Chuyện xưa tựa gió thổi mây trôi, mà ở nhân gian lúc này, hoàng hôn đỏ rực như tô, ngoài cửa sổ tuyết ngập lún đầu gối, tỉnh thoảng có cành cây khô bị gió tuyết bẻ gãy, lặng lẽ rụng về cội.
Thất Nguyệt ngồi một mình dựa vào cửa sổ, lặng nghe gió tuyết, tay cầm một lá thư, là một tờ giấy hơi mỏng, do Trần Chiêu gửi đến, trên đó viết lại tình hình gần đây của chàng, mấy ngày nay tuyết vẫn đang rơi, hành quân chậm chạp, hôm nay ăn bánh màn thầu không ngon, mấy chuyện đại loại như vậy.
Hai tháng trước Trần Chiêu ra chiến trường. Ở biên cảnh phương nam bùng ra chiến tranh, thân là thế tử phủ quân hầu, hắn phải theo phụ thân xuất chinh. Lúc Thất Nguyệt biết chuyện này, nàng cũng muốn đi theo.
“Không được, chiến trường nguy hiểm, nàng không thể đi.”
“Ta có thể giúp ngươi, ngươi không biết võ công, làm sao có thể đi đánh giặc?”
“Lâu nay nghe nàng kể không ít chuyện trong tam giới, ta đại khái có thể hiểu được trong trời đát luôn có trật tự, chiến tranh là chuyện của nhân gian, nàng đừng tham dự vào. Ai nói đánh giặc nhất định phải dùng vũ lực, nàng đừng lo cho ta. Sau này không chơi cùng nàng được, ta sẽ thường xuyên gửi thư về, đặt trong thư phòng cho nàng.”
Chàng nói xong những lời này, nhẹ nhàng ôm lấy nàng, đó là lần đầu tiên bọn họ lại gần nhau đến vậy, Thất Nguyệt cảm thấy trái tim mình đập thình thịch, còn nhói lên nhè nhẹ.
“Chờ ta quay về.”
Thời khắc ly biệt, Thất Nguyệt chạy đến trên tường thành, nhìn đoàn quân đi xa, không khỏi nhớ tới một quyển sách từng xem trong thư phòng của chàng, trên ấy viết một câu thơ của thi nhân tên Bạch Cư Dị,
“Tường đầu mã thượng dao tương cố,
Nhất kiến tri quân tức đoạn trường.” [1]
[1]Đây là hai câu trích trong bài thơ Tỉnh để dẫn ngân bình – Kéo bình bạc dưới đáy giếng của Bạch Cư Dị.
Dịch nghĩa:
Người sau tường, kẻ trên người nhìn nhau từ khoảng xa,
Một lần thấy nhau đã chợt thấy lòng nhức nhối.
Bản dịch của Ngô Văn Phú:
Chàng ngoái nhìn, phía đầu tường,
Một lần gặp gỡ, biết chàng nao nao.
Bản dịch của Nguyễn Minh:
Ngựa chàng dừng bên góc liễu buông
Nhìn nhau trên ngựa sau tường
Một lần gặp gỡ lòng vương vấn rồi.
(Theo thivien.net)
Thất Nguyệt thu dòng suy nghĩ, gấp thư lại. Trời không biết đã tối tự bao giờ, nàng đang chuẩn bị trở về, đột nhiên một tiếng sấm từ trên trời giáng xuống, ầm ĩ như muốn huỷ diệt cả thế gian.
Chỉ thấy một luồng sáng từ trên không trung rơi xuống mặt đất, nàng vừa đến gần thì thấy là một tiểu bạch xà mang theo yêu khí nhàn nhạt, vết thương đầy người, hơi thở thoi thóp. Yêu quái? Nàng đang do dự không biết có nên cứu không thì bỗng có hai bóng người đáp xuống, đó là Na Tra và Hồng Hài Nhi.
“Tránh ra!”
“Ờm, các ngươi đang bắt yêu quái à?”
“Con xà yêu này trộm cỏ linh chi ở núi Côn Luân, ta phụng mệnh đi bắt nó.” Khuôn mặt Hồng Hài Nhi nghiêm túc cứ như ông cụ non, “Mau tránh ra! Ta phải dẫn nó về để báo cáo công việc rồi nhanh chóng về nhà nữa!”
Na Tra cắt ngang lời nó nói, vẻ mặt ghét bỏ: “Nếu không phải ngươi ở bên cạnh phá rối, một con xà yêu bé xíu, ta đã bắt được từ lâu rồi, còn phải khuấy động lớn như thế này à?”
“Rõ là do ngươi ngáng đường ta, ta mới là người bắt nó trước…”
Thất Nguyệt nhìn hai người tranh qua cãi lại, cảm thấy con tiểu bạch xà thật sự đáng thương, gặp đúng hai ông nhõi con này. Chỉ là con xà yêu này có lai lịch ra sao mà lại khiến hai vị này đích thân lên đường truy bắt?
Khi Thất Nguyệt trở về hỏi Thỏ Ngọc câu này, tên kia đang nâng ly trà lên chưa kịp uống, trợn trắng mắt, “Đừng nói nữa, hôm nay hai thằng nhõi này quậy cho thiên đình mù mịt chướng khí, ngươi còn không biết hay sao. Hai đứa nó lẻn ra ngoài ăn thịt nướng, kết quả vô ý gây ra hoả hoạn, suýt chút nữa thiêu rụi vườn đào tiên. Đã vậy chúng nó còn cố tình dùng Tam muội chân hỏa, Thiên Đình không có ai dập được, chỉ đành đi mượn quạt ba tiêu. Cuối cùng Ngọc Đế nổi trận lôi đình, phạt hai đứa nó xuống hạ giới bắt yêu quái.”
“Đúng là bọn nhóc quậy”, Thất Nguyệt cạn lời, “Vậy còn con tiểu bạch xà kia thì xảy ra chuyện gì?”
“Nghe nói nó là xà yêu tu hành ngàn năm, trộm tiên thảo để cứu trượng phu của mình thôi. Vì một tên phàm nhân mà từ bỏ cả ngàn năm đạo hạnh, hỏi thế gian tình là chi mà khiến bao người đau khổ, aiz…”
Nếu đặt vào hoàn cảnh trước kia, có lẽ Thất Nguyệt sẽ đồng ý với hắn, nói cho cùng thì mấy chuyện này đâu hiếm lạ? Hỉ Thước xây cầu bên sông Thiên Hà, sự bi ai của Hằng Nga trong điệu múa, câu thơ trên đèn Khổng Minh, những chuyện như vậy mỗi năm nàng chứng kiến chưa đủ nhiều sao? Thế nhưng giờ đây nàng lại do dự, nàng hơi hối hận vì không thể cứu giúp tiểu bạch xà, tuy rằng với bản lĩnh của nàng chưa chắc đã cứu được nó.
Đối với thần tiên mà nói, sinh mệnh là vô tận, vậy nên muốn được ở bên cạnh một người phàm, dù là kết tình bằng hữu hãy nghĩa phu thê, bọn họ cũng sẽ có ngày già đi. Nếu vẫn muốn đánh đổi, trao đi tình cảm, thì nhất định phải chấp nhận rằng phàm nhân sẽ rồi sẽ rời khỏi cuộc đơi chúng ta, vĩnh viễn không quay lại, mà thứ còn sót lại là nỗi day dứt khôn nguôi. Những thứ mà tiên gia mong cầu có được phải là Bát-nhã [2] cầm hoa mỉm cười, nào phải nhân gian quẩn quanh uốn lượn? Duy chỉ có chuyện tình cảm là ai cũng chẳng thể trốn tránh. Những phong cảnh dẫn người ta trầm mê lạc lối đó, một khi đã trải qua thì không tài nào dứt bỏ nổi.
[2] Bát-nhã là thuật ngữ Phật giáo, hãm nghĩa Trí huệ, Huệ, Nhận thức. Bát-nhã là một khái niệm trung tâm của Phật giáo Đại thừa, có nghĩa là trí tuệ nhưng không phải do suy luận hay kiến thức đem lại, mà là thứ trí huệ của sự hiểu biết một cách toàn triệt, không mâu thuẫn. (theo Wikipedia)
Nàng lại nghĩa tới khúc “Phượng cầu hoàng” của Trần Chiêu, đại khái cũng đã tỏ tường vì sao đã biết trước tất cả đắng cay mà người ta vẫn kiên trì theo đuổi. Khoảnh khắc đó, nàng lập tức muốn đi gặp chàng, len lén mà đi, tự nhủ chỉ nhìn một cái.