Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân

Chương 373: Lâm Thanh Tùng Đi Sứ Sơn Man




Trước tạm không nói về trận đánh giữa Đặng Thiền Ngọc và Long Thiếu Dương.

Kể từ cái hôm đến gặp Trình Chân Kim về, Lâm Thanh Tùng đã ngựa không dừng vó, vội vội vàng vàng bí mật vào sâu trong núi Hoàng Liên.

Từ núi Lệ Chi, có một đường mòn nhỏ ôm theo vách đá, lắc lư uốn lượn chừng hai dặm thì sẽ dẫn đến một con đường núi, đông có thể thấy dòng Đại Hà chảy qua thành Tế Kỳ, tây có thể tiến sâu vào nội bộ dãy Hoàng Liên. Sách sử chép, năm xưa thời Thánh Tông Lê Hạo Thanh, sơn man đã sử dụng sơn đạo này công vào Đại Việt, từ đó mới có Thủy Thượng quan.

Nếu không phải đường mòn kia chật hẹp, một bên là vách đá, bên kia là vực sâu, gập ghềnh khó đi...

Thì chỉ sợ Lệ Chi sơn sẽ thành vị trí quân sự chiến lược, triều đình Đại Việt sớm đã chiếm đóng từ lâu.

Người Nho môn vốn tố chất thân thể không tốt bằng kẻ tu hành võ đạo hoặc phật đạo, lại thêm Lâm Thanh Tùng hiện giờ tu vi mười không còn một, chỉ còn có thể vận dụng một chút văn khí. Thành thử, tuy đã sử dụng liên tiếp mấy tấm Thần Hành Phù được Phó Kinh Hồng giao cho thì lão vẫn tốn ba bốn ngày đường mới đến được nơi cần đến.

Hoàng Liên sơn mạch...

Dãy núi tung hoành từ bắc chí nam, dài đến gần mười vạn dặm, ngăn cách phương đông và phương tây của Huyền Hoàng giới. Phía đông dãy Hoàng Liên là lục quốc, Lục Trúc Hải, Đại Việt. Còn phía tây là Mộng Huyễn Sâm Lâm – vương quốc của Mộng Yểm Thụ Tinh tộc.

Thế nhưng, ít người biết rằng...

Dãy núi Hoàng Liên thực ra rỗng ruột.

Sâu bên trong lòng núi là một hệ thống hang động rộng lớn và phức tạp, phân làm nhiều tầng, nhiều khu vực khác nhau. Ở đó chẳng những có tinh thể phát sáng, những cánh đồng nấm trải dài ngút ngàn, còn có vô số những dòng sông ngầm mà sau này chảy ra Huyền Hoàng giới. Trên thực tế, toàn bộ sông ngòi trong phạm vi bảy nước đều bắt nguồn từ vùng rỗng trong lòng dãy núi Hoàng Liên này.

Ở thời Thái Tổ, vùng rỗng ruột này được gọi là Sơn Trung. Về sau do sử gia nói là sử dụng cái tên này là phạm húy, nhắc đến tồn tại cấm kỵ từ Phản Thiên Chi Chiến, nên Thái Tông Lê Hạo Thanh mới cho đổi thành Man Quốc, gọi theo sáu nước còn lại.

Sở dĩ có cái tên này, đó là vì lòng dãy Hoàng Liên là nơi cư trú của các tộc sơn man.

Sơn man cũng không phải một chủng loài hay vương quốc thống nhất, mà là do vô số tộc quần không phải nhân loại cũng chẳng phải yêu thú liên kết lại một cách rời rạc, mỗi tộc đều có thủ lĩnh và địa bàn riêng. Trong đó có tộc ngoại hình tương đối giống người, thí dụ như Hồ Ma Huyền Nguyệt, hoặc là Sơn Ẩu. Cũng có những tộc quần hình dáng kỳ dị quái đản, tỉ như tộc Chuyển Hạng có thể quay đầu ra sau lưng, tộc Liệp Man có khớp gối xoay ra sau, tộc Ải Nhân có đôi tai dài dùng để di chuyển và hai bàn chân khéo léo vô cùng.

Các tộc sơn man cũng không đoàn kết một lòng, mà có thái độ khác nhau đối với người bảy nước. Tỉ như các tộc Liệp Man, Chuyển Hạng thích ăn thịt người, đương nhiên là không thể chung sống hòa bình với người Huyền Hoàng giới.

Ngoài ra, cường giả vu đạo thường ẩn trong các tộc sơn man, đóng vai làm thầy mo, tư tế cho họ. Cả Huyền Hoàng giới, ngoại trừ nội bộ Vu Đạo ra không ai rõ bằng cách nào bọn họ lại có thể lập hòa ước với toàn bộ vô số tộc quần trong Man Quốc. Mà cường giả vu đạo từ xưa hành xử thần bí, thủ khẩu như bình, nên cũng không tiết lộ một câu nửa chữ.

Bấy giờ...

Lâm Thanh Tùng khoanh chân, ngồi trên một cái đệm kết bằng tơ trắng phau, nhẹ như mây cuốn. Trước mặt lão là một sinh vật quái đản có nửa thân trên là một người đàn ông, nửa thân dưới là của thân xác một con nhện lớn. Từ phần cổ nhện, phần thân người vươn ra, lưng thẳng tắp, khiến người khác cảm thấy kỳ quái.

Chỉ thấy người nọ nước da đen xám, tóc màu vàng kim xõa đến tận giữa lưng, trước ngực chằng chịt sẹo lớn sẹo nhỏ tạo thành một đồ án kì quái.

Y nhìn Lâm Thanh Tùng một cái, đoạn lại đưa tay nâng chén rượu. Lâm cựu tế tửu cũng không gấp gáp, bình thản uống cạn rượu trong tay, lại tự rót đầy cho mình một chén rượu khác.

Im lặng hồi lâu...

Cuối cùng, quái nhân mới nhẹ nhàng lấy một thanh trường kiếm màu vàng ra. Y vừa lấy vải lau lưỡi kiếm, vừa chậm rãi lên tiếng:

“Không rõ Lâm tế tửu đến tìm tộc Thiên Thù chúng ta làm gì?”

“Hoắc đại sư quá lời. Lần này tại hạ đến đây là có một lời đề nghị.”

Lâm Thanh Tùng cười cười, nhẹ nhàng xoa một đám mồ hôi đã rịn ra ở lòng bàn tay.

Chớ nhìn lúc này chỉ có hắn và Hoắc Trường Ca ngồi trước đống lửa, thực chất hiện tại trong những góc tối ngách khuất của hang động, có lẽ đã có cơ man không biết bao nhiêu nhân thủ tộc Thiên Thù lăm lăm cương nỗ. Chỉ cần kẻ trước mặt ra lệnh một tiếng, Lâm Thanh Tùng dám chắc chỉ trong một khoảng khắc lão sẽ thành con nhím, chưa cần bị kịch độc trên mũi tên giết đã chết vì bị tên sắt xuyên thủng người.



Không sai...

Đại sư luyện khí danh tiếng lẫy lừng cả Huyền Hoàng giới là một “sơn man”.

Đương nhiên, cái gọi là “man” cũng không đồng nghĩa với các tộc Man Quốc có kỹ thuật, văn hóa tụt hậu so với bảy nước. Tỉ như nếu nói thuật luyện khí, tộc Thiên Thù của Hoắc Trường Ca có thể nói là độc bộ thiên hạ, bá tuyệt Huyền Hoàng giới. Nếu nói về công tượng, cơ quan, tay nghề thủ công của Ải Nhân tộc có thể tranh hùng với nhà họ Hàn ở Đại Yến, một chín một mười.

Cái gọi là man di...

Chẳng qua là một cái cớ để bành trướng, để cất quân xâm lược, để trăm họ cùng chung mối thù mà thôi.

Man di không thông giáo hóa, chẳng khác súc sinh...

Không đáng đồng cảm.

Người khác có thể không biết, có thể chê cười sơn man, thế nhưng Lâm Thanh Tùng biết nếu như các tộc sơn man đoàn kết lại, cùng tuyên chiến với bảy nước, vậy thì chuyện một hai nước diệt quốc cũng chẳng phải nói chơi.

Đương nhiên, đấy là trong điều kiện không có một thế lực thứ ba nhúng tay vào.

Hoắc Trường Ca gõ ngón tay, tám cái chân nhện đan đan vào nhau, ra chiều hứng thú lắm.

“Lâm tế tửu nói đùa. Ngài muốn gánh cái tội phản quốc hay sao mà lại đến đàm phán với đám man di chúng ta? Lại nói, nếu tộc Thiên Thù chúng ta thực sự xuất binh, đánh bật quân Đại Việt khỏi Lệ Chi sơn thì chúng ta sẽ được gì? Ngài đừng nói là để tộc ta xuất binh đánh địch, xong chuyện lại cun cút quay về đấy nhé. Chúng ta nào có phải chó người ta nuôi.”

Lâm Thanh Tùng cười cười.

Lão đương nhiên biết trên đời không có chuyện tốt như thế.

Cái gọi là cầu viện đương nhiên cũng chia làm nhiều loại, có cao có thấp. Hạ sách là lấy tư thái thấp hơn, thế yếu cầu viện đối phương, gần giống một loại cầu xin. Như vậy sau này quyền chủ động nằm ở “viện binh”, quan hệ song phương trên thực tế là đồng minh hay chủ – tớ hoàn toàn bằng vào một câu của phe đến “chi viện”.

Thành thử, thứ mà Lâm cựu tế tửu muốn là lấy tư thái ngang hàng xin viện binh của tộc Thiên Thù, nắm quyền chủ động trong tay. Về sau quân của Thiên Thù có nhập quan thì lão và Phó Kinh Hồng cũng dễ bề khống chế, tránh để chi viện binh kia đảo khách thành chủ, vì lòng tham mà biến thành giặc cướp.

Đương nhiên...

Lâm Thanh Tùng cũng không việc gì phải ra hạ sách, đánh cược vào nhân phẩm của tộc Thiên Thù.

“Hoắc đại sư đừng vội từ chối. Lần này Lâm mỗ không chỉ là Lệ Chi sơn, mà còn một người nữa. Đại sư đoán được là ai không?”

Hoắc Trường Ca vốn là tộc trưởng tộc Thiên Thù.

Vốn là, theo lễ phép bình thường, Lâm Thanh Tùng hẳn phải xưng lão là Hoắc tộc trưởng. Thế nhưng Lâm cựu tế tửu sớm đã nghe ngóng được thứ Hoắc Trường Ca tâm đắc nhất cả đời này chính là thuật luyện chế binh khí có một không hai của lão. Thành thử, Lâm Thanh Tùng gọi lão là đại sư chẳng những không khiến Hoắc Trường Ca phản cảm, trái lại còn được lòng lão hơn là giữ đúng lễ phép.

Hoắc Trường Ca nhíu mày, đoạn hỏi:

“Người mà Lâm tế tửu nói là Bích Mặc tiên sinh Nguyễn Đông Thanh?”

“Chính thị.”

Lâm Thanh Tùng gật đầu, thừa nhận. Dù sao, muốn lấy tư thế ngang hàng cầu một đạo viện binh từ Man Quốc, vậy phải có tư cách mới được. Mà lấy thanh danh/xú danh của Nguyễn Đông Thanh lúc này chẳng khác nào một đại sát khí trên mặt trận ngoại giao, bom nguyên tử trên bàn đàm phán.

“Chuyện này...”

Hoắc Trường Ca nhíu mày, còn đang chưa biết nên quyết định thế nào thì từ trong góc động đã có một tiếng nói trong trẻo vọng ra:

“Hoắc lão khoan đáp ứng đã.”



Lâm Thanh Tùng ngồi thẳng người dậy, nhìn về phía âm thanh phát ra. Chỉ thấy ở hướng đó, một thiếu nữ tuổi chừng mười tám chậm rãi bước về phía đống lửa. Nàng này da ngăm bánh mật, mái tóc bạc kim, cặp đồng tử có một màu tím như tử ngọc sâu như hồ nước, cơ hồ có thể hút lấy linh hồn người khác. Thiếu nữ mình mặc một bộ váy màu xanh đậm, bên trên thêu họa tiết sặc sỡ bằng chỉ bạc, cổ tay cổ chân đều đeo chuông vàng. Mỗi cái nhấc tay, bước chân, tiếng chuông reo leng keng lại cất lên, khiến kẻ khác chỉ thấy tâm thần xao động, không tài nào tập trung được.

Lâm cựu tế tửu vội vàng thẳng lưng, chắp tay:

“Không biết vị cô nương đây là?”

“Tiểu bối Vu Trùng đạo, Đàm Đài Ngọc, trước đây từng có dịp may đến Quốc Tử Giám Đại Việt đọc sách mấy năm, bái kiến cựu tế tửu.”

Đàm Đài Ngọc cười, nhẹ nhàng cúi mình, hành lễ học sinh.

Lâm Thanh Tùng cười cười, trong lòng lại thầm đánh giá Đàm Đài Ngọc cao hơn một bậc.

Đừng thấy con bé này vừa xuất hiện đã nói năng lễ độ, hành lễ học sinh mà nhầm. Đàm Đài Ngọc câu trước câu sau đã nhắc đến chuyện lão là “cựu” tế tửu, há chẳng phải đang muốn vạch trần hư thực của Lâm Thanh Tùng cho Hoắc Trường Ca nghe hay sao?

Dù lão không sợ...

Nhưng ngồi đối diện bàn đàm phán với một thiếu nữ tâm cơ như vậy, không thể không có đề phòng.

Lâm Thanh Tùng cười:

“Hoắc đại sư ở trong Sơn Trung có lẽ còn chưa biết. Lâm mỗ trước đây đắc tội Bích Mặc tiên sinh, cuối cùng thảm bại, bị Dực hoàng đế biếm làm môn thần Thính Vũ Lâu.”

Hoắc Trường Ca không ngờ Lâm Thanh Tùng lại thản nhiên thừa nhận chuyện bị biếm chức tế tửu.

Đồng thời càng lấy làm lạ, không hiểu vì sao hiện giờ lão lại lấy tên kẻ từng làm mình thân bại danh liệt ra làm chiêu bài đàm phán.

Đàm Đài Ngọc bỗng nhiên hỏi:

“Lâm lão vừa đến đã nhắc tới Bích Mặc tiên sinh, chẳng nhẽ cầu viện là giả, uy hiếp mới là thật? Lấy thủ đoạn của Nguyễn Đông Thanh, đến cả Phật đạo cũng bị đánh biến dạng, Nho đạo sập mất một góc. Chỉ cần tiên binh hậu lễ, đánh Vu đạo bọn ta một cái coi như oai phủ đầu, vậy há chẳng phải chuyện dễ dàng hơn nhiều rồi hay sao?”

Hoắc Trường Ca lâu ngày chỉ ở trong Man Quốc nghiên cứu luyện khí, lại thêm bảy nước xưa nay đều không ưa gì sơn man, thành thử tin tức ngoài Huyền Hoàng giới cũng có phần bế tắc. Bấy giờ nghe Đàm Đài Ngọc nói một người có thể đánh thương một trong Ngũ Lộ Triều Thiên, đánh biến dạng một nhà khác, đối với lão chẳng khác nào sấm nổ bên tai. Hoắc Trường Ca cứ nghĩ đến cảnh kẻ đáng sợ kia ra tay với tộc Thiên Thù mà rùng mình.

Lâm Thanh Tùng sớm đã tính được đến có người nhắc chuyện này, thành thử cũng đã chuẩn bị đối sách.

Chỉ thấy lão lại tự rót cho mình một chén khác, đoạn nói:

“Đàm Đài tiểu thư, lời thật sao có thể chỉ nói một nửa như vậy? Bích Mặc tiên sinh xưa nay tính tình cổ quái, thường tự xưng là phàm nhân, không muốn động thủ là chuyện giờ này Huyền Hoàng giới đã nhiều người biết. Hai lần ra tay với đại đạo, nếu không phải Nho môn và Phật môn tìm đến tận cửa trước thì tiên sinh há lại hạ thủ?”

Lâm Thanh Tùng ngừng một thoáng, lại tiếp:

“Vẫn nói thánh nhân không thể nhục, trời có đức hiếu sinh. Chuyện của Lâm mỗ há chẳng phải chính là phương châm hành xử của Bích Mặc tiên sinh hay sao?”

Câu này ý tại ngôn ngoại, song cả Đàm Đài Ngọc và Hoắc Trường Ca đều có thể hiểu lão muốn nói gì.

Thánh nhân không thể nhục, chính là nói chuyện Lâm Thanh Tùng bị trừng phạt trở thành thần giữ cửa nhà vệ sinh.

Mà trời có đức hiếu sinh, thì lại có hai tầng ám chỉ. Mặt nổi, là nói Lâm Thanh Tùng đến giờ còn sống nhăn răng hoàn toàn là vì Bích Mặc tiên sinh “mở lòng từ bi”. Nghĩa chìm, vậy thì ám chỉ “sinh lộ” mà Nguyễn Đông Thanh “cho lão” chính là Lâm Thanh Tùng thay hắn làm việc, cũng là nguyên do Lâm cựu tế tửu đến làm thuyết khách cho kẻ đã khiến mình thân bại danh liệt.

Hoắc Trường Ca hít sâu một hơi, mắt thoáng đảo, cuối cùng gõ chân xuống nền hang:

“Muốn tộc Thiên Thù chi viện Lệ Chi sơn các người cũng không phải không được. Thế nhưng... vị Bích Mặc tiên sinh kia thần bí như vậy, lão hủ muốn được gặp mặt một phen. Không biết Lâm cựu tế tửu có thể sắp xếp giúp không?”