Trưa, Hàn Dư Tích chống cửa sổ lên, trông ra xa đường phố. Cạnh viện có một miệng giếng, những người phụ nữ vo gạo đang thầm thì rủ rỉ, một đứa bé đang chơi cưỡi ngựa tre bên ngoài tiệm ăn đối diện, đường lác đác vài mống khách. Trước kia lúc này, Hàn Dư Tích sẽ ở bờ liễu đông thành. Lý Thanh Quân ở Thành Đô thì hắn ở Thành Đô, Lý Thanh Quân ở Dương Châu, hắn cũng ở Dương châu. Hắn cẩn thận đi theo, trông từ xa, mở mắt ra là nghĩ đến Lý Thanh Quân, nhắm mắt lại cũng vẫn là y.
Cành liễu trụi lủi, bến tàu tịch liêu, gió rất lớn, thổi bay tấm áo khoác rộng của Lý Thanh Quân. Y ngồi ở đình nghỉ chân, hệt một pho tượng đá.
Hàn Dư Tích xách hộp thức ăn, bày đồ lên trên bàn đá, lúc hắn đến sát gần, Lý Thanh Quân không nhận thấy, cho đến tận khi bầu rượu đụng mạnh phải bàn đá phát ra tiếng kêu thanh thúy, ánh mắt Lý Thanh Quân mới chậm rãi dời tới.
“Từ bữa sáng sớm ngày hôm qua đến trưa ngày hôm nay, đạo trưởng chưa một hạt cơm vào bụng, ngài đang ích cốc sao?”
Hàn Dư Tích bày rượu và thức ăn, chén đũa.
Lý Thanh Quân đứng dậy, xoay người muốn bỏ đi, Hàn Dư Tích cuống cuồng, đưa tay muốn giữ y lại. Nhưng ngón tay còn chưa chạm đến bả vai Lý Thanh Quân, thì đã nghe thấy tiếng kiếm kêu, còn chưa kịp phản ứng, đã bị kiếm khí mạnh mẽ đánh ép lùi liên tục mấy bước. Hắn ổn định cơ thể ngước lên nhìn, kiếm bén[0] trong tay Lý Thanh Quân tỏa ra ánh sáng kinh người.
[0] Nguyên văn: 青锋 (thanh phong) ý chỉ kiếm cực kỳ sắc bén.
“Hiệp dĩ võ phạm cấm[1].”
[1] Cả câu là Nho dĩ văn loạn pháp, hiệp dĩ võ phạm cấm. Đây là câu trong Ngũ Đố của Hàn Phi. Ý chỉ văn nhân luôn dùng cán bút để nhiễu loạn triều cương, còn phe hiệp khách luôn luôn dùng bạo lực để xúc phạm luật lệ.
Năm chữ này từng chữ được thốt ra từ miệng Hàn Dư Tích, Hàn Dư Tích thỏa nguyện đọc được sự bi thương trên mặt Lý Thanh Quân, Lý Thanh Quân lại yên tĩnh tựa như một pho tượng đất, thần sắc đờ đẫn.
Hồi lâu sau, Lý Thanh Quân thu kiếm, chậm rãi hỏi: “Ngươi có phải là người ta từng quen?”
Trong vòng một thập niên, Lý Thanh Quân đã quên rất nhiều người rất nhiều chuyện. Lý Thanh Quân tiếp đó lại lắc đầu, lẩm bẩm: “Không phải.”
Không phải người này, mười năm trước, hắn chẳng qua chỉ là đứa trẻ tóc còn để chỏm.
“Họ Hàn, tên Dư Tích, đầu xuân thăm người thân ở Thành Đô, gặp ngươi và Cửu công tử ở tiệm buôn. Âm thầm dõi theo nhiều ngày, vốn là hiếu kỳ, không nghĩ tới lại theo cả đường đến tận Dương Châu. Tất nhiên mỗi ngày đều thấy, hàng đêm lòng mong.”
Hàn Dư Tích giải thích hành tung của hắn, nguyên do của hắn.
Hắn chứng kiến sự si tình của Lý Thanh Quân, Hàn Tễ Cảnh thay duyên mới, cho nên Lý Thanh Quân ở lại Dương Châu chờ đợi Hàn Tễ Cảnh nửa năm, hắn cũng du đãng theo đó nửa năm.
“Hoang đường.”
Vẫn là hai chữ này, con ngươi Lý Thanh Quân hiện lên ý lạnh, y nhìn chăm chú Hàn Dư Tích, hòng xem rõ hư tình giả ý từ khuôn mặt hắn, thế nhưng lại chỉ đối diện với cặp mắt nóng bỏng.
Ái mộ, khao khát.
Hiệp dĩ võ phạm cấm, mà bọn họ vốn cũng là đám người lang thang ngoài lễ pháp. (kỷ cương, phép tắc của xã hội).
Gió chiều xào xạc kêu, đồ ăn nguội, còn có cô linh ngồi trên bàn, một Hàn Dư Tích giống như tượng đá.
Nhìn con kênh đào xưa cũ này, nước xanh trong đó cũng không sạch sẽ trong suốt, Hàn Dư Tích biết Lý thanh Quân đang từ từ chết đi, còn hắn thì chưa bao giờ là người từng xuất hiện trong cuộc đời Lý Thanh Quân cả, bọn họ không hề liên quan, trong lòng Lý Thanh Quân hắn không hề có chút sức nặng nào.
Giữa hạ, oanh hót trong bụi liễu xanh rì, chàng công tử chắp tay rời đi, thật nhẹ nhàng, gió mát vuốt ve nụ cười chàng, ánh mắt sáng ngời như rất vui vẻ.
Cuộc đời xán lạn, thanh xuân rực rỡ, sức sống ngát bừng như liễu xanh.
Lửa thuyền xa xa lấm tấm, Hàn Dư Tích ngắm nhìn, bóng dáng hắn thanh lãnh, thế mà lại phảng phất dáng hình Lý Thanh Quân. Ở dưới ánh trăng lau kiếm, múa kiếm, kiếm pháp của Hàn Dư Tích xảo quyệt, hung ác lại quái đản.
Đeo kiếm về trong đêm, đúng lúc gặp chủ quán bê nước bẩn từ trong phòng ra vẩy hắt trong viện, chủ quán thấy Hàn Dư Tích đi vào, chẳng qua cũng chỉ liếc có một cái. Đèn đuốc trong căn phòng Lý Thanh Quân mờ căm, Hàn Dư Tích đẩy cửa, cài lại. Hàn Dư Tích đứng ngoài song cửa, xuyên qua giấy dán cửa có thể lờ mờ thấy Lý Thanh Quân nằm thẳng trên giường. Hàn Dư Tích lộn lại, tìm chủ quán lấy chậu sưởi than củi.
Hắn xách chậu sưởi, đặt ở cửa. Rút kiếm, lấy kiếm cắm vào khe cửa, nhẹ nhàng khêu then cài gỗ, cửa phòng bị mở ra.
Lý Thanh Quân trên giường im hơi lặng tiếng.
Hàn Dư Tích bưng chậu sưởi vào, vội vàng đóng kín cửa.
Hắn đến gần trông Lý Thanh Quân, Lý Thanh Quân đúng lúc cũng mở mắt ra, y lạnh lùng nhìn kẻ xâm nhập. Mặc dù Hàn Dư Tích mang kiếm, nhưng sức ít, từ trưa nay ở bờ liễu xiêu vẹo là đã biết. Lý Thanh Quân muốn đuổi Hàn Dư Tích đi, là chuyện dễ như trở bàn tay.
Vẫn giống như đêm qua, Hàn Dư Tích mặc nguyên quần áo nằm xuống cạnh Lý Thanh Quân.
Đêm nay, Lý Thanh Quân không ngủ, Hàn Dư Tích cũng không.
Vào canh ba, Lý Thanh Quân đột nhiên nói: “Ngày mai, sắp có cố nhân từ Hàng Châu tới, nếu hắn hỏi tới, ngươi nhớ báo cho hắn Sinh tử chưa chắc không thể chọn, thà hạ táng dưới tùng tuyết[2].”
[2] Tùng Tuyết (Tuyết Tùng): loại cây này thường đại diện cho người quân tử
Hàn Dư Tích nghi ngờ nhỏm dậy, dè dặt đưa tay, hắn muốn chạm vào cánh tay Lý Thanh Quân, lại thận trọng, vì hắn biết kiếm của Lý Thanh Quân còn đặt bên người. Đầu ngón tay chạm tới tay áo Lý Thanh Quân, cũng không nghe thấy tiếng kiếm, Hàn Dư Tích mới vội vàng nắm lấy cổ tay Lý Thanh Quân, ngón tay nhấn trên chỗ mạch đập.
Mạch tượng yếu ớt như tơ mảnh.
Nửa năm nay ăn uống không chu toàn, đang từ từ tiêu tẫn sinh mạng y, mấy ngày nay không ăn, chỉ sợ vì y đã biết đại hạn sắp giáng lâm.
Đêm nay, tuyết tung bay, Hàn Dư Tích đá văng cửa phòng chủ quán, lấy mộc bài gỗ lim ra, lệnh chủ quán lập tức đưa về dịch trạm. Hàn Dư Tích đích thân ôm Lý Thanh Quân vào lòng, giục ngựa như điên đến bờ liễu, cầm kiếm bức chủ thuyền chạy suốt đêm đi Hàng Châu.
Mộc bài: lệnh bài bằng gỗ.
Bên ngoài khoang thuyền, có thể nghe thấy tiếng gọi đáp của thuyền tuần tra gần đó, có hai chiếc thuyền áp sát đi cùng thuyền dân của Lý Thanh Quân, mà lúc trước, cũng đã có hai vị tuần vệ vận đồ lính lên thuyền, một người thủ mũi thuyền, một người thủ tại đuôi thuyền.
Lúc ở trên thuyền thần trí Lý Thanh Quân vẫn tỉnh táo, tuy rằng đôi mắt y trũng sâu, đã mất đi ánh sáng lộng lẫy, đen đặc giống như hồ sâu. Y nhẹ giọng nói chuyện với Hàn Dư Tích: “Ngươi theo dõi ta cũng đã phải hai năm rồi đúng chứ?”
Y để mặc Hàn Dư Tích ở bên cạnh bới lộn hòm trúc đựng quần áo của y, một phong thư rơi ra, y muốn vươn tay ra lấy, nhưng tay run rẩy dữ dội, rốt cuộc không nhấc lên nổi.
“Không nghĩ, sau mười năm nay, vẫn là tìm thấy ta ở Thành Đô,”
Hàn Dư Tích đặt cánh tay lộ ra ngoài của Lý Thanh Quân vào lại chăn, hắn vẫn ôm Lý Thanh Quân, tàn nhẫn nói: “Không cho phép chết, nếu như ngươi chết, đừng vọng tưởng hạ táng cái gì dưới tuyết tùng, dù chỉ còn tro cốt, thì cũng phải về Bắc chầu điện!”
“Ha ha.”
Lý Thanh Quân khẽ cười.
Cho đến khi nước mắt Hàn Dư Tích rơi xuống mặt y, y mới kinh ngạc trừng hai mắt, y không nói hai chữ “Hoang đường” kia ra nữa. Bởi vì Hàn Dư Tích níu lấy cổ áo y, dốc sức hôn môi y, nói là hôn lại càng giống cắn xé hơn, mùi máu tanh trộn lẫn vị mặn nước mắt, tựa như đã từng quen biết.
Tuyết trên Hoa Sơn, năm ấy từng cấp tốc cướp đi hơi ấm cơ thể, sau đó chầm chậm chôn sâu một thi thể, thiếu niên tuyệt mỹ tóc dài xõa trên vai quỳ ngồi nhiều ngày trong tuyết, ngực bưng một chuôi huyết kiếm, giống như nâng chân tình cả một đời vậy.
Lý Thanh Quân không giãy giụa, y để mặc hành vi càn rỡ của Hàn Dư Tích. Y cảm thấy cực kỳ buồn cười, lại không có sức để cười lớn, thậm chí cũng mệt đến mức không nghĩ nổi câu từ nữa.
Câu kia của kẻ theo dõi: “Tất nhiên mỗi ngày đều thấy, hàng đêm lòng mong.” Xem ra ngược lại là thật rồi.
Thuyền cập bến trong đêm lạnh căm, ánh trăng trên nước thê lương, tiếng gió nghẹn ngào, tựa như con thuyền cô độc chìm hãm vào trung tâm quỷ quái, trước không đường vào, lối về cũng không.
Đứng ở đầu thuyền, vệt nước mắt trên mặt đã bị gió hong khô, Hàn Dư Tích rút chuôi kiếm như hình với bóng với Lý Thanh Quân ra, vỏ kiếm rỉ sét, viên đá bọc lụa trang trí trên chuôi kiếm tầm thường không bắt mắt, lấy đao gọt phần vải thêu đi, lóng lánh như ánh sao, hóa ra lại là một viên đá quý.
Rút trường kiếm ra, hàn quang bắn ra bốn phía, lấy khăn lụa lau nhẹ lưỡi kiếm, ba tầng khăn lụa rách cả ba, hơn nữa còn để lại trên ngón cái của Hàn Dư Tích vết cắt thấu xương.
Chuôi kiếm này chính là danh kiếm nhà họ Hàn ở Kê Sơn chế tác ra, có người gọi là kiếm Thu Thủy, cũng có người gọi là kiếm Trảm Phong, sắc bén một cách dị thường.
Trời tờ mờ sáng, thuyền tuần tra cản thuyền hàng đến từ phía trước lại, kiểm tra từng chiếc một. Tới khi nắng mai chiếu sáng mặt sông, chợt thấy một đàn cò trắng giương cánh bay ra khỏi lau sậy ở bờ nam, khi cò trắng bay đi hết, một con thuyền lẻ loi bơi ra, khua mặt nước trầm lắng thành vô số gợn sóng. Trên thuyền đơn có một vị sĩ tử[3] áo đen, hai vị đồng tử thanh nhã khả ái khua mái chèo.
[3] Sĩ tử ở hoàn cảnh này chỉ người trẻ tuổi có ý khen ngợi, đồng thời ám chỉ người đọc sách, là con cháu nhà hào môn.
Edit by Ney