Ba ngày sau...
Bí cảnh của Kiếm Trì – Thương Lan kiếm vực – chính thức được mở ra.
Ngay từ sáng sớm, ba người Lý, Tạ, Đỗ đã được Chân Lợi Kiếm và Phùng Thanh La dẫn đến trước một vách đá. Nơi này nằm khá xa Tẩy Kiếm Trì, bốn bề vắng vẻ toàn cây và đá, trong phạm vi trăm bước chân tuyệt nhiên không thấy bất cứ một mái nhà nào.
Ba vị kiếm tổ và Ngô Quốc Văn, Trịnh Lan Anh, Phó Quân Sước đã đứng chờ sẵn, bên cạnh là một phiến đá cao cỡ năm xích. Hai người Ngô, Trịnh có mặt ở đây thì đã hẳn, riêng Phó Quân Sước thì được đặc cách tham gia vào lần Thương Lan kiếm vực này do đã có công kiếm được cho Kiếm Trì một pho Mỹ Nữ kiếm pháp.
Phiến đá đen kịt, trông như đá cuội dưới sông, bề mặt nhẵn bóng, cơ hồ có thể soi gương được. Lý Thanh Vân nhìn thứ này, bèn đoán đó chính là Vấn Tâm Thạch của Kiếm Trì.
Liễu Ân thấy mọi người đã có mặt đông đủ, bấy giờ mới lên tiếng:
“Từ giờ đến lúc Kiếm Vực xuất hiện hãy còn một canh giờ nữa. Bích Mặc tiên sinh xưa nay không hỏi chuyện tu hành tục sự, chắc hẳn cũng không nói cho ba vị bí cảnh rốt cuộc là gì. Nếu ba vị không chê ba người bọn ta tài sơ học thiển, thì xin được giải thích tường tận...”
Kỳ thực, còn có một nguyên do mà Liễu Ân đề nghị thay Nguyễn Đông Thanh giải thích cho ba người Lý, Tạ, Đỗ về bí cảnh mà lão chưa nói: Bích Mặc tiên sinh rất có thể là một sinh linh đi ra từ bí cảnh.
Lý Thanh Vân và Đỗ Thải Hà cùng “à” lên một tiếng, nói:
“Quả đúng như lời kiếm tổ.”
Hai người một thì không phải xuất thân trong giới tu hành, đến tận lúc lên thành Cổ Long nhận tổ tông thì cũng chỉ có tu vi tam cảnh. Người còn lại tuy là đệ tử của núi Long Hổ, song chỉ cắm đầu vào dùi mài đạo pháp để báo thù, thành thử cũng không chú ý gì đến những chuyện khác. Cô nàng lại phản bội sư môn quá sớm, chưa kịp chờ lúc Bí Cảnh mở cửa đã té sang Quan Lâm rồi.
Thành thử, hai người thực tình không hiểu rốt cuộc bí cảnh là gì, chỉ biết những sinh linh trong đó cơ hồ đều không hề có chân khí.
Nói theo cách nào đó thì rất giống ông sư phụ của bọn họ.
Hai người Lý, Đỗ chợt nhìn sang chỗ Tạ Thiên Hoa, bụng bảo dạ cô nàng là thánh nữ của tộc Thanh Tước, vốn là một trong năm thánh tộc ở Huyền Hoàng giới.
Chắc hẳn là sẽ biết chuyện liên quan đến bí cảnh.
Tạ Thiên Hoa đỏ mặt lên, nói:
“Chuyện này...”
Liễu Ân đang định ngăn cản, nhưng đã chậm mất một chút. Trần Thanh Lãng cười hề hề, lên tiếng:
“Lục Trúc Hải quả thực cũng có bí cảnh, tuy nhiên phải năm sáu mươi năm mới mở một lần. Tạ cô nương năm nay mới có ba mươi mấy tuổi, làm sao có thể vào được?”
“Sư... cô?”
Hai người Đỗ Thải Hà, Lý Thanh Vân đều nhìn về phía Tạ Thiên Hoa.
Nhìn thiếu nữ thanh thuần, thanh xuân tịnh lệ, té ra tuổi còn cao hơn cả Nguyễn Đông Thanh.
Tạ Thiên Hoa dậm chân, sẵng giọng, phụng phịu:
“Chuyện này... chuyện này... em có phải con người đâu, sao dùng tuổi thọ của nhân loại mà tính được?”
Chuyện này đương nhiên hai người Lý, Đỗ vẫn biết từ trước, song vẫn muốn trêu chọc cô nàng một phen.
Lâm Phương Dung hắng giọng, nói:
“Thôi được rồi. Đừng có trêu chọc nhau nữa. Liễu kiếm tổ, nếu ba vị cao đồ của Bích Mặc tiên sinh đã không hay không biết gì về bí cảnh, vậy thì cảm phiền kiếm tổ tiếm quyền một phen.”
Liễu Ân đáp:
“Đã hẳn, đã hẳn. Chuyện là như vậy...”
Đoạn, lão hắng giọng một tiếng, bắt đầu giải thích cho ba người Lý, Tạ, Đỗ về các bí cảnh ở Huyền Hoàng giới.
Bí cảnh giống như những kẽ nứt không gian thình lình xuất hiện ở Huyền Hoàng giới. Người ta không biết chúng xuất hiện từ lúc nào, hay vì sao lại tồn tại, chỉ biết là muôn hình vạn trạng, chẳng cái nào giống với cái nào.
Trong một số văn tự cổ có niên đại từ thời Long – Lân đại chiến, thì trước khi Long tộc xuyên qua Tinh Không đến Huyền Hoàng giới, bí cảnh hãy còn chưa xuất hiện. Từ đó, cao tầng các nhà Nho Đạo Phật Vu Võ mới có phỏng đoán bí cảnh chính là những tiểu thế giới theo chân Long tộc đến Huyền Hoàng giới.
Các bí cảnh giống như có quy tắc riêng, hoàn toàn tách hẳn khỏi dòng sông thời gian của Huyền Hoàng giới. Có chỗ một khắc trong đó cũng là một ngày bên ngoài, lại có nơi bên trong đã mấy năm, phía ngoài mới chỉ một cái nháy mắt.
Kích thước cũng không đồng đều. Cái nhỏ thì có khi chỉ bằng cái chùa cái miếu, độ nửa sào ruộng. Còn cái lớn thậm chí có thể rộng bằng châu thành, bằng quận huyện, bát ngát bao la.
Song, mặc cho thời gian quay nhanh hay chậm, không gian rộng lớn hay chật hẹp, thì bí cảnh cũng là nơi chứa đầy kỳ ngộ. Nào là hạt giống kỳ lạ, sinh vật quái đản, rồi thì khoáng vật đặc biệt, thần thông pháp bảo chưa từng trông thấy bao giờ. Hơn nữa... mỗi lần bí cảnh mở ra, một lượng lớn chân khí lại theo cửa ra vào tràn xuống Huyền Hoàng giới.
Thế lực có bí cảnh trong tay lập tức có thể trở thành thánh địa – cấm địa. Mà thời đại nào các bí cảnh nhất loại hiện thế, khiến chân khí ở Huyền Hoàng giới nồng đậm tới một đỉnh điểm, thì gọi là Đại Tranh Chi Thế.
Có thể nói, ở Huyền Hoàng giới này, thứ người ta tranh giành nhau ác liệt nhất không phải thiên tài địa bảo, cũng chẳng phải pháp bảo truyền thừa, mà chính là bí cảnh.
Cũng vì truyền ngôn bí cảnh theo chân Long tộc mà đến, nên mấy ngàn năm trước, sáu nước phát động Phạt Hải Đại Chiến.
Phạt Hải Kiếm Thánh của Kiếm Trì cũng chính là một cường giả sinh ra trong trận chiến năm ấy.
Mà cũng vì nguyên nhân này, Mỹ Vị sơn trang tuy đường đường là thế lực do người khai đạo – đạo tổ trù đạo Trương Thất – sáng lập, nhưng lại không phải một thánh địa. Trái lại, Phần Thiên Cốc và Kiếm Trì tuy không có lão tổ đạt tới bán bộ thập cảnh, bắt đầu chứng đạo thiên địa như Mỹ Vị sơn trang, lại có thể được người đời vinh danh tôn sùng.
Lại nghe Vân Hà kiếm tổ nói tiếp:
“Bí cảnh ở Kiếm Trì gọi là Thương Lan Kiếm Vực, bình thường cứ năm năm sẽ mở ra một lần. Không gian bên trong rộng xấp xỉ ải Quan Lâm, Ba ngày trong bí cảnh thì bằng một ngày bên ngoài.
“Sau một tháng, cũng tức là mười ngày ở ngoại giới, bí cảnh sẽ đóng lại. Ba vị xin ghi nhớ chuyện này, nếu không quay trở lại kịp, thì ba người chúng ta cũng lực bất tòng tâm.”
Y dừng một chốc, lại tiếp:
“Bí cảnh này biến hóa đa đoan, mỗi lần mỗi khác, Kiếm Trì tuy nắm được Thương Lan kiếm vực trong tay, song cũng không nói trước được ba vị vào đó sẽ gặp phải những gì. Thế nên, hành xử phải hết sức cẩn thận, chớ vì sinh linh bí cảnh hoàn toàn không có chân khí mà coi thường.”
Ba người Lý, Tạ, Đỗ vâng dạ, âm thầm ghi tạc hết những gì Kiếm Trì tam tổ vừa phổ biến cho mình.
Phùng Thanh La lại tiến lên một bước, đưa cho ba người mỗi người một miếng ngọc bội, nói:
“Cảm ơn Phùng thánh nữ.”
Lý Thanh Vân chắp tay hành lễ.
Bấy giờ, chợt trên bầu trời có mây lành bảy sắc kéo đến, tỏa ra ánh hào quang rọi lên vách đá trơ trọi trước mặt. Thình lình, gió nổi, hương thơm kì dị bắt đầu phả vào không khí. Những tia sáng nhẹ nhàng bện vào nhau, cuối cùng hình thành nên một cánh cổng, trông qua thì rất giống cổng truyền tống ở các thành lớn.
Từ cánh cổng ánh sáng, chân khí tràn ra ồ ạt chẳng khác nào một biển sương dày, nháy mắt đã thẩm thấu lan tỏa ra hết cả ngọn Vọng Hương sơn, khiến hàm lượng chân khí trong Kiếm Trì cơ hồ nhiều lên gấp đôi. Không cần là kẻ thông minh tuyệt đỉnh cũng có thể mường tượng ra, một khi có thể thích ứng với hàm lượng chân khí mới này, tốc độ tu hành tuyệt nhiên sẽ tăng cao, ngót nghét cũng phải gấp đôi.
Tam tổ vung tay một cái, giống như là khởi động trận pháp hộ sơn. Ba người bọn họ không giải thích, song đám Tạ Thiên Hoa có thể đoán mục đích của trận pháp hẳn là vừa giữ cho chân khí khỏi trôi đi, vừa để giúp đệ tử Kiếm Trì không bị sốc do hàm lượng chân khí tăng đột biến.
Lâm Phương Dung chỉ vào cánh cổng ánh sáng:
“Thời gian cũng không còn sớm, mau vào bí cảnh đi.”
Tám thiếu niên nam nữ gật đầu một cái, đoạn cũng chẳng hề do dự, tung mình nhảy vào trong cánh cổng ánh sáng.
Bí cảnh... rốt cuộc là tồn tại thần kỳ thế nào?
Liệu sư phụ có phải sinh linh bí cảnh hay không?
Hiện tại, trong đầu ba người Lý, Tạ, Đỗ hiển hiện duy nhất hai câu hỏi này. Thành thử, đối với lần lịch luyện vào Kiếm Vực này, bọn họ cũng thấy háo hức mong chờ.
oOo
Bịch.
Đỗ Thải Hà rơi xuống một thảm cỏ, phát hiện phía trước là một cái hồ lớn. Trên hồ sóng xanh dập dìu, loáng thoáng phương xa, có một công tử áo trắng đang ngồi, hai thiếu nữ một áo đỏ một áo xanh một chống thuyền, một ca hát.
Trông thực là có mấy phần tiêu sái.
Đỗ Thải Hà tuy lấy làm tò mò, nhưng không vội vàng đến dò xét, mà núp ở một xó kiểm tra xem các loại thủ đoạn của mình có còn hữu dụng hay không.
Phù chú, chân khí, trận pháp...
Sau khi cô nàng chắc chắn tất cả các loại thủ đoạn bảo mệnh đều hoạt động bình thường, thì cái thuyền có ba người nam nữ kia đã chèo đi mất. Đỗ Thải Hà mới yên lặng lấy ra một con hạc giấy gấp từ giấy bùa, thổi một hơi chân khí vào người nó.
Lập tức, con vật bằng giấy đón gió hóa lớn, vũ động hai cánh mà huyền không. Đỗ Thải Hà ngồi lên lưng hạc, đoạn khống chế nó bay về phía cái hồ định tìm ba người thiếu niên nam nữ.
Cô nàng bay trên cao tìm hồi lâu, song cũng đành lực bất tòng tâm. Cái hồ nước ban đầu được nối với những dòng sông nhỏ hơn, chằng chịt giống như mê cung, chỗ nào cũng giống chỗ nào. Đỗ Thải Hà hiện tại muốn trở về bên bờ hồ chỗ nhìn thấy ba người kia còn khó, nói chi là tìm người.
Chợt, giữa dòng có tiếng người đanh như tiếng chuông cất lên:
“Mô phật! Tiên trưởng xin dừng gót!”
Đỗ Thải Hà nhìn xuống, chỉ thấy lúc này ở giữa dòng nước có một nhà sư đạp trên con thuyền nhỏ, cứ chới với quay vòng vòng một chữ không cách nào tiến lên hay lùi xuống được.
“Ông gọi ta?”
“Phải, phải.”
Đỗ Thải Hà cho hạc giấy hạ thấp xuống, mặt đối mặt với nhà sư. Chỉ thấy người này tuổi chưa đến năm mươi, vẻ mặt tường hòa như châu ngọc phát hào quang.
Chợt, cô nàng bỗng thấy trên đầu y hiện lên một một cái thanh màu đỏ, trên lại có ba chữ “Cưu Ma Trí”.
Đỗ Thải Hà hơi lui lại đằng sau, nghi hoặc nhìn chằm chằm vào thứ vừa xuất hiện trên đầu lão, lẩm bẩm:
“Cưu Ma Trí???”
“Tiên trưởng quả thực là tuệ nhãn như đuốc, vậy mà có thể biết được tục danh của tiểu tăng?”
Lão tăng đạp trên thuyền giật mình, buột miệng lên tiếng.