Vị Vương Công Cuối Cùng

Chương 76: Biệt ly (8)




A hoàn Mộc Vân lật đật chạy vào phòng Thải Châu, tay áo quất qua, không cẩn thận đánh ngã chiếc đèn đặt dưới đất, chụp đèn lưu ly đập xuống sàn, nát bấy. Thải Châu đang ngồi trước bàn trang điểm nghịch ngợm đôi khuyên tai của mình, liếc nó qua gương, không nói gì – đó vốn là a hoàn tác phong mau mắn, thông minh ổn trọng nhất – lúc này lại đang luống cuống.

“Minh Nguyệt cô nương trở về rồi.”

Thải Châu ngẩng đầu lên nhìn, mắt trừng thẳng: “Thật hay giả?”

“…” A hoàn cúi đầu, không dám lên tiếng trả lời nữa.

“Có ý gì? Nói.”

“Ban nãy Bá Phương tiên sinh vừa đón ả ta vào, em vừa chạm mặt, chào hỏi một tiếng, mưa không lớn lắm nhưng em thấy giày ả ướt sạch, nhìn như đã đứng ngoài cửa đợi rất lâu rồi.”

“Giờ nó đang ở đâu?”

“Ở sảnh trước chờ vương gia ạ.”

“Không phải hai ngày nay vương gia không trở về sao?”

“Bá Phương tiên sinh tự mình đi tìm rồi.”

Thải Châu nghe chỉ thấy đáng hận: Cô hận con bé Uông Minh Nguyệt này bám dai như đỉa, bị cô bạt tai, đốt sạch chỗ ở rồi mà vẫn còn lá gan trở về; cô càng hận Lý Bá Phương tùy tiện dính líu hơn, cô cực kỳ không muốn Minh Nguyệt gặp vương gia, Lý Bá Phương lại còn giúp nó đi tìm người, gây phiền phức thêm cho cô!

Thải Châu ném đôi khuyên tai “bốp” một tiếng lên mặt bàn, áo khoác cũng không buồn phủ thêm, cứ thế đi thẳng ra sảnh trước, bước chân càng đi càng nhanh, càng rảo càng mau, a hoàn cầm ô phía sau không sao theo kịp cô. Băng qua hai lớp sân viện ướt nhẹp, đến cửa sảnh trước, cô ngừng lại, cẩn thận nhìn Minh Nguyệt trong bóng tối nhớp nháp của màn mưa thu bị vây bọc bởi hoàng hôn.

Mái tóc nàng ngay ngắn xếp sau cần cổ, tóc rất đen, dày dặn, khuôn mặt cỡ một bàn tay, bả vai nhỏ hẹp, mãi mãi tựa như một thiếu nữ, một thiếu nữ vô tội đem lại mầm mống tai vạ. Nàng quay đầu, thấy là Thải Câu bèn đứng dậy khỏi chỗ mình đang ngồi. Thải Châu nghiến răng mỉm cười: Chính là khuôn mặt này, bầu bầu dài dài, mắt mày tinh xảo đa tình, giống tiểu vương gia như đúc, giống đến mức khiến lòng người phải đố kị muốn phát rồ phát dại.

“Phu nhân.”

“Ồ, cô lại về rồi?” Thải Châu cất bước tiến vào, dùng khăn tay chấm chấm vầng trán dính nước, “… Làm sao…” Cô thở dài nặng nề, bỗng ngẩng phắt đầu, nghiến răng nghiến lợi, “Làm sao lại có thể trở về?!”

Mình Nguyệt nhìn cô, không nói gì.

Hai người đứng đối diện nhau, cách nhau khoảng một trượng, hai bên là hai hàng ghế tiếp khách, bày hoa râm bụt cuối mùa đang sắp nở, bao quanh bên ngoài nụ hoa đỏ rực là gai nhọn màu xanh.

“Ta đã nói rất rõ rồi. Cô hoặc là mắc bệnh hay quên trầm trọng, hoặc là trắng trợn muốn hại người, có đúng không? Cô rõ ràng muốn gây phiền toái cho vương gia, muốn vương gia gặp chuyện không may, muốn hắn toi đời, có đúng không?” Thải Châu càng nói càng phẫn nộ, càng nói càng lớn giọng, “Không thì nói ta nghe ngay bây giờ, cũng chẳng phải người ngoài, muốn gì, xem thử xem ta có thể giúp một tay hay không, làm vợ chính là vào lúc mấu chốt có thể ngăn được họa cho chồng, ta sẽ thay hắn cản cái họa này!”

“Chuyện này phu nhân không giúp được. Em phải gặp vương gia.” Minh Nguyệt nghĩ ngợi rồi đáp, nàng buông thõng vai và hai tay, rất hòa nhã cũng rất bình tĩnh. Thái độ của nàng không quá giống trước đây, hoàn toàn không tìm thấy sự khiếp nhược và hổ thẹn mỗi lần đối mặt với Thải Châu nữa, nàng cũng không phản bác lời nhục mạ của Thải Châu, nghiêm túc trả lời cô, chỉ là thái độ rất kiên quyết.

“Không, không, không, cô nghe không hiểu. Đầu óc cô không tốt. Ta biết.” Thải Châu vừa nói vừa chậm rãi tới gần, “Ta mà thật sự muốn giúp cô sao? Ta bảo cô ra khỏi đây cho ta. Ta muốn cô cút ngay bây giờ. Cô có hiểu không? Cô cút! Cô cút ngay bây giờ cho ta!” Thải Châu chỉ ra cửa, gần như phát điên.

“Không.”

Minh Nguyệt vừa dứt lời, Thải Châu đã xông tới muốn giở lại ngón cũ bạt tai nàng. Tay phải từng kéo căng dây cung của cô vung lên, cuốn theo gió táp muốn vả xuống mặt Minh Nguyệt, không ngờ Minh Nguyệt lại giơ hai tay lên, chặn đứng cổ tay cô trong khoảnh khắc.

Thải Châu đã đánh giá thấp nàng.

Cô cho rằng Minh Nguyệt sẽ lại như trước đây, nín nhịn nhân nhượng, không dám phản kháng, cô không biết rằng lúc này Minh Nguyệt lòng nóng như lửa đốt, đã không còn đường lui.

Giống như chim ưng trên thảo nguyên trông thấy thỏ rừng, lòng tin mãnh liệt mà phóng xuống muốn dùng móng vuốt sắt thép lấy mạng nó, nhưng trong chớp mắt khi chim ưng phóng xuống, thỏ chợt xoay người lăn ra đất, dùng đôi chân cứng cáp chạy đường núi hung hãn tập kích ngực chim ưng, vùng vẫy giãy chết. Chim ưng ăn tanh hung tàn vậy mà lại bị thứ hiền lành ăn cỏ này dọa lui.

Hai tay Minh Nguyệt giơ cao cổ tay phải của Thải Châu lên, vận sức từ từ ấn đối phương xuống. Nàng nhìn vào mắt Thải Châu, gằn từng chữ: “Phu nhân vẫn còn muốn đánh em à? Ngài quen tay thành thói rồi chăng? Nhưng ngài đánh em nhiều vậy rồi, nợ nần em thiếu phu nhân cũng đã trả xong. Cho em chút thời gian, em gặp vương gia, nói xong chuyện, xin một lời rồi sẽ đi ngay. Cái mạng này của em không đáng tiền, nhưng chuyện này liên quan tới bạn em, vương gia đáp ứng tức là cứu cô ấy một mạng, vương gia không đáp ứng, em cũng có thể tự ăn nói được với chính mình. Hôm nay phu nhân không ngăn cản được em, cũng không đuổi được em. Ngài bớt tốn sức đi.”

Minh Nguyệt nói đoạn hất mạnh tay Thải Châu ra, Thải Châu mất thăng bằng, loạng choạng về phía sau, trong lúc lảo đảo, đầu gối cô đập vào mép chậu hoa, đau đến khom lưng, nhưng trong đầu lại tỉnh táo vô cùng: Quả nhiên Uông Minh Nguyệt tới là muốn nhờ cậy vương gia, thậm chí còn có thể là nhờ cậy cái mạng của chàng! Linh cảm làm vợ cho cô biết, lần này, người con gái này sẽ đem lại cho Hiển Sướng tai họa trước nay chưa từng có. Cô tuyệt đối sẽ không để chuyện đó xảy ra!

Đầu gối Thải Châu chưa hết đau nhưng cũng chẳng cản được cô xoay người nhào về phía Uông Minh Nguyệt, tư thái dáng vẻ khí chất phong độ gì cũng không để ý tới nữa, giống như một người phụ nữ cường tráng dũng mãnh trên thảo nguyên vì bảo vệ đàn dê mà gan dạ chiến đấu với chó sói, lần này Thải Châu dốc hết sức lực toàn thân tóm lấy bả vai nàng, đồng thời hung tợn quát xa xả: “Đừng có nói nhảm với ta! Nợ trước trả chưa xong thì đừng kéo thêm nợ mới! Cút! Cút! Cô muốn gặp vương gia à! Ta thấy cô muốn lấy mạng hắn thì có!”

Một người ở cửa cất tiếng, giọng lạnh lùng, chỉ ngắn ngủi hai chữ: “Đủ rồi.”

Thải Châu và Minh Nguyệt đồng thời quay sang, chỉ thấy tiểu vương gia đứng ngoài cửa, một tay đặt sau lưng, nhìn hai người.

Khoảnh khắc đó, Thải Châu vẫn đang giữ tư thế vừa rồi, cũng không cảm thấy sợ – cô trước nay chưa từng sợ người này – cô giáo huấn kẻ gây tai họa cho chàng, chỉ là giúp đỡ chàng mà thôi. Nhưng cô cảm thấy hơi khó chịu, cô chưa từng chua ngoa thô lỗ như vậy trước mặt Hiển Sướng. Cô từ từ thu tay về.

Hiển Sướng đi đến, tới cạnh cô, cúi đầu nhìn, nói như dạy dỗ nhưng giọng rất ôn hòa: “Nhìn nàng có ra thể thống gì không. Không sợ kẻ dưới chê cười à?”

Thải Châu cắn môi, quay phắt đi không nói gì.

“Về phòng đi.”

Cô ngẩng lên, ánh mắt nhìn chàng như tóe ra lửa: “Nó…”

“Về phòng đi. Ta tự có chừng mực.” Chàng nhẹ nhàng vỗ vai cô.

Tay chàng vừa đáp lên vai cô, Thải Châu đã nhắm hai mắt lại, lòng trăm mối ngổn ngang, vừa chua xót vừa yếu lòng, hốc mắt nóng lên, gần như muốn rơi lệ. Nhưng nghĩ rồi lại cảm thấy không đáng: Trước mặt, một người là kẻ thù ngang ngược thị phi, một người là đức ông chồng không đâm tường nam không chịu hết hi vọng (*), cô ở đây lo lắng suông thì có ích gì? Trong nhà này ai là đồ ngu muội? Người đàn ông trước mặt này mới là kẻ ngu muội nhất! Người người đều đang bám trên người chàng hút máu ăn thịt!

(*) Trong kiến trúc cổ Trung Quốc, cổng lớn thường đặt ở hướng nam, những nhà có địa vị quyền thế thường sẽ xây một bức tường chắn gió ở giữa cổng, thế nên muốn ra ngoài sẽ phải đi sang phía bên trái hoặc bên phải, đi thẳng nhất định sẽ đâm vào tường nam, thế nên mới có câu thành ngữ này.

Thải Châu cười khẩy, quay đầu bỏ đi.

Hiển Sướng xoay người lại, nhìn Minh Nguyệt: “Em vừa mới nói, chuyện liên quan tới mạng ai? Không phải là Nam Nhất đấy chứ?” Minh Nguyệt sửa sang lại mái đầu rối tung của mình, không ngẩng lên nhìn chàng: “Sao ngài biết?” Chàng lại mỉm cười: “Còn ai khác xảy ra chuyện mà có thể khiến em sốt ruột vậy nữa đâu?”

Minh Nguyệt lấy tập văn kiện Kobayashi đưa cho trong cặp sách ra, chìa thẳng tới trước mặt Hiển Sướng, mặt không chút biểu cảm: “Nam Nhất bị người Nhật bắt đi, người Nhật nói, nếu ngài chịu ký hợp đồng bán đất này, họ sẽ lập tức thả người.”

Hiển Sướng nhận lấy từ tay nàng, lật lật xem qua một lượt từ đầu tới cuối, gật đầu nói: “Ừ, không ngoài dự liệu. Hợp đồng này em xem chưa?”

Minh Nguyệt lắc đầu.

Vẻ mặt Hiển Sướng ôn hòa: “Em lại đây, theo ta xem vài thứ.”

Dứt lời chàng đi vòng qua bình phong sảnh chính ra cửa sau, Minh Nguyệt đi theo chàng, qua cửa đi vào sân viện trùng trùng bên trong, đi tới thư phòng của lão vương gia ở sau nhà, hai người lên tầng hai, đứng ngoài cửa kho sách cũ. Hiển Sướng lấy chìa khóa trong ống tay áo ra mở khóa, đẩy cửa phòng ra, chỉ thấy bốn vách tường đều là sách vở cổ cũ, tranh chữ khi xưa, phía bên phải là bàn đọc sách bằng gỗ tử đàn của lão vương gia, trên bàn đặt một trục tranh cuốn.

Minh Nguyệt đi vào, Hiển Sướng dâng một nén nhang lên lư hương trước rồi quay sang nhìn Minh Nguyệt: “Em từng tới đây rồi?”

“Vâng. Khi còn bé lén vào với ngài.”

Chàng đứng sau bàn đọc sách, vừa chậm rãi mở trục tranh cuốn ra, vừa nói với Minh Nguyệt: “Em cũng biết: những năm cuối đời a mã ta hầu như chỉ toàn ngủ, lúc tỉnh dậy cũng rất hồ đồ. Nhưng trước khi đổ bệnh, lúc tinh thần vẫn còn minh mẫn, lần cuối cùng tìm ta nói chuyện chính là ở căn phòng này. Ông ấy nói với ta hai việc…”

Minh Nguyệt đi tới, nhận lấy một bên trục tranh cuốn trong tay Hiển Sướng, chậm rãi mở ra cùng chàng, phát hiện ra đó là một bức tranh phong cảnh ngày xuân ở Phụng Thiên: Tiết trời tháng Năm, dương liễu xanh tươi, trong cánh đồng, linh lăng nở hoa, cây ngô đơm bông, trên gò núi có thanh niên thúc ngựa rượt hươu, sông Hồn như một dải đai ngọc cong cong uốn quanh thành quách, trong chợ tưng bừng nhộn nhịp, có người rao bánh rán, có người múa ương ca, có người rút dương họa (*), có người rang hạt dẻ, có người bế con nhỏ xem cuộc vui, không đề phòng bên cạnh có kẻ đang âm mưu móc túi… Minh Nguyệt khom người, cúi đầu nhìn kỹ, phát hiện ra trong bức tranh còn có một chi tiết nho nhỏ, một người đàn ông cánh tay để trần được mọi người vây quanh vỗ tay khen hay – ông đang múa lọng…

(*) Nguyên văn: 拉洋画, là một trò chơi bài dân gian của thiếu nhi Trung Quốc trước đây.

Minh Nguyệt ngẩng lên, hỏi Hiển Sướng: “Người trong tranh này là ai?”

“Cha em chứ ai.”

“Ai vẽ bức tranh này?”

“A mã ta.” Chàng đáp, “Lúc ông ấy rảnh rỗi, không đọc sách thì sẽ vẽ bức tranh này ở đây, biết thêm chuyện hay cảnh gì vui trong thành sẽ thêm vào tranh. Em nhìn ra rồi đúng không? Đây là sân khấu lớn, đây là chiêu lăng, đây là chùa Hoàng… Hôm đó ông ấy đứng trong sân thấy cha em múa lọng rất khá, nghe cha em kể chuyện mãi võ trước đây, bèn vẽ thêm vào…”

Minh Nguyệt cúi đầu, ngón tay nhè nhẹ run lên, một hồi lâu sau, khi cảm xúc dịu dàng mà tang thương bị hồi ức khơi gợi chậm rãi ngớt cơn rồi, mới thấp giọng hỏi Hiển Sướng: “Lão vương gia nói gì với ngài?”

“Ông ấy à,” Hiển Sướng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, nghiêng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, “Đầu tiên ông ấy nói ta từ nhỏ đã không nghe lời, không ít lần chịu đòn phạt quỳ, người trông thì thông minh lai láng, kỳ thực trong bụng là cả ổ cỏ hoang – ta tưởng ông ấy trời mưa nhàn hạ lại muốn giáo huấn ta, bèn thả hồn ra ngoài cửa sổ, căn bản là không có ý định nghe – ai ngờ sau đó ông ấy lại nói, tuy nhiên, người ngoan ngoãn nghe lời lại thường không có tâm huyết, đứa trẻ dù có thông minh cũng không đủ dũng cảm, như ta mới là hậu duệ chân chính của dũng sĩ cưỡi ngựa, có dũng khí mà cũng có năng lực gánh vác; ông ấy nói, ông ấy đã sớm nhìn ra, ta là một đấng nam nhi tốt…”

“Ta quỳ xuống hỏi a mã, ta là đấng nam nhi tốt, vậy phải làm những gì?”

“Ông ấy nói, giang sơn đã đổi cờ, đại thế đã mất, ta ở trong loạn thế không ai có quyền lựa chọn, muốn là một đấng nam nhi tốt không thẹn với lòng, chỉ cần làm hai chuyện, một là phải bảo vệ được thân hữu gia quyến, hai là phải trấn thủ được đài điểm tướng long mạch điềm lành của Đại Thanh ta!”