Giờ thứ 43 của 45
Mel Cooper, tay đã xỏ sẵn đôi găng latex, đang đứng cạnh cái xác của người thanh niên họ tìm thấy trong Công viên Trung tâm.
“Tôi có thể thử dưới hai bàn chân”, anh gợi ý, không giấu được vẻ chán nản.
Những dấu vân dưới bàn chân cũng đặc trưng không khác gì dấu vân tay nhưng chúng cũng chẳng có giá trị gì nếu như họ không có mẫu lưu của đối tượng tình nghi; dấu vân chân không được lưu giữ trong các cơ sở dữ liệu AFIS.
“Đừng mất công làm gì”, Rhyme lầm bầm.
Cái xác này là của ai được nhỉ? Rhyme tự hỏi, mắt không rời cái xác tàn tạ trước mặt mình. Anh ta chính là chìa khóa cho hành động tiếp theo của tên Vũ công. Ôi, đây thật là cảm giác tồi tệ nhất trần đời: giống như một chỗ ngứa không thể nào với tới. Khi có một vật chứng ở ngay trước mặt, khi đã biết nó là chìa khóa của vụ án, vậy mà vẫn không thể nào giải mã nổi.
Ánh mắt Rhyme vơ vẩn lướt sang bản sơ đồ bằng chứng treo trên tường. Cái xác cũng giống như những mẫu sợi màu xanh họ tìm thấy trong hangar – quan trọng, Rhyme linh cảm được, nhưng ý nghĩa của chúng thì vẫn hoàn toàn mờ mịt.
“Còn gì nữa không?”, Rhyme hỏi tay bác sĩ lưu động vừa từ phòng pháp y của Sở Cảnh sát đến. Anh ta đã đến cùng với cái xác kia. Bác sĩ pháp y là một người đàn ông còn trẻ, nhưng đã bắt đầu hói, mồ hôi rịn ra thành từng chùm lớn trên trán anh ta. Tay bác sĩ pháp y nói, “Anh ta là người đồng tính, hay nói chính xác hơn, anh ta từng có lối sống của một người đồng giới khi anh ta còn trẻ. Có thể thấy anh ta đã nhiều lần quan hệ tình dục bằng đường hậu môn cách đây một vài năm, mặc dù gần đây thì không”.
Rhyme hỏi tiếp, “Vết sẹo kia cho anh biết điều gì? Phẫu thuật à?”.
“Chậc, đó là một vết rạch chính xác. Nhưng tôi không hiểu vì lí do gì mà lại phải mổ ở đó. Có thể là do tắc ruột. Nhưng ngay cả như thế chăng nữa tôi cũng chưa bao giờ nghe nói đến trường hợp có bác sĩ lại tiến hành mổ cho bệnh nhân ở vị trí hõm ổ bụng đó.”
Rhyme thầm tiếc là Sachs không có mặt ở đây. Anh muốn được ném vung vãi những suy nghĩ của mình ra với cô. Chắc chắn cô sẽ nghĩ được điều gì đó mà anh đã bỏ qua.
Anh ta có thể là ai được nhỉ? Rhyme suy nghĩ đến nát óc. Xác định nhân dạng là một ngành khoa học phức tạp. Anh đã từng có lần dựng lại được nhân dạng của một người đàn ông với đúng một cái răng duy nhất và không gì khác. Nhưng đây là quá trình đòi hỏi rất nhiều thời gian – thường là phải nhiều tuần không thì nhiều tháng.
“Kiểm tra nhóm máu và đặc điểm ADN”, Rhyme nói.
“Anh nói rồi còn gì nữa”, tay bác sĩ pháp y nói. “Chính tôi đã gửi các mẫu đi đối chiếu rồi.”
Nếu nạn nhân có phản ứng dương tính với HIV điều đó có thể giúp họ xác định danh tính của anh ta qua các bệnh viện hoặc bác sĩ. Nhưng nếu không còn manh mối nào để điều tra tiếp, thì việc phân tích nhóm máu cũng chưa chắc đã giúp được gì.
Vân tay...
Mình sẵn sàng đánh đổi bất kỳ điều gì để có một dấu vân tay tử tế, Rhyme thầm nghĩ. Có thể…
“Chờ đã!”, Rhyme bật cười thành tiếng. “Chim của anh ta!”
“Gì cơ?” Sellitto há hốc miệng.
Dellray thì nhíu mày khó hiểu.
“Anh ta không còn tay. Nhưng còn một phần cơ thể mà chắc chắn anh ta đã phải động tay vào thì sao?”
“dương v*t”, Cooper thốt lên. “Chỉ cần anh ta có đi tiểu trong vòng vài giờ qua là rất có thể chúng ta sẽ lấy được dấu vân tay!”
“Ai muốn đảm đương vinh dự này nào?”
“Chẳng có công việc gì là quá ghê tởm”, người kỹ thuật viên nói gọn lỏn, rồi lồng thêm một lớp găng tay latex khác. Anh bắt tay vào công việc với những tấm phim in da Kromekote. Và anh lấy được hai mẫu vân tay hoàn hảo – một dấu vân của ngón tay cái phía trên đầu dương v*t của cái xác và một dấu vân của ngón trỏ ở phía dưới.
“Tuyệt lắm, Mel.”
“Đừng kể với bạn gái tôi đấy”, người kỹ thuật viên ngượng ngùng nói. Anh nhập dấu vân tay vừa tìm được vào hệ thống AFIS.
Dòng tin nhắn hiện lên trên màn hình: Xin vui lòng chờ... Xin vui lòng chờ...
Cầu trời là có trong hồ sơ, Rhyme tuyệt vọng tự nhủ. Cầu trời là có trong hồ sơ.
Đúng là có thật.
Nhưng khi kết quả được gửi về, Sellitto và Dellray, hai người đứng gần nhất với máy tính của Cooper, trừng trừng nhìn màn hình như không tin vào mắt mình.
“Thế quái nào thế này?”, viên thám tử thốt lên.
“Sao thế?”, Rhyme hét lên. “Đó là ai vậy?”
“Đó là Kall.”
“Cái gì?”
“Đó chính là Stephen Kall”, Cooper nhắc lại. “Tỉ lệ trùng khớp là 20/20. Không thể nghi ngờ gì nữa.” Cooper tìm lại dấu vân tay tổng hợp mà họ đã lắp ghép được trước đó để xác định danh tính tên Vũ công. Anh đặt nó lên bàn cạnh tấm phim Kromekote. “Giống nhau hoàn toàn.”
Thế là thế nào? Rhyme ngơ ngẩn tự hỏi. Tai sao lại có chuyện đó?
“Thế biết đâu”, Sellitto nói, “đó chỉ là dấu vân tay của Kall trên chim của gã này thì sao? Biết đâu Kall lại là một tên nghiện khấu dâm?”.
“Chúng ta đã có mẫu ADN từ máu của Kall, đúng không? Được lấy ở tháp nước ấy?”
“Đúng rồi”, Cooper cũng nhớ ra.
“Hãy so sánh chúng với nhau”, Rhyme ra lệnh. “Tôi muốn có kết quả phân tích mẫu ADN của cái xác này. Và tôi muốn có nó ngay bây giờ.”
Chất thi vị chưa hề mất đi trong con người hắn.
“Vũ công Quan tài”… mình thích cái tên đó, hắn tự nhủ. Nghe hay hơn nhiều so với “Jodie” – cái tên được hắn lựa chọn cho phi vụ này vì nghe nó hoàn toàn không có gì đáng sợ. Một cái tên ngu xuẩn, một cái tên vô nghĩa.
Vũ công...
Tên gọi rất quan trọng, hắn biết điều đó. Hắn cũng nghiên cứu triết học. Nghệ thuật đặt tên – phân biệt từng cá thể – chỉ có ở loài người. Lúc này đây tên Vũ công đang thì thầm nói với Stephen Kall quá cố và chỉ còn là cái xác cụt tay: Kẻ mà ngươi nghe nói tới chính là ta. Chính ta là người chuyên gọi các nạn nhân của mình là “xác chết”. Ngươi gọi chúng là Người vợ, là Người chồng, là Người bạn, muốn thế nào cũng được.
Nhưng một khi đã có kẻ thuê ta giết thì chúng chỉ còn là xác chết. Đơn giản thế thôi.
Mặc trên người bộ đồng phục của một cảnh sát Tư pháp Mỹ, hắn bắt đầu bước dọc hành lang mờ tối bỏ lại xác chết của hai nạn nhân. Tất nhiên hắn không thể nào tránh được việc bị máu dây vào quần áo, nhưng trong bóng tối mờ ảo của khu nhà giữa rừng này cũng khó có thể nhận ra những mảng máu đỏ bầm thấm vào bộ đồng phục cảnh sát màu xanh hải quân.
Lên đường đi tìm Xác chết số ba.
Người vợ, nếu ngươi thích gọi thế, Stephen. Ngươi mới thật là một sinh vật phức tạp và yếu đuối làm sao. Với hai bàn tay lúc nào cũng được cọ sạch và một con chim lạc lối! Người chồng, Người vợ, Người bạn…
Xâm nhập, Đánh giá, Đánh lạc hướng, Tiêu diệt…
À, Stephen… Lẽ ra ta có thể dạy ngươi rằng trong cái nghề này chỉ có một quy tắc duy nhất: Phải đi trước một bước so với bất kỳ kẻ nào.
Giờ đây hắn đã có hai khẩu súng ngắn nhưng hắn sẽ chưa dùng đến chúng vội. Hắn không bao giờ muốn ra tay một cách bất cẩn. Chỉ cần sơ sẩy lúc này hắn sẽ không bao giờ còn cơ hội giết Percey Clay trước khi bồi thẩm đoàn triệu tập sáng ngày hôm đó.
Nhẹ nhàng di chuyển vào phòng riêng nơi hai cảnh sát bảo vệ khác đang ngồi, một người đang đọc báo, người kia đang xem ti vi.
Người thứ nhất ngẩng đầu lên, liếc nhìn tên Vũ công, nhìn thấy bộ đồng phục, cúi xuống đọc báo tiếp. Rồi lại ngẩng lên.
“Chờ chút”, viên cảnh sát lắp bắp, bất thình lình nhận ra anh ta không biết khuôn mặt này.
Nhưng tên Vũ công không chờ.
Hắn trả lời bằng hai tiếng xoẹt, xoẹt vào cả hai bên động mạch cảnh. Người cảnh sát đổ gục về phía trước và chết trên trang sáu của tờ Daily News lặng lẽ đến nỗi cộng sự của anh ta vẫn dán mắt vào màn hình ti vi, nơi một phụ nữ tóc vàng đeo cơ man nào là trang sức bằng vàng đang thao thao giải thích cô ta đã gặp bạn trai của mình qua một lần lên đồng gọi hồn như thế nào.
“Chờ á? Chờ cái gì?”, người cảnh sát thứ hai hỏi, mắt vẫn không rời khỏi màn hình.
Anh ta chết hơi ồn ào hơn một chút so với cộng sự của mình, nhưng có vẻ như không một ai trong ngôi nhà nghe thấy. Tên Vũ công đặt hai cái xác nằm xuống sàn, rồi kéo họ vào dưới gầm bàn.
Ra đến cửa sau hắn dừng lại kiểm tra chắc chắn là không có thiết bị cảm ứng trên khung cửa rồi mới lẻn ra ngoài. Hai cảnh sát đứng gác phía trước rất cảnh giác, nhưng ánh mắt của họ không hướng về ngôi nhà. Một người liếc nhanh về phía tên Vũ công, khẽ gật đầu chào, rồi quay lưng lại và tiếp tục quan sát. Một ánh bình minh đang bắt đầu hé lên phía chân trời, nhưng trời vẫn còn đủ tối để anh ta không nhận ra hắn. Cả hai cùng chết mà hầu như không kịp kêu một tiếng.
Đến lượt hai người gác phía sau, ở trạm gác nhìn ra hồ nước, tên Vũ công nhẹ nhàng đến phía sau họ. Hắn thọc dao vào tim một người cảnh sát bằng nhát đâm từ phía sau lưng và rồi xoẹt, xoẹt, cắt phanh cổ họng của người cảnh sát thứ hai. Nằm trên mặt đất, người cảnh sát thứ nhất bật ra một tiếng thét xé lòng trước khi chết hẳn. Nhưng một lần nữa dường như không có ai nghe thấy; có lẽ vì âm thanh nghe giống hệt tiếng kêu của một con chim lặn gavia[121] đang đón chào ánh ban mai tuyệt đẹp phớt hồng pha ánh xám đang hửng dần, tên Vũ công tự nhủ.
Coi như Rhyme và Sellitto đã lụt cổ trong món nợ ngân sách khi bản fax in kết quả phân tích ADN được chuyển đến. Kết quả được đưa ra bằng phương pháp xét nghiệm nhanh, nhưng hầu như cũng đủ để đưa ra kết luận cuối cùng; tỉ lệ vào khoảng 6000/1 rằng cái xác trước mặt họ lúc này chính là Stephen Kall.
“Có kẻ đã giết hắn?”, Sellitto thốt lên. Áo sơ mi của anh nhàu nhĩ đến nỗi trông nó giống như hình ảnh của một mẫu sợi vải được đặt dưới ống kính hiển vi có độ phóng đại năm trăm lần. “Tại sao chứ?”
Nhưng tại sao lại không phải câu hỏi trong đầu nhà hình sự học lúc này.
Bằng chứng… Rhyme tự nhủ. Bằng chứng là mối quan tâm duy nhất của anh.
Anh liếc nhìn lên những hồ sơ hiện trường vụ án treo trên tường, đảo qua tất cả những đầu mối của vụ án. Những mẫu sợi, đầu đạn, mẩu kính vỡ…
Chú thích
[121]Chim lặn gavia: Một giống chim ăn cá phổ biến ở Bắc Mỹ, giống như chim cốc, có đuôi ngắn, chân có màng, lông mượt màu đen và trắng, có tiếng kêu rất đặc trưng.
Phân tích đi! Nghĩ đi nào!
Mày biết quy trình đó mà. Mày đã thực hiện nó hàng triệu lần rồi.
Trước hết anh phải xác định các dữ kiện. Rồi anh tiến hành xác định số lượng và phân loại chúng. Anh đưa ra các giả thuyết. Và từ đó anh rút ra kết luận. Tiếp theo là kiểm tra…
Các giả thuyết, Rhyme thầm nghĩ.
Có một giả thuyết hiển nhiên có mặt trong vụ án ngay từ đầu. Họ đã tiến hành điều tra hoàn toàn dựa trên ý nghĩ rằng Kall là Vũ công Quan tài. Nhưng trong trường hợp không phải thế thì sao? Giả sử như hắn chỉ là một con tốt và tên Vũ công đã sử dụng hắn như một thứ vũ khí?
Đánh lạc hướng...
Nếu thế sẽ lại có một số bằng chứng không hề ăn khớp. Điều gì đó chỉ ra kẻ nào thực sự là tên Vũ công.
Anh căng mắt nhìn những bảng sơ đồ thật kỹ càng.
Nhưng tất cả đều đã được giải mã đầy đủ chỉ trừ mẫu sợi màu xanh. Hơn nữa cái đó lại không cho anh biết điều gì.
“Chúng ta không tìm được bất kỳ thứ quần áo nào trên người Kall, đúng không?”
“Không có, người trần như nhộng khi được phát hiện”, tay bác sĩ pháp y nói.
“Chúng ta có thứ gì mà hắn đã từng tiếp xúc đến không?”
Sellitto nhún vai, “Hừm, thì gã Jodie đấy”.
Rhyme hỏi, “Anh ta đã thay quần áo ở đây đúng không?”.
“Đúng thế”, Sellitto trả lời.
“Mang lên đây. Quần áo của Jodie ấy. Tôi muốn kiểm tra chúng.”
“Ọe”, Dellray thốt lên. “Chúng bốc mùi không dễ chịu lắm đâu.”
Cooper đi tìm và mang đống quần áo lên. Anh rũ và trải chúng trên những tờ giấy in báo sạch sẽ. Sau đó anh gắp những mẫu chất rơi ra lên giá kính rồi đặt dưới đế quan sát của kính hiển vi điện tử.
“Xem chúng ta có gì nào?” Rhyme hỏi và nhìn lên màn hình máy tính, trên đó là hình ảnh giống hệt những gì Cooper đang nhìn thấy qua kính hiển vi.
“Cái thứ màu trắng kia là gì?”, Cooper hỏi. “Những hạt kia kìa. Chúng có khá nhiều. Rơi ra từ đường chỉ quần của hắn.”
Rhyme cảm thấy mặt mình đột nhiên nóng bừng. Một phần là vì huyết áp của anh bắt đầu hỗn loạn do kiệt sức, một phần là vì cơn đau ma quái thỉnh thoảng vẫn bất thần trở lại hành hạ anh. Nhưng chủ yếu là vì sự căng thẳng của cuộc săn lùng.
“Ôi, lạy Chúa tôi”, anh thì thầm.
“Chuyện gì thế? Lincoln?”
“Đó là đá oolite”, anh khẳng định.
“Là cái chết tiệt gì?”, Sellitto hỏi.
“Đá trứng cá. Đó là một loại cát hình thành từ san hô bị phong hóa. Người ta tìm thấy chúng ở đảo Bahamas.”
“Bahamas?”, Cooper hỏi và nhíu mày. “Chúng ta cũng vừa mới nghe nói cái gì về Bahamas ấy nhỉ?” Anh nhìn quanh phòng thí nghiệm. “Tôi không nhớ.”
Nhưng Rhyme thì có. Mắt anh đang dán chặt lên tấm bảng sơ đồ, nơi đang ghim báo cáo phân tích của FBI về mẫu cát do Amelia Sachs tìm được tuần trước trong xe của Tony Panelli, viên đặc vụ bị mất tích trong phân khu trung tâm.
Anh đọc những dòng ghi trên đó:
“Về mặt kĩ thuật thì mẫu được gửi tới phân tích không hẳn là cát. Nó là một mẩu vụn san hô từ những rạn san hô ngâm dưới biển và có chứa những gai nhỏ, cả dấu cắt ngang xúc tu của những con giun biển, vỏ các loài chân bụng và trùng có lỗ. Nhiều khả năng những mẩu vụn san hô này có nguồn gốc từ phía bắc khu vực Caribbe: Cuba hoặc Bahamas.”
Viên đặc vụ Dellray, Sellitto nhớ lại… Người nắm rõ những ngôi nhà an toàn của chính phủ liên bang được bảo vệ nghiêm ngặt nhất trong khu Manhattan. Người sẽ phải khai tất cả cho kẻ đang tra tấn anh ta để moi địa chỉ.
Đó là lý do tại sao tên Vũ công có thể chờ sẵn ở đó, chờ Stephen Kall xuất hiện, kết bạn với hắn, rồi bố trí để chính mình bị bắt và tiếp cận các nạn nhân.
“Các loại thuốc!”, Rhyme hét lên.
“Anh bảo gì?” Sellitto không hiểu.
“Tôi bảo gì à! Dân bán ma túy không bao giờ pha trộn thuốc có kê đơn! Như thế quá mất công. Chúng chỉ pha loãng ma túy đường phố thôi!”
Cooper gật đầu. “Hóa ra tên Jodie không hề trộn lẫn số thuốc hắn ăn cắp được với sữa bột của trẻ em. Hắn chỉ bán thuốc nguyên viên thôi. Hắn lại còn nuốt cả những viên thuốc giả để chúng ta tưởng hắn là dân nghiện.”
“Jodie chính là Vũ công”, Rhyme gào toáng lên. “Gọi điện ngay đi! Gọi đến ngôi nhà an toàn ngay lập tức!”
Sellitto chộp lấy điện thoại và bấm số.
Chẳng lẽ đã quá muộn?
Ôi, Amelia, anh đã làm gì thế này? Lẽ nào anh đã giết em?
Bầu trời đang ửng lên một màu hồng ấm áp.
Một tiếng còi hụ từ xa vọng đến.
Con chim ưng đực – con tiercel, anh tự nhủ – cũng vừa thức dậy và đang chuẩn bị đi săn.
Lon Sellitto tuyệt vọng ngẩng đầu lên từ chỗ đặt điện thoại. “Không có ai trả lời”, anh nói.