Chú Sáu Đệ tỉnh giấc trong cơn sợ hãi tột độ.
Rốt cuộc thì giấc mơ mà chú nhìn thấy thật chân thật đến nghẹt thở.
Chú thậm chí còn thấy mùi vị của giếng nước quen thuộc trên mặt.
Chú sờ sờ mặt.
không chỉ mặt chú mà cả người đều ướt sũng mồ hôi.
Hơi lạnh từ đồng cỏ bên ngoài phả vào lều khiến chú càng thêm lạnh.
Chú Sáu Đệ quấn chiếc chăn thêm chặt vào người.
Xung quanh ngôi lều, bóng tối vẫn bủa vây lấy, làm chú Sáu Đệ càng thêm sợ hãi.
Chú không dám với tay vén lều lên để nhìn ra ngoài.
Chú sợ sẽ có một khuôn mặt lạ kỳ nào đó đứng sẵn chờ chú và kéo chú vào bóng tối như đã làm.
Cứ thế chú Sáu Đệ ngồi co ro cho đến sáng.
Buổi sáng bên ngoài đồng cỏ sương mù dày đặc.
Thế nhưng người trong làng đã bắt đầu tỉnh dậy.
Bên ngoài tiếng nói cười ríu rít bắt đầu vang lên, xua đi cái cảm giác cô đơn sợ hãi trong lòng chú Sáu Đệ.
Chú vén tầm màn của túp lều lên.
Trời bắt đầu hửng sáng.
Mặc dù không thấy ai nhưng mà chú Sáu Đệ có thể thở phào nhẹ nhõm.
Chú bất đầu lục lọi trong tay nải, tìm quần áo để thay cho bộ quần áo ướt sũng trên người.
Khô ráo thoải mái, chú bắt đầu xỏ giày ra ngoài tìm chỗ đi tè- nhịn cả đêm làm chú bức bối lắm rồi.
Chú Sáu Đệ cũng không đi xa, chỉ cách căn lều tầm ba mươi thước thôi.
Ở đó có một bụi hoa dại rậm rạp.
Những bông hoa năm màu mọc lên đẹp và rực rỡ.
Cái loài hoa mà người ta vẫn gọi nó bằng cái tên xấu xí – hoa cứt lợn.
Chú Sáu Đệ vừa giải quyết nỗi buồn vừa thơ thẩn ngắm hoa.
Cánh hoa tươi tắn đọng lại không ít sương sớm trông thật long lanh và đẹp đẽ.
Chờ cho xả hết, chú Sáu Đệ tung tăng trở về.
Chú ngắt lấy một đóa hoa.
Hoa có mùi hăng hắc, không thơm và gây khó chịu.
Chú Sáu Đệ thậm chí còn ngửi thấy mùi nước giếng trong nhà chú.
Chú khịt khịt mũi.
Cái mùi nước quen thược đến từ bông hoa chú đang cầm trên tay, chính xác hơn là từ những giọt sương sớm.
Xuyên qua bóng dáng của mình trên hạt sương, chú Sáu Đệ nhìn thấy cái bóng trắng đêm qua.
Nó lẳng lặng đứng phía sau chú, bất ngờ nở nụ cười.
*******************
Sáng hôm sau tỉnh giấc, chú Miên cảm thấy thật mệt mỏi.
Không chỉ đầu mà chân tay của chú cũng rũ rượi.
Sờ tay lên trán, chú thấy nóng hôi hổi.
Chú biết mình bị cảm rồi.
Rốt cuộc cả đêm qua ngồi trông chừng bên bếp lửa, giữa sương gió.
Chú Miên cũng không nói gì, loạng choạng đứng dậy.
Chú vơ lấy chiếc khăn trên xe ngựa đi ra ngoài đồng.
Cách khu trại đóng quân chừng ba trăm thước có một cái hồ khá rộng.
Hôm qua mọi người vẫn lấy nước rửa ráy tắm giặt ở đấy.
Chú Miên thả giày lội xuống hồ.
Nước hồ lạnh buốt đến tận xương.
Chú thấm ướt chiếc khăn bắt đầu rửa mặt.
Hơi lạnh như quét sạch cơn tỉnh ngủ và choáng váng do sốt của chú.
Hôm nay sẽ lại là một ngày đi đường dài.
Chú cần phải làm gương cho mọi người.
Thế nhưng, vừa bước lên bờ, cả người chú Miên bỗng run rẩy từng đợt.
Không phải do cơn sốt, cũng không phải do lạnh mà chú vừa nhận ra nước hồ có cái mùi quen thuộc.
Mùi của hồ Kinh Dạ.
Một cái mùi hương mà chú đã quen thuộc suốt hơn ba mươi năm.
Thậm chí cho dù tiến vào quan tài rồi chú vẫn có thể nhớ kỹ nó.
Có thể với người khác thì sẽ còn nghi vấn này nọ, nhưng đối với chú Miên, chú có thể khẳng đinh: con quỷ tìm đến rồi.
Nó tìm thấy chú và mọi người trong làng.
Rũ bỏ đi cảm giác sợ hãi, chú Miên suy tư làm sao để cứu được càng nhiều người trong làng càng tốt.
Nhưng chú không biết rốt cuộc ai đã bị hại, và ai là người mà con quỷ đã nhập vào.
Nếu vội vàng, con quỷ phát hiện ra, không chỉ chú mà tất cả người dân làng đều chết hết.
Chú Miên cắn răng suy nghĩ.
Môi chú mím lại, đôi mắt hơi nheo lại, vẻ mặt tập trung.
Con quỷ đến đây rồi, vốn dĩ đêm qua chú ngủ một mình ngoài trời, là đối tượng mà nó có thể dễ dàng nhập vào, dễ dàng khống chế lấy dân làng và làm hại bọn họ.
Thế nhưng nó không làm vậy.
Lý do là gì? Đôi mắt chú Miên sáng lên.
Con quỷ tự đại.
Nó cho rằng nó có thể giết hại mọi người bất cứ lúc nào.
Và hơn hết, nó muốn “chơi đùa” với mọi người.
Thức ăn của quỷ chưa bao giờ là linh hồn con người.
Bắt đầu bao giờ chúng chỉ ăn những cảm xúc: vui buồn, đau đớn, sợ hãi,….
mà con người tạo ra.
Con người càng hoảng sợ, càng đau đớn thì chúng càng vui vẻ và khỏe lên.
Chúng chỉ ăn đi linh hồn người khi không có gì có thể ăn từ họ nữa.
Việc ăn linh hồn giống như việc húp nước canh sau khi vét sạch thịt và rau trong bát vậy.
Chú Miên bấm bấm ngón tay.
Nếu dùng ngựa và thuật pháp để chạy bộ thì từ phủ lộ Bình An tới đây cũng mất gần hai ngày.
Chú muốn đánh cuộc rằng con quỷ sẽ chỉ dọa dẫm mà chưa giết hại tất cả mọi người trong hai ngày đấy.
Chú Miên lôi từ trên vành mũ ra một lá bùa.
Lá bùa có vẽ nhiều hoa văn thần bí rất đẹp.
Tiệng đi qua một chiếc nồi nấu cơm, chú Miên thả luôn lá bùa vào bếp lửa.
Lá bùa đốt cháy lên, và rung động nhè nhẹ, gửi những lời kêu gọi tới một lá bùa khác ở phương xa.
Người ta thường gọi nó là lá bùa mẫu tử.
Khi người cầm lá bùa còn lại nóng bỏng thì biết lá bùa mẹ đã bị thiêu hủy, và người cầm nó lâm vào nguy hiểm.
Đây là là bùa hộ mệnh cuối cùng mà người bạn Lê Minh Sơn lưu lại cho chú Miên.
Chỉ cần thông báo, chưởng môn của phái Phổ Linh sẽ hiểu được và tiến đến cứu trợ.
Nhưng có lẽ chú Miên cũng không ngờ được rằng lá bùa còn lại hiện tại đang trong nằm tay Minh Dũng.
Còn người bạn vong niên Lê Minh Sơn của chú, có lẽ đã bước chân xuống địa ngục trước cả chú rồi..