhiều thêm vài chuyện, ví dụ như khi nào Cố Kiến Sơn tiến cung, khi nào trở về quân doanh.
Trịnh thị nghe thấy lại không vui: “Hắn vừa mới trở về ông lại hỏi nó khi nào thì đi, không thể nói chuyện khác được sao?”
Cố Kiến Sơn ăn được một lúc đã thật sự nuốt không vô nữa, nói chen vào: “Công việc được giải quyết xong xuôi thì sẽ đi, phụ thân mẫu thân không cần lo lắng, nhi tử còn phải vào cung, con về đổi y phục đã.”
Trịnh thị nói: “Con đã ăn được mấy miếng đâu, ở lại ăn một chút đi.”
Cố Kiến Sơn lắc đầu: “Hoàng Thượng bên kia quan trọng, giữa trưa quay về rồi ăn tiếp.”
Nói xong đã vội vàng rời đi.
Trịnh thị vốn dĩ đang rất vui vẻ, suy cho cùng hắn đi ba tháng, đến tết cũng không về được, bây giờ cũng đã về thì làm sao mà không vui cho được.
Nhưng hắn vội vàng như vậy, cơm nước cũng chẳng ăn đàng hoàng, hơn nữa, Cố Kiến Sơn về nhà lại khiến Trịnh thị nghĩ tới Khương Đường.
Chuyện đó tám phần là sự thật.
Xem thái độ của Lục Cẩm Dao, lại nghĩ tới những việc nhỏ nhặt trước đây, có lẽ còn có rất nhiều chuyện bà không được biết rõ ràng.
Một chút nữa Vĩnh Ninh hầu cũng phải vào triều, thấy dáng vẻ mất tập trung của Trịnh thị bèn cười nói: “Sao vậy, lúc hắn chưa về bà lúc nào cũng nhớ mong, sao người đã về rồi mà bà vẫn không vui như vậy.”
Trịnh thị tức giận nói: “Có nói với ông ông cũng chẳng hiểu đâu.”
Vĩnh Ninh hầu im lặng một hồi rồi mới nói: “Bà không nói thì sao ta hiểu được.”
Trịnh thị thầm nghĩ sao lại chưa từng nói, là mối quan hệ phu thê thân mật nhất, ban đầu có chuyện gì Trịnh thị đều muốn nói với Vĩnh Ninh hầu, nhưng câu trả lời vẫn là những câu mà bà không muốn nghe, hơn nữa trước đây còn có đám Ngô tiểu nương, bà phải chú ý này nọ nên dần dần cũng không muốn nói nữa.
Nếu nói với ông Cố Kiến Sơn đang ái mộ một người, trước đây vốn dĩ là một nha hoàn, hiện giờ đang làm ăn buôn bán thì Trịnh thị cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì.
Trịnh thị muốn nói chuyện đàng hoàng với Cố Kiến Sơn nhưng lại không biết phải mở miệng như thế nào.
Giống như người nào mở miệng trước thì người đó sẽ rơi vào thế bị động.
Tại sao Cố Kiến Sơn lại không chịu nói, chính là đã đoán được bà sẽ không đáp ứng, cho nên mới kéo dài như vậy.