Hoàng hôn, ánh tà dương trải khắp ngự hoa viên, Hứa Lăng Vân ngừng kể chuyện, chăm chú nhìn mặt hồ Thái Dịch lấp lánh như kim lân.
Lý Hiệu nghe xong cực kỳ nghi hoặc, muốn hỏi thêm gì đó, nhưng lại không biết phải hỏi từ chỗ nào.
Hứa Lăng Vân cười khẽ: “Bệ hạ?”
Lý Hiệu hơi giật mình, sau đó nói: “Phương Thanh Dư… Kẻ này tâm tư khó dò.”
Hứa Lăng Vân chậm rãi gật đầu, cười hỏi: “Thần cả gan hỏi một câu không liên quan, nếu bệ hạ và kẻ này đổi chỗ cho nhau, người sẽ bày binh bố trận ra sao?”
Lý Hiệu nghĩ một chút rồi đáp: “Nếu được cho ba vạn quân ra Tây Xuyên, cô sẽ rút toàn bộ bách tính cùng binh sĩ sáu thành ngoài Phong Quan trở về quan nội.”
Hứa Lăng Vân nói: “Nếu vậy thì phải bỏ hết thành trì trọng yếu vùng quan ngoại.”
Lý Hiệu: “Lấy lùi làm tiến, Phong Quan hẹp dài, lưng giáp hai núi, dễ thủ khó công, lại được người dân thành Phong tiếp tế lương thực, chống đỡ qua một mùa đông cũng không thành vấn đề. Hung Nô thường xuyên tác chiến trường kỳ tại khu vực tái ngoại, rất giỏi tập kích lén lút trong điều kiện băng tuyết ngập trời, mùa đông quân Ngu tuyệt nhiên không phải đối thủ của bọn chúng.”
Hứa Lăng Vân xuất thần nói: “Dương trường tị đoản. (*)”
(*) tận dụng ưu điểm, khắc phục hoặc tránh nhược điểm
Lý Hiệu nói chậm rãi: “Đâu chỉ là dương trường tị đoản? Nhường Hà Gian, Lang Hoàn, hai tòa thành trống không cho bọn chúng, quân Hung Nô có được cũng vô ích, chiếm thì bị động, bỏ lại tiếc nuối, cũng không thể hạ trại tấn công giữa thời tiết lạnh căm bên ngoài Phong Quan. Trong khi đó quân ta lại có thể tùy thời xuất quan tập kích, lấy lại vị thế chủ động.”
Hứa Lăng Vân nói: “Thần cũng cảm thấy đây là biện pháp tốt nhất.”
Lý Hiệu bình luận: “Từ một nước đi sai lầm của Phương Thanh Dư năm đó, sai nối tiếp sai, y để mất ba vạn đại quân, chính mình thì rơi vào tình cảnh không chỗ nương thân.”
Hứa Lăng Vân cười bảo: “Chưa hẳn, bệ hạ có điều không biết đấy thôi, Phương Thanh Dư là chính mình tự nguyện đào ngũ, vì y căn bản chẳng hề để tâm đến việc đánh giặc.”
Lý Hiệu lạnh lùng nói: “Láo xược.”
Hứa Lăng Vân lẩm nhẩm: “Đối với sự việc Phương Thanh Dư bỏ trốn, các đời thái sử Đại Ngu đã đưa ra rất nhiều phỏng đoán nhưng không ai có thể giải thích được mấu chốt trong đó. Chỉ có thể nói là các lão tiên sinh đều suy nghĩ quá phức tạp.”
Lý Hiệu nói: “Nếu ngươi hiểu biết hơn thái sử thì sao không nói thử xem, nói xong mà cô vẫn không hiểu thì phạt hai mươi roi. Điều gì có thể khiến một người đàn ông lựa chọn đào ngũ giữa lúc nước nhà lâm nguy?”
Hứa Lăng Vân khẽ cười tự giễu: “Bệ hạ cũng nghĩ nhiều quá rồi, nước nhà lâm nguy, đối với vài người mà nói cũng chẳng quan trọng đến thế.”
Sắc mặt Lý Hiệu u ám, Hứa Lăng Vân nghĩ một chút rồi giải thích: “Có những người chẳng bao giờ thích bàn chuyện quốc gia xã tắc, sinh linh bách tính. Địa vị cao sang hay ăn mày đầu phố, với y mà nói chẳng có gì liên quan, dẫu đại địch có ở ngay bên cạnh, y vẫn mặc kệ ba vạn quân Ngu mà đi, bởi vì còn chuyện quan trọng hơn đang chờ y làm.”
Lý Hiệu: “Chuyện gì có thể quan trọng hơn chống quân xâm lược?”
Hứa Lăng Vân khom người thưa: “Trời lạnh rồi, bệ hạ cảm lạnh mới hồi phục một chút thôi, chờ người dùng xong bữa tối rồi lại nói tiếp được không?”
Lý Hiệu thấy sắc trời đã muộn, không thể không đứng dậy, nếu không lát nữa thái hậu lại phái người đến lải nhải.
Cứ thế mấy ngày lại trôi qua, tới mùng bảy tháng tám, Lý Hiệu ngay cả nói cũng không muốn nhiều lời, ngồi ngẩn người trên ghế rồng trong điện Thái Hòa.
Sau lưng, thái giám bày ra bức hoạ gấm vẽ long phượng giao thủ, treo tranh lên được một nửa thì ngừng lại. Cả đám nô tì khoanh tay đứng đấy, không ai không dám leo lên đỉnh đầu quốc vương mà bày trí sắp xếp, đương nhiên cũng chẳng ai dám nhiều lời, liền đứng im như khúc gỗ.
Cuối cùng vẫn chỉ có thị vệ đang trực khẽ cười, nói: “Bệ hạ.”
Tiếng gọi khiến Lý Hiệu tỉnh táo lại, giữa mày gã tràn ngập lệ khí cần phát tán. Gã thấy thị vệ kia đang cười đến là vui tươi, lại chính là Hứa Lăng Vân, mất kiên nhẫn quát: “Gan to bằng trời.”
Hứa Lăng Vân khẽ nhếch khoé miệng, cúi người tránh né ánh mắt Lý Hiệu.
“Có chuyện gì?”
“Bệ hạ đang ngồi trên đó cho nên cung nhân không dám treo tranh gấm.” Thanh âm Hứa Lăng Vân sáng rõ, truyền vào trong tai Lý Hiệu giữa chiều hoàng hôn, đem lại cho gã một thứ cảm giác trong trẻo.
Lý Hiệu nghiêng đầu nhìn qua, mấy ti giám vội vã quỳ xuống tạ lỗi, Lý Hiệu khịt mũi kêu họ đứng lên.
Hứa Lăng Vân tiến lên phủi tay áo cho Lý Hiệu, đi theo phía sau, Lý Hiệu cũng không biết nên đi đâu, cất giọng trầm hỏi: “Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi?”
Hứa Lăng Vân cung kính nói: “Hồi bẩm bệ hạ, thần hai mươi hai.”
Lý Hiệu chỉ coi Hứa Lăng Vân như một thiếu niên non nớt, không ngờ hắn đã ngoài hai mươi, đã vậy còn bằng tuổi mình, gã hỏi tiếp không vui lắm: “Sinh ngày nào?”
Hứa Lăng Vân một mực cúi đầu, trả lời: “Mùng mười tháng chạp.”
Lần này Lý Hiệu lại càng bất ngờ, quay người quan sát Hứa Lăng Vân, gã nheo mắt lại, bảo: “Ngươi chỉ sinh sau cô đúng một ngày mà nhìn lại như kém vài tuổi.”
Hứa Lăng Vân cười đáp lời: “Thuở nhỏ nền tảng sức khoẻ thần không tốt, vì vậy lớn lên cũng thấp bé gầy yếu.”
Lý Hiệu khẽ gật đầu, đi dạo trong cung, lúc gã qua hành lang dài tới ngự hoa viên, thái giám đứng trong hành lang liền xướng: “Thái hậu giá lâm…”
Lý Hiệu vừa trông thấy đại ti giám đi cạnh thái hậu là cơn tức lại trào dâng. Gã biết nhất định là đại ti giám đến tìm thái hậu cáo trạng. Hôm nay không có chuyện gì tốt đẹp cả, đành phải nghiêng người tiến tới, nhẫn nhịn nói: “Mẫu hậu.”
Thái hậu không vào điện, đứng trước hành lang, nghiêm mặt: “Ngày mai thành hôn rồi, bệ hạ đã xem hết thiệp vàng chưa?”
Lý Hiệu gật đầu nói: “Đều xem cả rồi.”
Thái hậu hỏi: “Người thật sự xem hết rồi?”
Hứa Lăng Vân đứng sau lưng Lý Hiệu cố nén cười, hắn nhanh chóng rút ra thiệp vàng từ trong tay áo, cúi người dâng lên.
Lý Hiệu: “Hôm qua ưng nô đã đọc thuộc cho con nghe.”
Thái hậu nhìn Lý Hiệu, lại tỉ mỉ quan sát Hứa Lăng Vân, hỏi: “Ngươi chính là ưng nô đương nhiệm?”
Hứa Lăng Vân quỳ một chân xuống, một tay đặt trên vai: “Bái kiến Thái hậu.”
Thái hậu hờ hững bảo: “Đứng lên đi, ngươi đang nâng cái gì trên tay?”
Hứa Lăng Vân nói: “Bẩm Thái hậu, là thiệp vàng ghi chép nghi lễ đại hôn.”
Lý Hiệu và bà đã là mẹ con hơn chục năm, gã thừa hiểu rõ tính tình thái hậu – đối xử với người khác lúc nào cũng khoan dung nhân từ, duy chỉ với chính mình là có thừa nghiêm khắc.
Cho nên nếu có việc không hợp ý bà, chỉ cần kéo người khác làm đệm lưng nhất định sẽ không bị mắng, một ý nghĩ nảy ra trong đầu Lý Hiệu, gã bảo: “Ưng nô mới xem một nửa hôm qua, còn chưa thuộc xong.”
Thái hậu nói: “Nhớ được nhiều thứ như thế, ngươi tên là gì?”
Hứa Lăng Vân cung kính báo tên, cặp lông mày thanh mảnh được tỉa cẩn thận của thái hậu không dễ phát hiện mà khẽ động đậy.
“Hứa Lăng Vân?” Thái hậu lấy làm lạ, hỏi: “Ngẩng đầu lên ta nhìn thử.”
Hứa Lăng Vân ngẩng đầu, thái hậu nhìn chăm chú đôi mắt của hắn, lẩm bẩm: “Trông không giống nhỉ?”
“Mẫu hậu.” Lý Hiệu lạnh lùng lên tiếng.
Thái hậu hỏi: “Ngươi sinh ngày mùng chín tháng chạp à?”
Hứa Lăng Vân lại cúi đầu: “Vâng.”
Thái hậu chậm rãi lắc đầu: “Mẹ ngươi tên là Triệu Yên… ta vẫn nhớ rõ, ngược lại trông ngươi cũng không giống cô ấy…”
Lý Hiệu cau mày bảo: “To gan! Lúc trước hỏi ngày sinh của ngươi, ngươi trả lời cô thế nào hả? Rõ ràng là mùng mười tháng chạp!”
Thái hậu lạnh lùng nói: “Bệ hạ!”
Lý Hiệu hậm hực, Hứa Lăng Vân nói: “Thần không dám giống bệ hạ… Ờm, năm đó còn nhỏ quá.”
Thái hậu hiếm khi nói chuyện dịu dàng: “Ngươi sinh cùng ngày với hoàng thượng, còn cùng cả giờ sinh, có thể thấy duyên phận như trêu đùa, cũng thật khó nói.”
Hứa Lăng Vân thở ra một hơi, cúi đầu đáp: “Dạ. Thần… Tội đáng muôn chết.”
Trong lòng Lý Hiệu dở khóc dở cười, nếu thái hậu biết mình suýt nữa đã bắt Hứa Lăng Vân đi lăng trì thì không biết bà sẽ có cảm tưởng gì, thuận miệng bảo: “Ưng nô… Được rồi, thôi bỏ đi, xá ngươi vô tội.”
Thái hậu nhắm hai mắt lại, lúc mở lại thì như đã ném hết mọi chuyện ra sau đầu, căn dặn: “Hứa Lăng Vân, ngươi đã đi theo hoàng thượng, thường ngày phải luôn nhắc nhở người.”
Hứa Lăng Vân khom người nói: “Cẩn tuân thái hậu dặn dò.”
Lý Hiệu nghe vậy thì chẳng hiểu ra sao, sau khi căn dặn xong, thái hậu rời đi xem xét công việc chuẩn bị cho lễ thành hôn ngày mai. Lý Hiệu không đi tiếp, gã đứng giữa hành lang gấp khúc, đưa mắt nhìn Hứa Lăng Vân.
Hứa Lăng Vân thấp hơn Lý Hiệu nửa cái đầu, không dám nhìn thẳng mắt hoàng đế, hắn cúi xuống đất, khóe miệng vẫn đượm ý cười mơ hồ như cũ, kính cẩn mà không hèn mọn, rõ ràng mà không đường đột.
Lý Hiệu hỏi: “Họ Hứa nhà ngươi… ngươi! Tới đây!”
Lý Hiệu trông thấy thái hậu đã đi xa, một mình ti giám dẫn mấy tiểu thái giám ra khỏi điện, bỗng nhiên gã nổi cáu, không để ý hình tượng mà khiển trách: “Ngươi đã nói cái gì?”
Lý Hiệu lên cơn giận dữ, Hứa Lăng Vân giật mình, vội bảo: “Bệ hạ bớt giận!”
Lý Hiệu quát to: “Quả thực là gan to bằng trời…”
Hứa Lăng Vân nói: “Bệ hạ! Xin nghe thần một lời…”
Ti giám đã sớm sợ đến hồn vía lên mây, quỳ ngoài hành lang, Lý Hiệu dậm chân tiến lên, chẳng ra dáng hoàng đế chút nào. Hứa Lăng Vân luống cuống giữ Lý Hiệu lại, lúc hắn chạm vào tay hoàng đế, khuôn mặt không khỏi đỏ lên.
Lý Hiệu bị Hứa Lăng Vân đụng một cái, cũng thầm cảm thấy hơi mất tự nhiên, tay gã khẽ giãy, Hứa Lăng Vân bèn thuận thế thả ra, thấp giọng bảo: “Thần to gan, xin bệ hạ trách phạt.”
“Ngoài đó còn ra thể thống gì? Ai đang làm ồn?” Đúng lúc đó từ trong cung lại truyền tới tiếng thái hậu.
Lý Hiệu không sợ trời không sợ đất, chỉ sợ mẹ, gã cứ tưởng thái hậu đã đi xa, thấy tình hình thế này chỉ sợ thái hậu lại muốn dông dài. Gã hít sâu một hơi, chỉ trỏ ba tên thái giám đang quỳ, rồi quay người chạy đi thật nhanh.
Hứa Lăng Vân đuổi theo sau Lý Hiệu, cảm thấy buồn cười đến cực điểm. Lúc vòng qua một khúc quanh, Lý Hiệu tự mình dừng lại, giận giữ cũng tiêu hết luôn.
“Có gì buồn cười?” Lý Hiệu lại quau có trong bụng.
Hứa Lăng Vân nói: “Thần thấy ti giám hoảng hốt, cho nên buồn cười.”
Lý Hiệu hừ lạnh: “Cũng chỉ là một đám hoạn quan.”
Hoàng đế đi phía trước, thị vệ đi phía sau, Hứa Lăng Vân thuận miệng nói: “Tuy hoạn quan khiếm khuyết thân thể nhưng đối với bệ hạ cũng là một lòng trung. Có câu nói “kim vô túc xích, nhân vô hoàn nhân” (*), cho dù là quân hay là thần, thần cho rằng chỉ cần đối phương có lòng thành là có thể trở thành bạn tốt.”
(*) không vàng nào nguyên chất, không người nào hoàn hảo
Lý Hiệu lạnh lùng hỏi: “Ngươi đang giáo huấn cô đấy à?”
Hứa Lăng Vân vội cười nói: “Thần không dám, thần chỉ nhớ tới người từng nói câu này.”
Lý Hiệu: “Người nào.”
Hứa Lăng Vân: “Thành Tổ.”
Lý Hiệu nhìn Hứa Lăng Vân, trong lòng thầm nghĩ phải chăng nên lôi hắn ra ngoài đánh một trận, ai ngờ Hứa Lăng Vân lại nói: “Nhưng Thành Tổ cũng từng nói, đám hoạn quan ngay cả cái duy trì nòi giống cũng chẳng cần thì còn có thể trông mong bọn hắn trung thành với ai?”
Lý Hiệu phụt một tiếng bật cười, lắc đầu nhấc chân tiến về tẩm điện.
Hứa Lăng Vân hầu ngoài điện, Lý Hiệu nhận khăn lau mặt, thay sang một thân áo thêu rồng vàng, ngồi trên giường nói: “Vào đây, hôm nay ngươi đã đem sách theo chưa?”
Hứa Lăng Vân nói: “Thần đem theo rồi.”
Lý Hiệu nói: “Kể đi.”
Hứa Lăng Vân nhìn chung quanh một chút, điện Khánh Hoà là nơi ở của các đời hoàng đế Đại Ngu trước khi thành hôn, trong điện chỉ đặt đúng một chiếc ghế để Đại học sĩ ngồi bẩm tấu lúc đêm khuya.
Hứa Lăng Vân cũng không nhiều lời, hắn ngồi xuống chiếc ghế, móc cuốn sách sử từ trong tay áo ra đặt trên bàn. Hắn nhìn thử vào phía trong màn, thấy Lý Hiệu đang híp mắt nằm nghiêng trên giường.
“Đêm đó, Trương Mộ lén đi theo Thành Tổ với tướng quân Đường Hồng, đến lúc phát hiện ra Phương Thanh Dư, rốt cuộc không kiềm chế được…”
Đêm đó Trương Mộ xuất hiện, thình lình bổ một đao xuống, Phương Thanh Dư tung chưởng nghênh địch, xuất một chiêu tay không biến đao sắc, Trương Mộ nhảy lên không trung xoay cổ tay, Phương Thanh Dư lại đập ngang sống đao, mượn lực nhảy ra ngoài.
“Hay!” Đường Hồng lần đầu chứng kiến công phu đẹp mắt như vậy, không nhịn được mà lớn tiếng khen hay, thình lình bị Lý Khánh Thành đập một cái sau gáy.
“Ngươi giúp bên nào!” Lý Khánh Thành cả giận: “Ưng ca, đừng ra tay vội, nghe ta này!”
Đường Hồng ngượng ngùng không lên tiếng. Trương Mộ đuổi Phương Thanh Dư trong sân, kẻ chạy trốn thì quét nghiêng một chân, tuyết vụn sương mờ, kẻ truy đuổi vung một đao phá tan băng tuyết, đuổi sát sau lưng như hình với bóng.
Phương Thanh Dư: “Đêm trung thu ấy đúng là cô của ta bảo ta dẫn người ra ngoài…”
Trương Mộ chém ngang một đường, cổ tay Phương Thanh Dư đập vào đao, bị gãy ngay tức thì, y rên một tiếng đau đớn, tránh trái né phải nhưng không trả chiêu, lớn tiếng nói: “Ta vốn đâu biết triều đình có biến… Sau mới hay nhà họ Tôn với Đường tướng quân là cùng một ruộc, bọn họ đã sớm thiết lập cạm bẫy đêm đó rồi. Sau khi vội vã vào cung bí mật bàn bạc với cô của ta, bọn ta quyết định ra tay trước!”
Phương Thanh Dư vọt ra sau ngọn ngọn núi giả, chỉ nghe âm thanh núi đá bị chém tan tành, vụn đá cùng bông tuyết bay vọt bay tứ phía.
“Bệ hạ mới là chủ mưu sau màn, đêm đó lúc người băng hà không có ai động thủ cả, vậy mà bỗng nhiên lại hỏa hoạn, điều này nằm ngoài dự liệu của tất cả mọi người…”
“Đường Phi âm thầm lập mưu giành hậu vị, tướng quân Đường Tư Viễn ủng hộ điện hạ, muốn dùng binh lực biên cương, nhà họ Tôn thì đã sớm chọn được thái tử phi để kết thông gia…”
“Trương Mộ!” Phương Thanh Dư giận dữ hét: “Huynh và ta là cộng sự bao năm nay, Phương Thanh Dư ta dù không câu nệ tiểu tiết, sao có thể là loại người đó?”
Trương Mộ không trả lời, lưỡi đao xiên chéo, Phương Thanh Dư quát: “Ta liều mạng vứt hết tiền đồ rạng rỡ chính là để đi tìm người! Huynh không hiểu sao? “
Trương Mộ nheo mắt, gác đao cùn trên cổ Phương Thanh Dư, Phương Thanh Dư nói: “Đêm đó ta không chú ý, điện Diên Hòa bốc cháy, mà hoàng hậu lại ở điện Dưỡng Tâm!”
“Nếu ta thật sự muốn bắt hắn lĩnh thưởng thì đã đến điện Diên Hòa rồi, nếu vừa muốn giữ lòng trung thành vừa bảo toàn bản thân thì tới điện Dưỡng Tâm giao hắn cho hoàng hậu, hoàng hậu sẽ tự có đối sách, hoặc giam giữ, hoặc dùng thế thân, như thế mới có thể tự mình độc chiếm triều chính.”
“Nhưng huynh có biết đường chúng ta đi lúc ấy là đi đâu không?”
Trương Mộ thu đao, Phương Thanh Dư lạnh lùng nói: “Điện Minh Hoàng! Nơi thờ cúng tổ tiên Đại Ngu từ trước thời khai quốc, hành lang treo chân dung các vị liệt tổ liệt tông, lời căn dặn đầu tiên thất hoàng để lại chính là: lúc hoàng đế băng hà, thái tử phải chờ thánh chỉ trong điện Minh Hoàng, để Đại học sĩ cùng Đại tướng quân trấn quốc cùng trông coi di chiếu, phò lập thái tử, giao phó trách nhiệm đăng cơ giám quốc ngay tại điện Minh Hoàng!”
Trương Mộ lạnh lùng nói: “Lúc đó ta chưa được nghe chuyện này.”
Phương Thanh Dư bảo: “Về hỏi thử là biết, Trương Mộ, ta còn câu này muốn hỏi huynh.”
“Đêm trung thu hôm đó, lúc hoàng cung bốc cháy.” Trong mắt Phương Thanh Dư hiện ra ý mỉa mai: “Huynh đã đi đâu? Huynh tới từ hướng điện Minh Hoàng, sao phải mang theo đao, mà trên đao còn dính máu? Đêm đó điện Diên Hòa bốc cháy, khắp nơi đều là lính Ngự Lâm đi cứu hỏa, dù có ai phạm thượng làm loạn, quân Ngự Lâm cũng tuyệt đối không chống đối, huynh giết quân Ngự Lâm, giết thái giám làm cái gì? Vả lại máu nhuộm trên đao của huynh là của đám đại thần à? Hay là máu của Đường Phi? Hay là… của Thống lĩnh quân Cấm Vệ, Phù Ân? Lửa kia không phải do hoàng hậu đốt, Trương Mộ, là ai phóng hỏa, trong lòng huynh rất rõ mà, đúng không?”
Giọng Phương Thanh Dư tuy thấp, nhưng không hề che đậy khí thế chút nào, y liên tục hỏi từng câu, từng bước ép sát gã thị vệ câm không ngừng toát ra lệ khí.
Trong giây lát, ánh mắt Trương Mộ nổi sát tâm.
Phương Thanh Dư nheo mắt nói: “Khánh Thành cũng chưa từng nổi lên nghi ngờ, không phải là đã quên hết mọi chuyện lúc trước rồi đấy chứ?”
Trương Mộ cả giận nói: “Láo xược!” Tiếp đó gã vỗ ngang đao, đẩy Phương Thanh Dư ngã xuống.
Ở nơi xa, Lý Khánh Thành và Đường Hồng yên lặng quan sát, thấy Trương Mộ từng bước tiến lên, Phương Thanh Dư không ngừng trốn chạy, đến khi chưởng đao Trương Mộ hạ xuống, Phương Thanh Dư nhăn mày bình tĩnh trả lời, đang nói chuyện thì đột nhiên lại thấy đao hạ xuống nữa, hoàn toàn không nghe rõ hai người nói gì.
Bốn phía yên tĩnh trở lại, Phương Thanh Dư chống khuỷu tay đỡ thân thể, phun ra một chiếc răng hàm nhuốm máu.
Trương Mộ lạnh lùng nói: “Đầu trên cổ ngươi, tạm thời để đấy.” Nói xong gã thu đao, quay người rời đi.
“Ưng ca!” Lý Khánh Thành gọi.
Trương Mộ rời khỏi sân sau, Phương Thanh Dư loạng choạng hít sâu một hơi, tựa vào góc tường, tự mình nối lại cái cổ tay gãy.