Khương Hàm Nguyên chậm rãi rút đao khỏi vỏ, lưỡi đao đón ánh nến, hiện ra sắc lạnh như tuyết, sáng bức người.
Cô nhìn một lát, cắm lại đoản đao vào vỏ đao khảm bảo thạch hoa lệ, xuất thần.
Ý chàng là gì, sao tự dưng phái người đưa tới thanh đao mình để lại năm ngoái trước khi rời kinh? Lẽ nào cuối cùng chàng đã nhớ lại chuyện xưa, hiểu lời mình nói hôm nào, dùng cách uyển chuyển này để đáp lại?
Phản ứng đầu tiên của cô là vậy, song lòng vừa chấn kinh đã chùng xuống, nghĩ đến lời Vương Nhân chuyển tới, lập tức phủ nhận suy đoán.
Hoàn toàn không giống.
Như vậy, lẽ nào tự dưng chàng nhớ chuyện giữa tháng tư, hy vọng có thể gửi thanh bảo đao có ý nghĩa đặc biệt đối với cả hai đến bên cạnh mình? Dù sao, lần trước lúc hai người tách ra, chính Khương Hàm Nguyên cũng cảm giác rõ ràng, sóng tình cảm âm thầm dâng lên giữa bọn họ, mối quan hệ vi diệu đã hoàn toàn khác hồi giữa tháng tư.
Cô đăm đăm nhìn thanh đao, nhớ đến mấy ngày chàng ấy lặng lẽ bầu bạn cạnh mình ở thung lũng thành Vân Lạc, một cảm giác ấm áp như dòng suối róc rách chậm rãi tuôn ra từ đáy lòng mình. Cảm giác có chút chua xót, nhưng lại trộn vài phần ngọt ngào man mác, nhưng từ từ, cô lại cảm thấy không đúng lắm.
Sau khi chàng ấy về lại Trường An, hẳn là dốc toàn bộ tinh thần vào công cuộc chuẩn bị cho cuộc chiến, sẽ không, cũng không nên ở thời điểm này mà chuyên chú vào tư tình. Nhất là liên quan tới trận chiến này, mấy hôm trước hẳn là triều đình đã xuất hiện biến số. Chiến lệnh đến trễ là minh chứng.
Thời điểm đặc thù như này, sao chàng còn phân tâm vào sự việc có vẻ hơi không đúng lúc kia?
Khương Hàm Nguyên càng nghĩ càng thấy khác thường. Thậm chí đến cuối cùng, cô lại nhớ tới hôm họ tách ra, không hiểu sao trong lòng cô sinh ra cảm giác chẳng lành. Cả đêm cô không thể bình yên nổi, sáng sớm hôm sau, không chờ kịp đi tìm Vương Nhân hỏi thăm tình cảnh. Nhưng hỏi mãi chỉ xác định một sự kiện, là mấy ngày đó do tin Sí Thư ngưng chiến quấy nhiễu, trong triều đình đúng là có tiếng kêu gọi ngừng chiến.
“Điện hạ nói, Vương phi cất kỹ là được. Còn lại tất thảy đều ổn, Vương phi không cần quan tâm.” Cuối cùng hắn nói.
Khương Hàm Nguyên vẫn buồn vô cớ, sau đó cười nhạt, có lẽ bản tính mình bi quan, hay nghĩ quá nhiều về mọi chuyện.
Có thể có chuyện gì không tốt chứ? Xem như trong triều xuất hiện chút ít tạp âm quấy nhiễu, cũng khó tránh khỏi. Nhất định chàng có thể ứng đối.
Vốn chẳng có chuyện gì đâu. Chàng đưa đao đến, chỉ là bận rộn muốn gửi gắm ít tình cảm thôi.
Cô nhờ Vương Nhân chờ một lát, về trướng vội vàng viết phong thư để hắn mang về Trường An giao cho chàng. Mà tiếp đó cô cũng không có thời gian suy nghĩ nhiều về chuyện này, phát binh sắp đến.
Mấy ngày sau, đại quân tập hợp. Khương Tổ Vọng suất lĩnh toàn thể tướng sĩ tuyên thệ tế cờ trước khi xuất quân, lập tức theo kế hoạch đã định, chia ra ba đường, ra Nhạn Môn Bắc tiến.
Hôm tuyến trung lộ quân ra khỏi Thanh Mộc Nguyên, cờ xí rạp trời, quân dung uy nghiêm, quân trận hai trăm người lập một nhóm, tướng bọc đầu đuôi. Thám báo, quân tiền trạm, kỵ binh, bộ tốt, lính quân nhu bọc hậu, đội ngũ hoành tráng kéo dài đến hơn mười dặm. Địch doanh đối lập với Thanh Mộc doanh nhiều năm điều tra được động tĩnh, mấy ngày trước đã rút lui.
Thống lĩnh nhánh đại quân của Khương Hàm Nguyên lần này Triệu Phác là một lão tướng quân, tác chiến vững vàng có tiếng. Khương Hàm Nguyên rất kính trọng ông, phối hợp mọi chỗ. Nhìn lại Sí Thư, sau khi đoạt vị lên ngôi, dù cũng đã lập tức bắt đầu triệu tập nhân mã, ứng đối trận chiến quy mô lớn từ Đại Ngụy, nhưng chưa hoàn toàn xử lý tốt chuyện nội bộ phân tranh vẫn sẽ có ảnh hưởng đến bước chuẩn bị chiến đấu.
Kế hoạch ban đầu của gã là cố hết sức ngăn chặn đối phương, tranh thủ thời gian. Chỉ cần cho gã ba tháng, gã nghĩ sẽ có thể quét sạch nội bộ triệt để, còn hiện giờ chưa thể toại nguyện, Quân Ngụy nhanh chóng chia ba ngả đánh tới, không khỏi đối phó vội vàng. So sánh hai bên, kết quả có thể nghĩ.
Quân Ngụy hành quân mấy ngày, vào sâu Yến Châu xong, liên tiếp đánh mấy trận, đều chưa gặp được lực cản lớn, thuận lợi tiến lên, chưa qua nửa tháng đã đoạt Đại Ninh một yếu địa quân sự của Yến Châu, tiếp đó, mục tiêu trực chỉ Quảng Ninh.
Quảng Ninh là quận phủ của Yến Châu, cũng là cứ điểm quân sự lớn nhất. Chỉ cần đánh hạ Quảng Ninh, Yến Châu cơ bản xem như về tay, tiếp đó sẽ có thể kiếm chỉ U Châu.
Bình thường Quảng Ninh có đội quân năm sáu vạn thường trú, Sí Thư đương nhiên không ngồi xem U Châu mất đi lá chắn cánh trái, ngay từ khi chiến sự mới bắt đầu đã định ra kế hoạch phản kích nghênh chiến ở vùng quan trọng này, đây cũng là một trong các nguyên nhân vì sao quân Ngụy cả một đường ca khúc khải hoàn.
Sí Thư đã chuẩn bị chu đáo ở nơi này, khẩn cấp điều năm vạn binh mã nơi khác đến, tổng cộng hơn mười vạn đại quân, do thân tín của gã Tả Quang Vương tọa trấn. Người này là quý tộc Bắc Địch, có danh hào Hùng Sư, sau khi đến nhận chức ngày đêm chuẩn bị chiến đấu, chờ hôm quân Ngụy đến, Quảng Ninh trong phạm vi ba trăm dặm vườn không nhà trống, thành quan vững như thành đồng, như một ngọn núi lớn không thể vượt qua, vắt ngang qua con đường tiến quân của quân Ngụy.
Tuyến quân trung lộ của quân Ngụy cuối cùng cũng đã được chân chính khảo nghiệm từ khi khai chiến đến giờ, tuần giữa tháng Hai, hai bên cộng lại gần ba mươi vạn quân, gặp nhau ở cánh cổng Thiên Quan Quảng Ninh.
Quân Ngụy mang thế thắng trước giờ chạy đến, lại bị thất bại nơi này. Nước Yến nhiều núi, Tả Quang Vương cũng không phải hạng người qua loa, chẳng những lợi dụng địa hình đợi quân địch mệt mỏi mới tấn công, chiếm hết ưu thế, mỗi trận chiến đều tự mình ra trận cổ vũ sĩ khí. Quân Ngụy quân tổ chức nhiều lần tấn công đều không có kết quả, tổn thất không nhỏ, đành chậm dần thế công, từ từ chuyển từ tiến công sang thế giằng co. Quân Địch thừa cơ từ điểm quan sát trên thành đổ nước tiểu nước phân bẩn thỉu các thứ, từ sớm đến tối nhục mạ không dứt, thỏa thích nhục nhã quân Ngụy. Tướng sĩ quân Ngụy đều nghiến răng nghiến lợi, nhưng đối mặt với chướng ngại vật lần này, trong phút chốc không thể làm gì.
Cuộc chiến bất lợi mang tới hậu quả mặt trái rõ ràng. Cánh quân Ngụy bị chặn lại ở Thiên Quan gần một tháng, không thể tiến lên một bước, trong quân chẳng những sĩ khí suy sụp mạnh, mà giữa hai tướng chỉ huy tối cao một già một trẻ Khương Hàm Nguyên và Triệu Phác cũng bắt đầu không thể tránh khỏi xuất hiện ý kiến không hợp nhau.
Lão tướng quân thương lính như con, xưa nay chủ trương không cầm chắc không đánh, hiện giờ so thế quân hai bên, quân Địch còn có điểm lợi địa thế, bèn không muốn mạo hiểm cường công tiếp. Thám báo đông đảo phái ra cũng có thu hoạch, xác minh địa hình chung quanh, báo cáo bên ngoài mấy trăm dặm có một con sông lớn, vốn là sông rộng nước siết, rất nguy hiểm, song năm ngoái khô hạn, cộng thêm vùng thượng du mùa đông đóng băng chưa hoàn toàn tan chảy, hiện giờ nước khô kiệt, có một khúc sông mà mặt nước cao nhất chưa vượt qua ngực, có thể vượt qua, từ đó tránh được cổng Thiên quan, ôm lấy Quảng Ninh. Ông bèn sinh ý lui binh.
Làm Phó chỉ huy Khương Hàm Nguyên lại có sách lược khác, cho rằng lui binh là động tĩnh quá lớn, khó che giấu đối phương. Qua khảo sát thực địa, cô cho rằng địa hình bờ bên kia phức tạp, dễ dàng bố trí mai phục, lo rằng nếu quân Địch đuổi đến trước phe mình, dự đoán việc chiếm lĩnh địa hình có lợi, thừa lúc quân Ngụy lên đội hình tán loạn lại đón đầu tấn công thì hậu quả khó lường, đến chừng đó, tổn thất so với cường công phá thành có khi còn gấp bội.
Triệu Phác không nghe lọt ý kiến của cô, cho rằng cô trẻ tuổi nóng lòng, chỉ vì trước mắt mà không đặt tính mạng tướng sĩ trong lòng, triệu tập họp các bên định ra phương án, để lại một đội quân ở đây, mỗi ngày cố tình bày nghi trận, mê hoặc quân Địch, còn đại bộ phận quân Ngụy thì thừa dịp trời tối từng nhóm rút lui, buộc trong mười ngày đuổi tới địa điểm chỉ định, nhanh chóng vượt sông, trước khi quân Địch quân phát hiện đuổi tới sẽ chiếm xong bờ bên kia.
Một bên là lão tướng có bề dày đánh trận ổn trọng thâm hậu, không thiếu bộ hạ cũ ủng hộ; một bên là viên tân chỉ huy sắc bén mấy năm gần đây dù là chiến công hay danh vọng đều rực như mặt trời ban trưa, cho dù Khương Hàm Nguyên không có thân phận con gái Khương Tổ Vọng hay Nhiếp Chính Vương phi gia cố, cũng đủ để trong quân, nhất là tướng sĩ trẻ tuổi cấp trung và dưới, có được sức hiệu triệu lớn có một không hai.
Triệu Phác là lão tướng, tự có kiên trì của lão tướng, một khi nhận định sẽ không đổi chủ ý. Khương Hàm Nguyên cũng là người góc cạnh, cũng kiên trì không kém, không chịu lơi. Nghe nói, trong cuộc hội quân lâm thời mấy chục người tham gia, cô chất vấn phương án của Lão tướng quân trước chúng. Không tới mấy ngày, tin cấp trên truyền ra, trên dưới trong quân không ai không biết. Rất nhanh sau đó, tướng sĩ trong doanh trận cũng chia phe theo, một số ủng hộ Triệu Phác, còn lại theo Thanh Mộc Doanh, tình nguyện nghe theo hiệu lệnh tướng quân Trường Ninh. Ban đầu hai bên còn kiềm chế chờ kết quả, mấy ngày sau, gần tới cuối tháng Hai, Triệu Phác lo lắng thời tiết ấm áp dần sẽ tăng mực nước, lợi dụng thân phận chỉ huy hành quân cưỡng ép hạ lệnh xuống dưới chấp hành. Lần này như thọc trúng tổ ong vò vẽ, màn đêm buông xuống, một đám binh sĩ thanh niên trai tráng dưới sự dẫn đầu của Dương Hổ đã có xung đột với một nhóm thân binh của Lão tướng quân. Thoạt đầu hai phe chỉ tranh cãi, sau lại thành bất ngờ làm phản, chẳng những ra tay đánh nhau, còn có người vì xúc động phẫn nộ mà đốt doanh trướng cho hả giận, trong tích tắc ánh lửa trong doanh ngút trời, may mà, cuộc bất ngờ làm phản rất nhanh đã bị trấn áp.
Dù sao Khương Hàm Nguyên cũng là người có cái nhìn đại cục, không đến mức hành động theo cảm tính, vì bảo đảm đầu của Dương Hổ, không những tự mình nghiêm khắc trừng phạt đám gây rối bao gồm cậu ta, đêm đó, lùi một bước cầu chuyện khác, cũng tiếp nhận sách lược của Triệu Phác, nhưng cho rằng mười ngày là không ổn. Cô dẫn đầu một đội khinh kỵ làm tiên phong, tranh thủ trong thời gian ngắn nhất đuổi tới, dẫn đầu vượt sông, dò đường cho đại đội phía sau.
Triệu Phác là Lão tướng, lại là trưởng bối của Khương Hàm Nguyên, thấy cô cho mình bậc thang, dĩ nhiên sẽ cho qua, đồng ý. Cứ thế, quân lệnh lập tức chấp hành. Đêm đó, Khương Hàm Nguyên dẫn nhóm người ngựa đầu tiên vòng lại lên đường. Đêm hôm sau, phần lớn quân rút lui, chưa đến ban đêm, mười mấy vạn đại quân nghiêm chỉnh huấn luyện đã im ắng không tiếng động rời đi, chỉ để lại một đội mấy ngàn binh, do một phó tướng tên Lôi Biện dưới trướng Triệu Phác suất lĩnh, yêu cầu dùng hết thủ đoạn phải mê hoặc đối thủ, kiên trì mười ngày.
Hôm ấy, trong đại doanh trống trải, đội binh mấy vạn người cuối cùng cũng đã rời đi đêm qua. Trời sáng, Lôi Biện bắt đầu chấp hành nhiệm vụ, cho một ngàn người lợi dụng địa hình ruộng dốc chập trùng ngoài Thiên Quan trưng cờ xí khắp nơi, nổi trống hò hét, ra vẻ đại quân sẽ bất kì lúc nào có thể tiến công, còn mình dẫn đầu hai ngàn quân giả bộ là đội tiên phong cảm tử, phát động tiến công Thiên Quan, tiến vào tầm bắn cung của đối phương, bị trận tên tập kích, bèn quay đầu rút lui, chốc lát, lại tiếp tục tiến công. Cứ thế lặp đi lặp lại mấy lần, sau nửa ngày đến trưa, tướng sĩ phất cờ hò reo miệng đắng lưỡi khô, bắt đầu rã rời tấn công, có mấy chục người không may, lúi lui binh bị tên bắn trúng, đau đớn không xiết, cũng may có mặc giáp bảo vệ trên người, đa số bị thương song không ảnh hưởng tính mạng. Lôi Biện lệnh tướng sĩ nghỉ ngơi, đốt khói bếp đám đám khắp doanh địa, tiếp tục mê hoặc quân Địch.
Giày vò nửa ngày, chính hắn cũng bụng đói réo vang, vừa ngồi xuống, nhận lấy phần cơm canh thân binh đưa lên, đang ăn như hổ đói thì trên mặt đất hướng Thiên Quan, một màn sương mù màu vàng không hề dự đoán trước dâng lên.
Là khói bụi. Nó chậm rãi bay lên trời, chớp mắt, như già vân tế nhật, cuồn cuộn bay lên, hết sức kinh người.
“Tướng quân! Đại đội binh mã người Địch xuất quan, chém giết tới — ” một binh sĩ phụ trách canh gác cưỡi ngựa chạy như điên vào doanh, hô dài.
Lôi Biện ngẩng lên, bỏ ô cơm, rồi gấp rút áp tai xuống đất, nghe âm thanh rúng động từ mặt đất truyền đến, chợt biến sắc, nghiêm nghị hét to: “Toàn bộ rút lui! Chạy mau!”
Kinh nghiệm nói cho hắn biết, giờ phút này kỵ binh đang vọt tới nơi đây tính tới hàng vạn, không chỉ thế, nhìn diện tích và tốc độ đám bụi mù lên không kia mà phán đoán, đằng sau hẳn còn một đại đội đang tiếp tục xuất quan.
Dùng mấy ngàn người, giao đấu với đội quân lớn như thế, không cần nghĩ, trong nháy mắt sẽ bị nghiền thành bột mịn!
Mấy binh sĩ phía trước rối rít nhảy lên, có người đang nghỉ ngơi, khôi giáp cũng không kịp mặc, xoay người lên ngựa quay đầu chạy.
Tả Quang Vương nước Địch tự mình thống lĩnh kỵ binh phía trước, sau khi xuất quan, giống như sóng triều dâng, gấp rút ập đến trước doanh trận quân Ngụy. Gã nhìn thấy rất rõ, quả nhiên nơi đây là tòa doanh trống rỗng, đám binh sĩ bầy hư trận kia bị đánh tơi bời đang chật vật chạy trốn, cười to, sai người ngựa theo bố trí, đuổi đánh với tốc độ cao nhất, đuổi kịp quân Ngụy đang rút lui phía trước đánh úp bất ngờ, giết đối phương đang trở tay không kịp, một phát tiêu diệt sạch.
Tháng trước, khi đại đội quân Ngụy chạy đến đây, đánh dẹp rất nhiều dân chúng không kịp chạy thoát sung thành dân phu vận chuyển đồ quân nhu, để bù đắp cho hành quân đường dài không tiện. Tả Quang Vương khác với những viên đại tướng dựa vào vũ lực chinh phạt như bọn Khâm Long ở Địch Đình, hắn thiện mưu, chẳng những đã sớm hiểu rõ tình huống sông lớn phía mấy trăm dặm ngoài kia, còn phái mật thám người Hán đầu hàng phía mình trà trộn vào, dùng thân phận dân phu hoạt động, âm thầm rình mò động tĩnh quân Ngụy, thu thập tình báo.
Đêm đó trong doanh trại quân Ngụy có tiếng nổ lớn, dấy lên ánh lửa, không giống như dị động bình thường, còn có Lão tướng Triệu Phác và Khương Hàm Nguyên bất đồng ý kiến, toàn bộ đều nằm trong lòng bàn tay hắn. Hắn tương kế tựu kế, ẩn nhẫn không phát, chờ đến hôm nay truy sát. Sau khi xuất quan đã dẫn binh mã truy kích cực nhanh, chưa tới một canh giờ, xa xa nhìn thấy một đại đội hành quân. Chính là nhóm chủ lực quân Ngụy vừa rút đi đêm qua, số lượng tổng cộng năm vạn.
Hôm nay Tả Quang Vương chỉ để lại trong quan nội hơn vạn người, còn lại hơn mười vạn, dốc toàn bộ lực lượng.
Sau khi khai chiến, Sí Thư xem Quảng Ninh là một tấm chắn có lực để mình tranh thủ thời gian, để bảo đảm không mất, đã phái đội quân tinh nhuệ tới, chiến mã hùng tráng, kỵ binh dũng mảnh, chiến lực tổng thể cực mạnh.
Tả Quang Vương muốn lấy đông địch ít, bằng tốc độ nhanh nhất dốc toàn lực điên cuồng tấn công, không tiếc bất kì giá nào, nuốt chửng nhóm quân Ngụy này xong sẽ tiếp tục đuổi bắt đội quân đã xuất phát đi từ đêm trước, cứ thế cuốn theo, cuối cùng tiêu diệt sạch.
Nhân số đối phương bấy giờ không đến một nửa của mình, lại gấp gáp đi đường, hoàn toàn không phòng bị, cơ hội chiến đấu này ngàn năm một thuở.
Giờ khắc này, trong mắt Tả Quang Vương nước Địch, những gì hắn nhìn thấy phía trướ, không phải quân địch, mà là vinh quang vô thượng sau khi hắn lập được đại công.
Lúc này, quân Ngụy đã đi tới một chỗ xung quanh đều là dốc núi, ở giữa là vùng đất hoang lõm xuống. Vì tăng tốc độ hành quân, đội ngũ trải dài bắt đầu thu hẹp. Từ trên cao nhìn xuống, giống như vô số con kiến đang từ từ di động trên mặt đất. Đây chính là cơ hội tuyệt vời để khởi xướng vây công bất ngờ, Tả Quang Vương không do dự nữa, ra lệnh một tiếng, dẫn toàn bộ người ngựa sau lưng, trùng sát tiến lên.
Tiếng vó ngựa và hò hét của hơn mười vạn kỵ binh ra roi chiến mã chạy tới, là bực nào kinh khủng, toàn bộ núi non rúng động, nói gì là tướng sĩ nước Ngụy không hề phòng bị trước mặt. Chờ chúng kịp phản ứng, muốn kết trận phản kích đã không còn kịp, cho dù có là tướng sĩ nước Ngụy gặp nguy không loạn cũng hết cách, chuyện duy nhất có thể làm, chính là lung tung quơ đại bất kì vũ khí nào có bên người mà ngăn đám kỵ binh nước Địch đương như mưa to gió lớn vọt tới kia.
Tả Quang Vương một ngựa đi đầu, dẫn một kỵ đội tinh nhuệ sau lên vọt lên vào giữa đám quân Ngụy, không cần tốn nhiều sức, xé rách biển người. Rất nhanh, một mảng quân Đại Ngụy bên trái tụ vào dốc núi bên trái, bên phải tụ sang dốc núi bên phải mà đi, hy vọng có thể dùng thế sườn núi tạm hoãn tốc độ trùng sát của Địch kỵ, tranh thủ cơ hội phản kích.
Tả Quang Vương cho bộ hạ dốc toàn lực truy sát, chớ chừa bất kỳ cơ hội thở dốc nào cho binh Ngụy, còn mình hướng tới mặt cờ phía trước, tiếp tục đánh tới.
Đương lúc hắn xông vào quân Ngụy như sói đói xông vào bầy cừu, đánh đâu thắng đó, đột nhiên, nghe bên trái tai mình một tiếng trống trận chấn thiên, quay đầu, chỉ thấy phía dốc núi cánh trái mình, đội kỵ binh nước Ngụy tính đến hàng vạn giết ra khắp núi, sau khi họ xuất hiện, đám quân Ngụy đang thất kinh chạy tứ tán cũng khựng lại đột ngột, nhao nhao chụp lấy trường mâu và cung tiễn giấu kỹ chờ dưới đất, quay lại, nhanh chóng kết trận, nâng mâu, hợp thành từng lớp tiễn trận mâu trận kín kẽ, chờ đợi Địch kỵ đang điên cuồng vọt lên.
Tả Quang Vương kinh hãi, còn chưa kịp phản ứng, lại nghe tiếng trống cánh phải bên tai, quay lại, thấy tình cảnh giống thế ập tới cánh phải của hắn.
Lúc này, hắn sực tỉnh, mình đã bị mắc bẫy!
Máu vừa sôi trào của hắn đã chuyển sang lạnh buốt. Nhưng hắn nhanh chóng định thần, phát lệnh cho tất cả thủ hạ còn chưa xông vào vòng vây toàn bộ ổn định lại, vừa đánh vừa lui, không cần kinh hoảng.
Cho dù là toàn bộ quân Ngụy có bố trí ở nơi này, thì dùng số quân và sức chiến hôm nay mình đem ra, chỉ cần có thể kịp thời rời khỏi vòng vây còn chưa thành hình của quân Ngụy, ra sức phản kích, thì dù cuối cùng không thể phản thắng nhưng muốn thoát khốn, vẫn còn hy vọng.
Nhưng hắn ngàn tính vạn tính, vẫn tính sót một điểm, nơi đây hẹp hai đầu, rộng ở giữa, là địa hình miệng hồ lô, vào dễ, song số lượng binh mã lớn muốn trong thời gian ngắn ra khỏi vốn la chuyện không thể, đại đội nhân mã phía sau của hắn, vốn không biết phía trước mặt có chuyện gì, tiếng trống trận cộng tiếng chép giết khắp núi cùng cốc trước mặt, chỉ khiến kỵ binh phía sau bị k.ích thích, lo lắng không thôi, sợ đến muộn, đầu quân Ngụy không đủ để chặt. Để tranh quân công, từng tên đỏ mắt chen nhau, kỵ đội như thuỷ triều, trùng sát tới phía trước.
Ngay sau đó, đội Địch kỵ đang lui lại gặp phải đội kỵ đang xông lên, hai phía bên ngoài là hai đội người ngựa, vốn không thể né tránh, cũng không dừng được, bị một lực kinh khủng va chạm, nghiền ép lẫn nhau.
Bấy giờ, người đã không còn gọi là người, mà là món đồ chơi do máu thịt tạo thành, người ngã ngựa đổ, phá thành từng mảnh nhỏ, đầy đất đều là máu và xác thịt vỡ vụn. Mà phía sau, vẫn còn nhiều kỵ binh đang điên cuồng vọt tới trước.
Chỉ trong thời gian ngắn ngủi không đến nửa nén hương, thắng bại đã định. Không chỉ thế, nơi đây cũng biến thành Tu La tràng của binh Địch, vô số người bị g.iết ch.ết, càng nhiều hơn là chết do chiến mã va chạm, chà đạp lẫn nhau.
Sắc mặt Tả Quang Vương như tro tàn, biết đại thế đã mất, hôm nay không thể chuyển mình, hắn cũng không lo nổi cho thủ hạ phía sau, ý nghĩ duy nhất chính là chạy trốn. Hắn một đao chặt đứt cờ đem bên người, gấp rút triệu tập thân binh, vài trăm người vây hắn vào giữa thành một khối, dựa vào tốc độ xung kích cao nhất, không phân là Ngụy hay là người một nhà, ai cản đường đều giết, cuối cùng giết ra đường máu, xông ra khỏi miệng hồ lô.
Người đứng bên cạnh hắn, từ mấy trăm rải rác chết còn bảy tám. Bản thân hắn cũng không còn uy thế ngày thường, tóc tai bù xù, toàn thân nhuốm máu. Phía trước có một con đường, hắn chuyển ngựa dọc theo đó chạy trốn, vừa qua một góc ngoặc, chợt ghìm ngựa, con ngựa vốn đã bị thương, không thể chịu được sức nặng, rên một tiếng ngã ngửa, quăng hắn ra đất.
Phía trước có một đội quân đang dừng, một nữ tướng khuôn mặt lạnh lùng sát khí oai hùng đầy người, ngang ngựa trên đường, chặn đường hắn.
Tả Quang Vương chưa gặp viên nữ tướng nước Ngụy trước mặt, song hắn biết, cô gái này hẳn là tướng quân Trường Ninh đại danh đỉnh đỉnh kia.
Bản năng sống bảo hắn từ nhanh chóng bò dậy, một đao chém một thân tín gần đó té ngựa, xông đến phía trước lưng ngựa, quay đầu chạy trốn.
Khương Hàm Nguyên quát: “Bắn chết hắn!”
Giọng cô vừa dứt, mấy mươi mũi tên mạnh mẽ vút vút lao tới, phụt phụt phụt, cùng tiếng xuyên phá áo giáp, sau lưng Tả Quang Vương trong nháy mắt cắm đầy tên như nhím, người trên lưng ngựa loạng choạng vùng vẫy mấy lần rồi ngã xuống, mấy tướng Địch còn lại cũng toàn bộ bị giết, không sót một tên.
Trận này có thể gọi là trận thắng đơn phương giết chóc, cứ thế tiếp tục đến chạng vạng tối mới kết thúc. Trên chiến trường chất đống xác quân Địch vô số kể. Khương Hàm Nguyên dẫn đại quân ngay trong đêm quay về Thiên Quan, xách đầu Tả Quang Vương và đạn đá bắn lên Quan lâu, đích thân dẫn đầu quân Ngụy tấn công.
Trong quan, quân Địch còn lại từ trong miệng mười mấy đồng đội may mắn trốn thoát biết được tin thảm bại, chủ lực tinh nhuệ đã bị giết hết, ngay cả Tả Quang Vương cũng đã chết, phía ngoài kia tiếng giết chấn thiên, quân Ngụy giơ cao bó đuốc trong tay như sao đầy trời. Trời chưa sáng, quan đã bị phá.
Đến đây, hai thành lũy quan trọng quân Địch Yến Châu thiết lập đều không còn, quân Ngụy thuận lợi đoạt lấy quận thành Quảng Ninh.
Hôm Khương Hàm Nguyên lãnh binh vào thành, nhìn thấy trên đất hoang ngoài thành, một đám đông lớn đang quỳ, binh sĩ trông chừng chung quanh.
Đấy không phải binh Địch, đều là dân bản xứ muốn chạy trốn bị bắt. Họ bị sung làm dân phu của quân Địch trong trận chiến, đối kháng với quân Ngụy, nghe Tả Quang Vương đã chết, quân Ngụy giết vô số binh Địch, họ sợ hãi vạn phần, sợ mình cũng sẽ bị trả thù, thấy Khương Hàm Nguyên cưỡi ngựa đến, cao giọng hô nữ tướng quân, khóc ròng ròng xin tha mạng.
Mấy ngày sau, Khương Hàm Nguyên đón lão tướng quân vào thành, đề nghị, ngoại trừ người Hán có chứng cớ xác thực đã sung làm nanh vuốt người Địch, còn lại dân chúng bị ép buộc giúp đỡ, toàn bộ không truy cứu, thả về nhà.
Triệu Phác vuốt râu, cười ha hả: “Cứ làm theo ý cô! Thiên Quan không dễ đánh, Tả Quang Vương cũng không dễ đối phó, lần này có thể chiến thắng khắc địch, cô quyết công to lớn. Đợi ta báo cáo về triều đình thưởng công cho Trường Ninh cô!”
Thì ra, lúc Thiên Quan bị cản trở, đánh mãi không xong, lão tướng quân ngày đêm bất an lo lắng, tính kế hoạch vòng qua sông, song Khương Hàm Nguyên không tán thành, đấy là thật. Sau đấy, chủ tướng hai người không đồng lòng, dẫn đến trong quân chia phe bất ngờ làm phản, Khương Hàm Nguyên cuối cùng bị ép nhượng bộ, ấy đều là giả. Là sau khi phát hiện có gian tế, Khương Hàm Nguyên tương kế tựu kế, bày kế dụ địch. Lão tướng quân tiếp nhận sách lược của cô, sau đó, chu đáo bố trí, lấy giả làm thật, lừa Tả Quang Vương, dụ địch đi vào miệng hồ lô thích hợp đánh phục kích, một phát tiêu diệt đội quân Địch lớn mạnh vốn khó đối phó này, thuận lợi phá thành.
Trải qua trận này, lão tướng quân càng tán thành Khương Hàm Nguyên, cô nói gì cũng đều chấp thuận.
Sau đó mấy ngày, Ngụy quân lấy Quảng Ninh làm trung tâm, càn quét quân Địch còn tàn dư chung quanh, triệt để khống chế châu Yến, tiếp đó, đóng quân ngắn ngủi, vừa tranh thủ thời gian nghỉ ngơi chỉnh đốn, vừa liên hệ hai đội cánh tả hữu cập nhật tình hình chiến đấu.
Mục tiêu kế tiếp, tiếp tục phát binh về phủ Nam Vương trung tâm quận Yến U Châu.