Trâm 2: Kẻ Yểu Mệnh

Chương 22: Hương tan ngọc nát




Sáng hôm sau khi họ tới, cả phủ công chúa đã chìm trong bầu không khí nghiêm trang và đau buồn.

Đám người dưới đang gỡ hết trướng lụa xuống, treo màn trướng trắng lên; Vi Bảo Hoành cũng đổi từ áo gấm thêu sang áo xô trắng. Trong gác đặt thi thể công chúa bày đầy đá lạnh để giữ cho cái xác khỏi thối rữa, nhưng giờ đang mùa hạ, e rằng cũng không giữ được lâu.

Vi Bảo Hoành ra tận cửa đón Quỳ vương, rân rấn nước mắt thưa: “Hàn quốc phu nhân nói, năm ngoái đã đặt sẵn một cỗ quách bằng gỗ nam mộc khảm tơ vàng, xin nhường để khâm liệm cho công chúa. Người trong phủ đang đi lấy về, bằng không thời tiết nóng nực thế này, chỉ e…”

Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn thi thể Đồng Xương công chúa nằm đó. Nàng đã thay sang áo gấm đỏ tía thêu chim trĩ, búi tóc cài cây trâm Cửu loan đã được gắn lại, phục sức chỉnh tề, má hồng môi đỏ, nét đẹp sắc sảo mong manh còn mặn mà hơn trước.

Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Đã ai kiểm nghiệm tử thi chưa?”

“Chưa, hoàng thượng đau lòng như thế, ai dám nhắc đến chuyện đó nữa?” Vi Bảo Hoàng nhìn thi thể Đồng Xương công chúa, nước mắt lại lăn dài.

Hoàng Tử Hà hỏi: “Có thể để nô tài kiểm tra sơ qua một lượt không?”

“Công công được hoàng thượng chỉ định điều tra vụ này, nhất định phải xem rồi.” Vi Bảo Hoành gật đầu.

Hoàng Tử Hà tạ tội với hắn rồi bước đến cạnh Đồng Xương công chúa, Lý Thư Bạch và Vi Bảo Hoành tạm lánh ra ngoài. Cô nhẹ nhàng cởi y phục công chúa ra, quan sát kỹ vết thương trước ngực.

Vết thương đã được rửa sạch, cơ thịt co lại làm miệng vết thương càng thêm nhỏ. Chỉ thấy một lỗ máu sâu hoắm gọn ghẽ, hung thủ đâm một nhát trúng tim khiến công chúa chết ngay tức khắc.

Lúc họ chạy đến nơi thì công chúa vừa bị đâm, hung thủ đang bỏ trốn. Nhưng trước đó công chúa đã bị bắt giữ đến nửa tuần hương, ở đó lại đông như thế, tại sao không kêu cứu? Trong khoảng thời gian ấy, công chúa và hung thủ đã làm gì?

Cô kiểm tra kỹ một lượt, xác định không còn vết thương nào khác, mới mặc lại y phục cho công chúa rồi bước ra khỏi phòng.

Vi Bảo Hoành hỏi ngay: “Thế nào rồi?”

“Không có gì khác thường cả, quả là bị đâm trúng tim mà chết, vết thương khá nhỏ, trùng khớp với kích thước trâm Cửu loan.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn Quỳ vương.

Lý Thư Bạch hiểu ý, liền bảo: “A Vi, ta còn một việc muốn hỏi phò mã.”

Vi Bảo Hoành gật đầu, dẫn bọn họ đến vườn Túc Vi.

Ngang qua vườn Tri Cẩm, Hoàng Tử Hà chợt dừng bước: “Mạn phép hỏi phò mã, có thể cho chúng tôi vào trong xem xét được không?”

Nhìn hai cánh cửa khép chặt, nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng vẻ kinh ngạc cùng đau xót, hắn lắc đầu: “Công chúa đã cho người phong tỏa vườn này lại, nói là bên trong có ma quỷ tác quái, phải mất mười năm mới thanh trừ được…”

“Nhưng giờ công chúa đã qua đời rồi mà?” Hoàng Tử Hà nhìn con dấu của Đồng Xương công chúa in trên giấy niêm phong dán ngoài cửa, phản bác.

“… Chỉ là mảnh vườn bỏ hoang lâu ngày thôi mà, lại nghe đồn có ma, ta thấy…” Vi Bảo Hoành nhìn Lý Thư Bạch, nào ngờ y lại tán đồng với Hoàng Tử Hà: “Đứng ngoài này cũng thấy chuối cao vượt tường, nghe được tiếng nước chảy róc rách, ta nghĩ bên trong hẳn là đẹp lắm, muốn vào xem sao.”

Vi Bảo Hoành không còn lời nào để nói, đành bảo người hầu đi lấy chìa khóa. Chẳng mấy chốc, cửa vườn đã được mở.

Vườn Tri Cẩm quả là nơi để tránh nóng, vừa mở cửa ra đã thấy hơi mát phả vào mặt. Bên trong rợp những chuối, dòng nước uốn lượn bao lấy ngôi đình nhỏ giữa vườn, dưới nước trồng đầy xương bồ và hoa súng. Vì bỏ hoang đã lâu nên hai bên bờ cỏ mọc xanh um, mặt nước đầy bèo, không gian xanh ngắt mà yên tĩnh.

“Khu vườn đẹp thế này, bỏ không thì tiếc quá.” Lý Thư Bạch tấm tắc rồi xăm xăm đi vào. Vi Bảo Hoành thoáng chần chừ, xong vẫn theo sau.

Đi đến bên hồ, Lý Thư Bạch ngoái lại hỏi Vi Bảo Hoành: “Sao Đồng Xương lại phong tỏa khu vườn này?”

“Mấy tháng trước… có người sẩy chân rơi xuống nước, chết đuối ở đây.”

“Là thị nữ trong vườn ư?”

“Vâng…” Hắn thẫn thờ nhìn ra mặt hồ.

“Người trong cung à?”

Thấy y cứ chăm chắm hỏi chuyện này, Vi Bảo Hoành biết không thể lảng tránh được, đành đáp: “Thưa không, là thị nữ ở nhà con đưa đến, hầu hạ con từ nhỏ, tên… Đậu Khấu.”

“Nghe nói bức tranh đậu khấu của phò mã vẽ rất đẹp.”

“Thưa vâng, Đậu Khấu cùng con lớn lên, tình cảm… như mẹ như chị vậy.”

Lý Thư Bạch nhìn gió thổi dạt đám bèo trên hồ, lộ ra mặt nước nông, trông thấy đáy, trầm ngâm hỏi: “Ả luôn hầu hạ bên cạnh phò mã, sao tự dưng lại chết đuối ở đây?”

Vi Bảo Hoành cắn môi, hồi lâu mới đáp: “Người trong phủ nói, Đậu Khấu bị ma quỷ trong vườn mê hoặc, dẫn dụ đến đây…”

“Ngươi biết rõ là không phải vậy mà.” Lý Thư Bạch lắc đầu, “Công chúa đã qua đời, ngươi muốn tránh tị hiềm cho người đã khuất, ta rất hiểu. Xong chuyện đã đến nước này, hoàng thượng lại sai Dương Sùng Cổ tra xét, có một chuyện, chúng ta buộc phải hỏi rõ, mong phò mã bỏ quá cho.”

Vi Bảo Hoành biến sắc: “Nhưng… đến giờ con vẫn không biết Đậu Khấu làm sao mà chết.”

“Nhưng phò mã biết hung thủ là ai, đúng không nào?” Hoàng Tử Hà chen vào.

Vi Bảo Hoành đột ngột bị vạch trần, loạng choạng lùi lại, sững sờ nhìn cô, không nói được nửa lời.

“Vi phò mã, để báo thù cho Đậu Khấu, phò mã đã bày ra vở kịch này, khiến mọi người đều đổ dồn mắt vào phủ công chúa, đến giờ xem ra, phò mã thành công rồi đấy.” Nhìn vẻ mặt kinh ngạc của hắn, Hoàng Tử Hà thở dài: “Nô tài vốn dĩ cũng không ngờ, nhưng mọi chuyện quả là trùng hợp, đến giờ đã có ba nạn nhân, hơn nữa ba vụ án mạng này dường như đều là trời phạt, lại lần lượt được thực hiện theo bức tranh của tiên hoàng, ba hình vẽ, ba người chết, chẳng khác nào cục diện được định sẵn từ mười năm trước.”

“Trời phạt ư…” Vi Bảo Hoành lẩm bẩm.

“Đúng thế, ba vụ án này thoạt nhìn không thể đoán được thủ pháp gây án, cách giải thích hay nhất là trời phạt hoặc bị nguyền rủa theo bức tranh của tiên hoàng. Nhưng trong tranh không có việc phò mã bị ngã ngựa. Bởi vậy, tuy việc phò mã bị thương khiến công chúa lo lắng không yên, cũng khiến hoàng thượng phải hạ lệnh cho chúng tôi để mắt tới phủ công chúa, tập trung điều tra mấy vụ án liên quan tới quý phủ, nhưng sau khi tra xét và so sánh, nô tài cảm thấy vụ án của phò mã gia không liên quan gì đến chuỗi án mạng này.”

Vi Bảo Hoành im lặng nhìn cô, không giải thích, cũng không thừa nhận.

“Thứ nhất, vụ việc của phò mã gia không hề xuất hiện trong tranh, chứng tỏ ban đầu hung thủ không tính đến phò mã. Thứ hai, ngã ngựa tuy nguy hiểm, nhưng đa phần chỉ thương tích chứ ít người tử vong, huống hồ phò mã gia chỉ bị thương nhẹ, không giống với thủ pháp chuẩn xác ác độc của hung thủ, rõ ràng không phải do cùng một người ra tay. Còn thứ ba…”

Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào Vi Bảo Hoành, thở dài: “Phò mã gia không trực tiếp can dự vào bi kịch của Lữ Tích Thúy, xét về điểm này thì phò mã gia là kẻ vô tội, không lý nào lại bị cuốn vào.”

Vi Bảo Hoành nhếch môi nhìn cô, hồi lâu mới hỏi: “Sao ngươi lại cho rằng, vụ tai nạn ở sân kích cúc hôm đó là do ta bày ra?”

“Nhìn bề ngoài thì vụ tai nạn đó rất khó có người nhúng vào được. Dẫu sao cũng là do phò mã gia đích thân chọn ngựa, có xảy ra bất trắc thì chỉ là trùng hợp, hoặc có người tiến hành phá rối không nhằm vào ai cả, phò mã xui xẻo gặp phải mà thôi. Nhưng có một người, bất luận phò mã chọn thớt ngựa nào, cũng có thể gây ra một vụ tại nạn không lớn không nhỏ, hơn nữa phò mã vẫn kịp thời phòng bị và khống chế được, có phải không?” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào hắn, nói rành rọt từng tiếng một, “Người đó, chính là phò mã.”

Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống tránh ánh mắt cô, quay đầu nhìn ra những bông súng lác đác trên mặt hồ: “Chứng cứ đâu?”

“Chứng cứ chính là chiếc móng sắt kia. Cây đinh trên đó mới bị nạy ra, vì nếu hung thủ ra tay trước trận đấu thì dấu vết chỗ cây đinh hẳn đã có gỉ sét hoặc bám bụi. Mà trong trận kích cúc, lúc ngựa của phò mã chạy đương nhiên người khác không thể ra tay, duy chỉ lúc nghỉ là có cơ hội, thì cả bầy ngựa lại bị Địch Ác của Quỳ vương uy hiếp, co cụm vào một góc, ngay đến người cho ngựa ăn uống còn không tiếp cận nổi, vô tình những người khác lại được tẩy sạch hiềm nghi.”

Vi Bảo Hoành gắng gượng nhếch môi cười nhưng trông rất khó coi, vặn lại: “Nói vậy chẳng lẽ công công trông thấy Vi mỗ ra tay ư?”

“Phò mã cần gì phải chính tay làm. Bấy giờ trong tay phò mã còn có cây gậy đánh cầu kia mà. Người trong kinh đều biết phò mã điều khiển gậy rất thành thục, cưỡi ngựa cũng cực giỏi, chỉ cần nhằm đúng lúc mọi người trong ngoài sân reo hò cổ vũ, đổ dồn mắt vào trái cầu, tiếng hoan hô át hết mọi âm thanh, phò mã thừa cơ ngựa cất vó hí dài thì dùng cây gậy đánh vào vó phải phía trước của ngựa, làm phần móng trước vênh lên, đinh sắt long ra, móng cũng hở ra, hễ ngựa chạy là sẽ ngã quỵ gãy chân, khiến người khác lầm tưởng rằng phò mã bị hãm hại.”

Vi Bảo Hoành vẫn chăm chú ngắm mấy bông súng buồn rũ trên hồ, giọng mơ màng lơ đãng: “Dương công công nói xem, tại sao Vi Bảo Hoành mỗ phải cố ý làm mình bị thương?”

“Vì Đậu Khấu, phải không nào?” Hoàng Tử Hà đứng phía sau hắn, giọng bình thản: “Sau khi nghe Xương Bồ kể về Đậu Khấu, nô tài đã lưu ý tới một điểm: một thị nữ ở vườn Túc Vi Bảo Hoành lại chết đuối tại vườn Tri Cẩm, cách đó khá xa, hơn nữa sau khi qua đời, người trong phủ chẳng ai phản ứng gì, chỉ riêng công chúa ngụ tại gác Thê Vân, nằm ở tuốt đầu kia phủ, nói là nửa đêm trong vườn có tiếng thở than khóc lóc, sai người phong tỏa vườn Tri Cẩm lại.”

Cô hướng mắt ra hồ như Vi Bảo Hoành, giọng nhỏ hẳn: “Hơn nữa hồ nước nông đến nỗi không trồng sen nổi phải trồng súng, muốn chết đuối dưới hồ cũng khó lắm.”

“Bởi vậy mọi người đều nói Đậu Khấu bị ma quỷ mê hoặc kéo xuống nước.” Rốt cuộc Vi Bảo Hoành cũng lên tiếng, giọng nói không giấu được vẻ mệt mỏi và đau xót, “Nhưng ta biết là không phải. Tiếc rằng ta chẳng có cách nào… Ta là đồ vô dụng, cả người mình thích cũng không bảo vệ nổi…”

Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, lặng thinh không nói.

“Từ nhỏ Vi mỗ đã chẳng có chí hướng, lớn lên cũng chẳng tài hoa xuất chúng, chỉ giỏi mỗi đánh mã cầu. Đậu Khấu lớn hơn ta mười tuổi thường khuyên rằng, ta viết chữ trông cũng tạm được, nên luyện viết chữ thêm. Thế là ta cố gắng luyện suốt ba tháng, chỉ viết hai chữ Đậu Khấu, đúng là viết đẹp hẳn ra…” Nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng tươi lên, hắn trân trân nhìn vào hư không, vẻ nâng niu pha tiếc nuối, như đang thấy lại chính mình thời niên thiếu vô tri: “Năm ta tám tuổi, cha từng nhắc đến việc gả Đậu Khấu đi, ta bèn lăn ra đất giãy giụa khóc lóc, tuyệt thực suốt ba ngày, cuối cùng cha mẹ đành phải nhượng bộ. Ta cứ thế chiếm hữu hơn hai mươi năm thanh xuân của Đậu Khấu, giờ nghĩ lại thì, nếu năm đó Đậu Khấu được gả chồng, nhất định… sẽ hạnh phúc hơn ở bên ta…”

Lý Thư Bạch nhíu mày cắt lời: “Vậy mà ngươi còn cưới Đồng Xương công chúa, chẳng phải làm lỡ dở người ta ư?”

“Con biết làm sao được? Con chỉ chơi một trận kích cúc, thấy một nữ tử đứng ngoài sân nhìn mình chằm chằm, bèn vung gậy cười với cô ấy, nào ngờ mấy hôm sau trong cung hạ chỉ, nói hoàng thượng muốn gả Đồng Xương công chúa cho mình. Bấy giờ con còn không vào nổi Hàn Lâm Viện, vậy mà chỉ vẻn vẹn một năm đã thành Quang Lộc đại phu!” Vi Bảo Hoành hỏi ngược lại ngay, như đang phân trần: “Quỳ vương gia, có lẽ gia vừa ra đời đã có chức vị tiền đồ nên không để tâm, chứ với người bình thường, chỉ cần cưới một cô vợ mà có ngay tiền đồ gấm vóc, thậm chí vài ba năm là làm đến tể tướng, ai cự tuyệt nổi một chuyện như thế?”

“Nhưng phò mã muốn nhiều thứ quá.” Lý Thư Bạch chậm rãi lắc đầu, “Ngươi đưa Đậu Khấu đến phủ công chúa, thì đặt công chúa vào đâu? Huống hồ người biết rõ công chúa không đời nào chịu cảnh chồng chung, vậy mà còn bắt Đậu Khấu mạo hiểm, thì để Đậu Khấu vào chỗ nào?”

“Phải… cha mẹ con cũng nói vậy. Nhưng con… con không thể xa Đậu Khấu được. Lúc công chúa phát hiện ra, con đã quỳ sụp xuống đất nài nỉ, xin nàng tha cho Đậu Khấu, nàng cũng đã nhận lời, nhưng quay đi quay lại, Đậu Khấu lại chết ở đây… Hồ nước này nông như thế, dù Đậu Khấu có sẩy chân ngã xuống, cũng làm sao chết được? Chỉ có khả năng duy nhất là bị người ta dìm đầu xuống nước, ngạt thở mà chết thôi…”

Nói đến đây, Vi Bảo Hoành thẫn thờ nhìn đám cỏ xanh um bên bờ nước, giọng nghẹn lại, hơi thở nặng nề, không kể tiếp được nữa.

Hoàng Tử Hà cũng cảm thấy lòng ngổn ngang trăm mối, chẳng biết nên đồng cảm với tình cảm của hắn dành cho Đậu Khấu, hay nên căm ghét trước sự đê hèn của hắn đối với công chúa.

Chợt cô nghe thấy tiếng Lý Thư Bạch, xưa nay y luôn bình thản, vậy mà lúc này giọng nói cũng đượm phần lạnh lẽo: “Vi phò mã, ngươi biết rõ công chúa bị bệnh tim từ nhỏ, sau khi Ngụy Hỷ Mẫn chết thảm, công chúa lại mơ thấy Phan thục phi đòi trâm Cửu loan nên đã phát bệnh, vậy mà còn đổ thêm dầu vào lửa, ngụy tạo ra nguy cơ trùng trùng hù dọa công chúa. Bản vương thật nghi ngờ, cái gọi là âm hồn Đậu Khấu quấy nhiễu, nửa đêm khóc lóc trong vườn Tri Cẩm, có phải là ngươi giả thần giả quỷ, khiến tinh thần công chúa suy sụp, hòng báo thù cho Đậu Khấu đúng không?”

“Con chỉ muốn dọa công chúa, chứ không hề có ý giết nàng… Thực sự con chỉ định dọa nàng thôi mà…” Vi Bảo Hoành thẫn thờ lắc đầu, “Nhờ làm phò mã, con mới có tiền đồ rộng mở thế này, hại chết công chúa thì con được lợi lộc gì chứ? Các vị nói xem?”

“Những việc phò mã làm, đâu chỉ để hù dọa công chúa.” Hoàng Tử Hà không nhịn được nói tiếp, “Phò mã gia gây ra chuyện trên sân kích cúc, khiến công chúa vốn ăn ngủ không yên càng thêm sợ hãi, phải xin hoàng thượng phái người tới phủ điều tra, rồi thừa lúc chúng tôi điều tra, phò mã lại khéo léo hướng tất cả manh mối vào cái chết của Đậu Khấu, phò mã muốn mượn tay chúng tôi phanh phui vụ án mạng Đậu Khấu chứ gì?”

Nghe những lời vạch tội thẳng thừng của Hoàng Tử Hà, Vi Bảo Hoành lại phóng mắt nhìn bao quát những sắc xanh đậm nhạt trong vườn Tri Cẩm, hồi lâu mới hít sâu một hơi, nói: “Công chúa… là viên minh châu trên tay hoàng thượng, là con cưng nhà trời, cá tính rất quyết liệt. Lúc mới phát hiện quan hệ giữa Vi mỗ và Đậu Khấu, công chúa đã nổi giận đùng đùng, Vi mỗ phải vật nài mãi, công chúa niệm tình Đậu Khấu đã luống tuổi, lại chăm sóc Vi mỗ từ nhỏ, nên mới hậm hực bỏ qua. Sau khi Đậu Khấu qua đời, Vi Bảo Hoành mỗ xem sổ sách trong phủ, phát hiện công chúa đang sai người tìm cho Đậu Khấu một gian nhà bên ngoài, chỉ đợi sắp xếp xong sẽ đưa ngay đến đó.” Kể đến đây, Vi Bảo Hoành cũng rơi nước mắt, hạ giọng: “Công chúa… thực ra không phải kẻ xấu, tuy tính tình nóng nảy, bất chấp lý lẽ, nhưng nàng đã rắp tâm đẩy Đậu Khấu ra khỏi phủ, thì cần gì phải hại chết nữa?”

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Lý Thư Bạch hỏi: “Bởi thế, người giết chết Đậu Khấu không phải công chúa ư?”

“Con nghĩ là không phải… Nhưng có một người có thể khiến công chúa phải gánh tội thay.”

Vi Bảo Hoành không nói thêm, nhưng Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay hắn ám chỉ ai.

Cả vườn Tri Cẩm lặng phắc như tờ, hơi nước từ phía hồ đưa lại, lá chuối và cỏ xương bồ xanh đến ngợp người.

Ánh mắt Vi Bảo Hoành chầm chậm dừng ở Hoàng Tử Hà: “Dương công công phụng mệnh đến phủ điều tra, chẳng biết có phát hiện ra, tòa phủ đệ tinh xảo hoa lệ vô song này ẩn giấu rất nhiều bí mật đáng sợ, không thể hé lộ không?”

Hoàng Tử Hà nhíu mày, thầm rà lại tất cả những điều mình thu thập được mấy ngày nay tại phủ công chúa.

“Vốn dĩ Vi mỗ tự làm mình bị thương để xé to chuyện này ra, khiến quan phủ phải nhúng tay vào điều tra, từ đó hé lộ nguyên nhân cái chết của Đậu Khấu, đồng thời cũng lôi được kẻ sắp bước lên ngôi vị cao nhất ở cung Đại Minh kia xuống… Nào ngờ mọi chuyện lại thành ra thế này, công chúa… cũng bỏ ta mà đi.”

Hoàng Tử Hà buột miệng hỏi: “Phò mã có biết quan hệ giữa Tích Thúy và Đậu Khấu không?”

“Vốn là không biết, sau khi nghe tin công chúa khó ở vì trông thấy cô ta, dẫn tới vụ bê bối kia, ta phải đi dẹp yên sự việc, cũng gặp cô ta mấy lần. Về sau mới hay cô ta là cháu gọi Đậu Khấu bằng dì. Thực ra hai người cũng chỉ nhang nhác nhau thôi, nhưng hễ nhìn thấy cô ta, ta lại nhớ tới Đậu Khấu.” Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống, khó nhọc kể, “Vi mỗ cũng biết cô ta muốn giết Tôn ghẻ, nên đã lén bám theo, định bụng nếu cần thì giúp một tay… Nào ngờ lại bị các vị phát hiện. Thực ra Vi mỗ từng nghĩ, nếu được thì Vi mỗ có thể giết Tôn ghẻ giùm cô ta, coi như nể mặt cô ta là cháu ruột Đậu Khấu, coi như cũng vì… cô ta nhang nhác Đậu Khấu…”

Hoàng Tử Hà thầm thở dài, chẳng hỏi gì thêm nữa.

Vi Bảo Hoành thẫn thờ hành lễ cáo từ Lý Thư Bạch: “Cả công chúa lẫn Đậu Khấu đều qua đời rồi, biết được chân tướng hay không cũng chẳng quan trọng nữa… Nếu vương gia và Dương công công có gì nghi vấn, xin cứ việc tra xét trong phủ. Giờ con phải tới trông linh cữu công chúa, bằng không để hoàng thượng biết con không dốc lòng dốc sức, nhất định sẽ nổi trận lôi đình.”

Lý Thư Bạch gật đầu, cho phép hắn lui ra.

Khi hắn đứng thẳng người dậy, còn nói một câu rất khẽ, khẽ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Lúc công chúa sắp khóa cửa vườn lại, Vi mỗ… vô ý đá một thứ vào cây cột ở hành lang trong đình.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đều nghe thấy câu này, xong Vi Bảo Hoành lại thản nhiên quay đi, như thể chỉ lẩm bẩm một mình.

Bí mật phủ công chúa.

Một bí mật rất đáng sợ, không thể hé lộ.

Đợi Vi Bảo Hoành đi khỏi, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà men theo hành lang bắc trên mặt nước, thong thả đi đến ngôi đình chính giữa hồ.

Khung cửa sổ âm u thấp thoáng mấy tàu chuối biếc. Mọi đồ vật trong đình bị công chúa gấp gáp phong tỏa đã phủ một lớp bụi mỏng.

Lý Thư Bạch khoanh tay nhìn ra cỏ xanh bên hồ nước. Hoàng Tử Hà thì quỳ xuống kiểm tra kỹ từng cây cột. Cuối cùng, khi lần đến cây cột nằm trong góc tối giữa hành lang và cửa chính, cô mới thấy một viên tròn màu xám lẫn trong đám bụi, nếu không tìm kỹ chỉ e khó mà nhận ra.

Hoàng Tử Hà vội cầm lên thì thấy vật trong tay khá mềm, ra là một viên giấy. Cô thong thả giở ra, thấy trên mẩu giấy hoa tiên nhỏ viết hai câu thơ dang dở:

Người sinh mãi, kiếp nào cho hết,

Nhìn trăng sông năm hệt không sai… *

* Trích trong bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, bản dịch Tản Đà.

Nét cuối cùng của chữ “sai” còn chưa viết xong, người viết đã dừng bút. Mảnh giấy hoa tiên trắng muốt bị vò nát, bám đầy bụi bặm, khiến nét chữ cũng mờ đi, nhìn khá mơ hồ.

Đột nhiên, mấy con chữ trên mảnh tro nhặt từ lò hương vụt hiện ra trước mắt cô.

Có lẽ vì những chữ kia cũng chỉ hiện lên trong thoáng chốc rồi tan biến, tạo cảm giác mơ hồ hư ảo, nên cô bỗng thấy nét chữ trên mảnh giấy bị đốt thật giống hai dòng thơ này.

“Không phải chữ Đồng Xương.” Lý Thư Bạch nhìn rồi quả quyết: “Mỗi năm vào ngày sinh hoàng thượng, Đồng Xương chuẩn bị quà mừng đều tự tay viết lời chúc, ta từng đọc rồi.”

Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng giơ mẩu giấy lên thổi cho sạch bụi.

Nét bút rất thanh tú, rõ ràng là của phụ nữ, hơi có vẻ gượng gạo vì lâu ngày không cầm bút, rõ ràng bấy giờ người viết đang bồi hồi do dự.

Lý Thư Bạch quay lưng đi thẳng ra ngoài: “Đứng dậy đi, ngươi có gì muốn biết thì đi mà hỏi người trong phủ.”

Là một trong những thị nữ thân cận bên cạnh công chúa, từ sau khi xảy ra chuyện, Thùy Châu luôn quỳ trước linh cữu công chúa, mấy lần còn khóc đến ngất lịm, tỉnh lại lại khóc tiếp. Lúc Hoàng Tử Hà đến, hai mắt ả đã sưng húp, không khóc nổi nữa, chỉ đờ đẫn quỳ ở đó.

Hoàng Tử Hà cũng quỳ xuống cạnh Thùy Châu thắp hương vái lạy công chúa, rồi liếc nhìn cổ tay ả.

Thùy Châu vận áo xô gai, để lộ cổ tay trái, có một vết sẹo bỏng lồi lõm chạy dài từ cổ tay đến tận khuỷu, rõ ràng từng bị bỏng rất nặng.

Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Thùy Châu cô nương, vết sẹo trên tay cô là thế nào?”

Thùy Châu không đáp, chỉ lẳng lẽ kéo tay áo xuống, che vết sẹo đi.

Lạc Bội quỳ bên cạnh nghẹn ngào đáp thay: “Mấy năm trước, công chúa tò mò nghịch lửa, suýt nữa bị lửa bén vào người, Thùy Châu cứu công chúa nên mới bị thương.”

Bọn Lạc Bội, Khuynh Bích, Trụy Ngọc tuy cũng ròng ròng nước mắt, xong trông vẫn đỡ hơn Thùy Châu nhiều. Mấy ả thị nữ cạnh đó hùa theo: “Đúng thế, Thùy Châu một lòng trung thành với công chúa, cả hoàng thượng cũng phải ngợi khen.”

Hoàng Tử Hà vờ thuận miệng hỏi: “Nói ra mới nhớ, hôm trước có một nam nhân họ Tiền cứ khăng khăng nói con gái mình là thị nữ trong phủ công chúa, bảo trên cổ tay con gái có một vết bớt, chẳng hay các cô có trông thấy ai như thế không?”

Thùy Châu lặng lẽ lắc đầu. Mấy người kia cũng đáp: “Tôi có nghe nói, nhưng hình như chẳng thấy ai có vết bớt trên tay cả?”

Khuynh Bích bĩu môi: “Chắc lại thấy người sang bắt quàng làm họ đấy thôi, người trong kinh ai chẳng muốn bắt quen bắt thân với phủ công chúa? Hễ có người nhà làm việc ở đây là thừa đủ để họ ra ngoài huênh hoang rồi.”

“Khuynh Bích.” Thùy Châu nhắc khẽ. Khuynh Bích hậm hực ngậm miệng lại, không quên vớt vát thêm một câu: “Nô tỳ có nói gì đâu. À phải… làm trong phủ Quỳ vương rõ ràng là hiển hách rồi.”

Xem ra Thùy Châu là kẻ đứng đầu trong các thị nữ bên cạnh công chúa, thảo nào công chúa khen ả hầu hạ chu đáo nhất.

Thùy Châu kéo tay áo che vết sẹo, lẳng lặng quỳ ở đó, đầu cúi thật thấp, tỏ ý không muốn nói chuyện.

Nhưng Hoàng Tử Hà vẫn hỏi riết: “Thùy Châu cô nương, hàng ngày quan hệ giữa cô và Ngụy Hỷ Mẫn thế nào?”

Thùy Châu đáp khẽ: “Chúng tôi cùng hầu hạ bên cạnh công chúa nên chẳng lạ gì nhau, nhưng cũng chẳng lấy gì làm thân. Thị nữ và hoạn quan qua lại thân thiết quá… sẽ làm người ta dị nghị.”

Ả nói vậy làm Hoàng Tử Hà nhớ ra một chuyện, bèn hỏi: “Nghe nói công chúa đã hứa gả cô nương đi, không lâu sau sẽ xuất phủ?”

Thùy Châu gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Vốn định là cuối năm nay, người ta tuy không phải danh gia vọng tộc gì, nhưng cũng giữ chức quan ở Hồng Lư Tự*. Nếu không nhờ công chúa, nô tỳ đâu thể gả được vào nhà danh giá như thế. Có điều giờ xem ra… ít hy vọng lắm.”

* Cơ quan chuyên cai quản nghi thức lễ tiết trong các dịp lễ hội.

Hoàng Tử Hà hiểu, người kia chẳng qua nhìn vào quyền thế của công chúa nên mới chịu cưới một thị nữ. Dù sao, với một viên quan thất phẩm nhỏ nhoi dưới trướng tể tướng thì một thị nữ thân cận bên công chúa, sau khi xé giấy bán thân, lại có chủ cũ nâng đỡ, rõ ràng là một cái gấu váy tốt. Xong giờ công chúa đã qua đời, còn mong gì y chịu giữ lời mà cưới Thùy Châu nữa. Tương lai sau này thế nào, e rằng chính ả cũng không biết được.

Hoàng Tử Hà đành lựa lời an ủi: “Ta nghĩ người làm quan chắc sẽ giữ lời, không thể vì chuyện này mà hủy hôn được.”

“Đa tạ công công an ủi.” Thùy Châu đáp, xong vẫn mặt ủ mày chau.

Khuynh Bích quỳ bên cạnh thở dài: “Nếu không nhờ công công nói đỡ, e rằng giờ bọn nô tỳ đi theo công chúa cả rồi, sống được đã là trời thương, còn những chuyện khác, ai mà biết có phúc phận ấy không…"

Khuynh Bích còn trẻ, nói năng không biết chừng mực, lời vừa thốt ra, Hoàng Tử Hà thấy Trụy Ngọc và Thùy Châu sắc mặt càng thêm u ám, chắc hẳn gánh nặng trong lòng lại nặng thêm.

Lạc Bội nhìn làn khói xanh từ lò hương lững lờ bay lên, thẫn thờ: “Nhưng… chúng nô tỳ còn cách nào khác đâu? Sau khi công chúa mơ thấy ác mộng, luôn miệng nói Phan thục phi sắp đến đòi trâm Cửu loan, mà cây trâm lại… không cánh mà bay ngay giữa nhà kho được canh giữu nghiêm mật như thế, các vị bảo có lạ hay không? Rõ ràng công chúa đích thân khóa chặt, lại chứng kiến mấy người bọn nô tỳ chính tay đặt chiếc hộp vào rương, rồi chính tay lấy ra, sao bỗng dưng biến mất được… Cuối cùng còn xuất hiện ở phường Bình Khang, đâm chết công chúa nữa chứ.”

Khuynh Bích vừa buồn vừa sợ, khóc òa lên: “Chị Lạc Bội đừng nói nữa… Đừng nói nữa mà…”

Giọng họ chìm trong tiếng tụng kinh và khóc lóc xung quanh, chẳng khác nào cây trâm Cửu loan biến mất giữa vòng vây canh gác nghiêm mật.

Hoàng Tử Hà chỉ biết than thầm, hành lễ từ biệt họ rồi đứng dậy đi ra.

Công chúa vừa qua đời, phủ công chúa đã náo loạn.

So ra thì người hầu từ nhà phò mã đưa sang vẫn bình tĩnh hơn. Dù sao họ cũng có nơi để về.

Bởi thế, khi Hoàng Tử Hà đến nhà bếp, Xương Bồ vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, đang chọn món ngày mai, chỉ là nét mặt đượm phần rầu rĩ.

“Dương công công,” thấy Hoàng Tử Hà đến, Xương Bồ đập đập cuốn sổ trong tay, tự trào, “Bất luận thế nào thì bấy nhiêu người trong phủ cũng phải ăn, đúng không nào?”

Hoàng Tử Hà ra ý bảo Xương Bồ cứ tiếp tục, rồi ngồi xuống phía đối diện: “Chỉ muốn hỏi cô cô mấy câu thôi.”

“Công công cứ hỏi.” Xương Bồ gảy bàn tính tanh tách, cúi đầu mím môi đối chiếu từng khoản mục trong sổ.

“Cô cô có biết Tiền Quan Sách bị Đại Lý Tự bắt giam rồi không?”

Xương Bồ khựng lại, đáp khẽ: “Tôi biết. Tối qua ông chủ Tiền tới tìm tôi nghe ngóng tin con gái, không may bị người của Đại Lý Tự phát hiện, chính mắt tôi chứng kiến họ giải ông ấy đi.”

“Nghe nói ông ta khăng khăng nói con gái mình ở trong phủ, thậm chí còn đưa cả con cóc vàng ra làm bằng, nhưng người của Đại Lý Tự tìm khắp phủ cũng không thấy cô con gái.” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm Xương Bồ, không bỏ qua một biểu cảm nào dù là nhỏ nhất, “Tôi nhớ cô cô từng nói, con gái ông chủ Tiền là Thùy Châu phải không?”

Xong Xương Bồ vẫn thản nhiên, không hề chớp mắt, thong dong gảy bàn tính: “Đúng thế, tối qua tôi biết chuyện cũng giật nảy mình. Thì ra Thùy Châu không phải con gái ông ấy, trên cổ tay con gái ông ấy có vết bớt chứ không phải vết sẹo, lâu nay tôi lầm.”

Hoàng Tử Hà nhíu mày nhìn Xương Bồ, hỏi: “Ra là cô cô lầm ư?”

“Phải, ban đầu ông chủ Tiền chỉ nói con gái mình có dấu trên cổ tay. Tôi phát hiện cổ tay Thùy Châu có vết, ngỡ là cô ấy, bèn mách lại với ông chủ Tiền, còn về sau họ có hẹn gặp nhau hay không thì tôi không rõ. Công công biết đấy, tôi cả ngày ở trong nhà bếp, bận túi bụi, làm gì có thời gian hỏi đến chuyện ấy. Về sau ông chủ Tiền đưa linh lăng hương đến cảm tạ, tôi còn nghĩ, quả nhiên là Thùy Châu.” Kể đến đây, Xương Bồ cũng thở dài, đặt tay lên bàn tính thẫn thờ: “Nhưng lúc ông ấy bị người của Đại Lý Tự bắt được rồi thẩm vấn, lại nói trên cổ tay con gái có một vết bớt màu hồng ngả xanh, cuối cùng tra khắp phủ công chúa không thấy. Lúc sau tôi hỏi nhỏ Thùy Châu, Thùy Châu cũng thề sống thề chết là không phải mình, mấy thị nữ hầu cận công chúa đều nói Thùy Châu không hề hẹn gặp riêng ông ấy… Công công bảo có lạ không? Rốt cuộc ông chủ Tiền đã tìm thấy con gái hay chưa? Người ông ta lén hẹn gặp là ai? Lẽ nào đúng như người Đại Lý Tự nói, ông ta chỉ mượn cớ tìm con gái để câu kết với Ngụy Hỷ Mẫn ăn trộm báu vật trong phủ công chúa thôi ư?”

Hoàng Tử Hà quan sát kỹ nét mặt Xương Bồ, lại hỏi: “Thế nên cô cô không biết gì, cũng không liên quan gì đến chuyện này, phải không nào?"

“Đương nhiên rồi! Bằng không… Lẽ nào Dương công công hoài nghi tôi ư?” Xương Bồ ôm ngực kinh ngạc nhìn cô, vẻ hoảng hốt, “Dương công công! Tôi chưa từng đến chỗ ở của công chúa! Cũng chưa thấy trâm Cửu loan và cóc vàng bao giờ cả! Tuy tôi sống trong vương phủ, nhưng là người hầu dưới bếp, đến công chúa cũng hiếm khi trông thấy nữa là…”

“Được rồi, tôi tin cô cô không dính dáng đến vụ này mà, tôi tuyệt đối tin vào sự trong sạch của cô cô.” Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn Xương Bồ, ánh mắt sáng rực lên như muốn soi thấu ruột gan: “Nhưng tôi không tin cô cô không biết cô gái Tiền Quan Sách hẹn gặp là ai.”

“Tôi không biết! Tôi không biết thực mà!” Xương Bồ cuống cuồng la lên.

Hoàng Tử Hà lặng thinh quan sát phản ứng của Xương Bồ.

Thấy thái độ của cô, Xương Bồ đành chịu phép, ngã ngồi xuống ghế, lấy tay chống trán lẩm bẩm: “Tôi không nói được… Tôi không thể tiết lộ được…”

Vẻ mặt Xương Bồ không chỉ kinh hoàng lo sợ, mà còn kiên định quả quyết, như thể dù có bỏ mạng, dù có tan xương nát thịt, cũng phải nuốt bí mật này vào bụng.

Hoàng Tử Hà biết không cạy nổi miệng người này, đành thở dài: “Cũng chẳng sao, tôi đã biết là ai rồi,” đoạn đứng dậy xăm xăm đi ra cửa. Thấy vậy, Xương Bồ không nhịn nổi, vội đứng dậy liêu xiêu đuổi theo, vịn vào khung cửa hỏi: “Công công… biết là ai ư?”

“Cô cô nói xem?” Hoàng Tử Hà ngoảnh lại cười với Xương Bồ, dưới ánh mặt trời mùa hạ chói chang, gương mặt cô mờ hẳn đi vì lóa.

Giọng cô bình thản mà kiên định, mang một vẻ quả quyết khiến người ta không thể nghi ngờ.

“Trong phủ công chúa này, còn có thể là ai nữa chứ?”

Hoàng Tử Hà rời phủ công chúa, đi thẳng về phía cỗ xe ngựa phủ Quỳ.

Chợt cô trông thấy hai người đứng trước xe, một là Quỳ vương Lý Thư Bạch tao nhã như cây ngọc đón gió, còn người kia, chính là Kỳ Lạc quận chúa lộng lẫy như minh châu.

Hoàng Tử Hà không khỏi chậm bước, thầm tính xem có nên đi đến hay không.

Đi đến chẳng phải là quấy nhiễu họ ư?

Kỳ Lạc quận chúa mỉm cười nhìn Lý Thư Bạch, hai má ửng hồng, gió lồng lộng dưới tàng cây làm mấy sợi tóc nàng bay tung, vấn vít quanh đôi mắt đắm đuối như sương như khói, đẹp say lòng người.

Cô quận chúa yểu mệnh này, dù có xinh đẹp nhường nào, cũng chẳng còn được bao lâu nữa. Bởi thế Lý Thư Bạch luôn nhìn nàng bằng ánh mắt xót xa, gương mặt xưa nay lạnh nhạt cũng lộ ra mấy phần dịu dàng.

Hoàng Tử Hà lẳng lặng lùi bước, ngồi xuống bóng râm đằng sau bức chiếu bích của phủ công chúa. Cây lựu trên đầu đã kết quả lúc lỉu trĩu trịt, to bằng nắm tay đứa bé sơ sinh. Thấy một cành sà xuống trước mặt, cô bèn giơ tay níu lấy một quả, ngơ ngẩn ngắm nhìn.

Những người con gái xuất thân cao quý như Kỳ Lạc quận chúa và Đồng Xương công chúa, sinh ra giữa cẩm tú phồn hoa bậc nhất thế gian, xong lại như những bông hoa rực rỡ đầy cành, bừng nở rồi rơi rụng, mà không cách nào đơm quả.

Ba cô gái, mỗi người một phận, nhưng đều bất hạnh. Đồng Xương công chúa chết yểu, Hạnh nhi bị cha bán đi từ nhỏ, và Tích Thúy phải chịu sự lăng nhục khủng khiếp nhất trên đời.

Ba người con gái, với ba người cha khác nhau.

Hoàng đế nuông chiều Đồng Xương công chúa đến nỗi không tiếc đem mọi thứ tốt đẹp nhất đời ban cho nàng, nhưng giờ đây, dù trút giận sang thái y, liên lụy đến cả mấy trăm người, cũng không cứu nổi đứa con gái đã chết dưới trâm Cửu loan.

Tiền Quan Sách trong lúc khó khăn nhất đã đem con gái bán đi, lấy tiền bán con dựng nghiệp rồi phát đạt, sau nhiều năm cũng tìm lại được đứa con, nhưng chưa kịp nghe con gọi một tiếng cha đã bị hạ ngục.

Lữ Chí Nguyên nằm mơ cũng muốn có con trai, hơn nữa khi con gái Tích Thúy rơi vào cảnh ngộ bi thảm nhất, vẫn nhẫn tâm đuổi ra khỏi nhà, nhất quyết ôm chặt món tiền bán con gái sống cô độc suốt tuổi già.

Ba người chết thân phận cũng khác nhau. Sợi dây liên hệ duy nhất là, họ đều can dự vào bi kịch của Tích Thúy.

Khiến người ta thắc mắc nhất là Đồng Xương công chúa. Tuy nàng hạ lệnh trách phạt Tích Thúy, nhưng không cố ý khiến Tích Thúy gặp chuyện, càng không trực tiếp hãm hại. Hung thủ cũng không bố trí cẩn mật như hai lần trước mà thẳng tay giết công chúa ngay giữa phố đông, dường như công chúa mới là người y hận nhất…

Nghĩ vậy, cô bất giác rút cây trâm ngọc ra, vạch lên phiến đá xanh đang ngồi.

Ba người cha, ba cô con gái, phò mã, Trương Hàng Anh, Tôn ghẻ, Ngụy Hỷ Mẫn, Đậu Khấu…

Chợt có tiếng hỏi từ đằng sau: “Vẽ gì thế?”

Cô ngẩng lên, trông thấy Lý Thư Bạch đang ở trước mặt, hơi khom người xuống nhìn mình. Dưới ánh nắng chói chang, bóng cây xanh mát phủ trùm lên họ, mặt y chỉ cách mặt cô gang tấc, cặp mắt đen thăm thẳm như mặt hồ nhìn xoáy vào Hoàng Tử Hà khiến cô bỗng thấy chới với như sắp chìm trong đó.

Cô đành cắm cây trâm ngọc lại chỗ cũ, gắng gượng né tránh ánh mắt y, đáp khẽ: “Vừa rồi thấy gia và Kỳ Lạc quận chúa đang trò chuyện, nô tài không dám đến quấy rầy, đành ngồi lại đây sắp xếp lại các manh mối.”

Y liếc cô rồi ngồi xuống bên cạnh: “Kỳ Lạc tới bái tế Đồng Xương, tình cờ gặp nhau.”

“Quận chúa… khí sắc rất khá, chắc gần đây có khỏe lên?”

“Không biết nữa, có khi cái chết của Đồng Xương sẽ khiến cô ấy chạnh lòng nghĩ đến mình, càng buồn bã thêm.” Nói rồi y hờ hững giơ tay nhón một quả lựu nhỏ giơ lên trước mặt quan sát, hỏi sang chuyện khác, “Vừa rồi ngươi để ý thấy manh mối nào chưa?”

Hoàng Tử Hà ngây ra một thoáng mới đáp: “Tôi còn nhớ, khi cây trâm Cửu loan của công chúa bị đánh cắp, gia dắt tôi đến thăm hỏi, bấy giờ, gia có vẻ khá thích con chó sứ trên nóc tủ ở đầu giường công chúa.”

“Đúng thế.” Lý Thư Bạch buông tay, để mặc quả lựu bé kia cứ rung rinh trước mặt hai người, “Bởi vì ta nhớ lúc Đồng Xương chừng sáu bảy tuổi, từng bị mảnh vỡ của chiếc đĩa sứ cứa đứt tay. Từ đó hoàng thượng hạ lệnh, trong cung của Đồng Xương không được dùng bất cứ thứ đồ gốm sứ gì nữa. Mãi đến khi Đồng Xương hạ giá lấy Vi Bảo Hoành, dọn vào phủ công chúa, đồ dùng bên cạnh đa phần cũng bằng vàng bạc, vậy mà tự dưng lại có một con chó sứ bên cạnh, hơn nữa nhìn rất giống những món bán đầy ngoài chợ, ngươi không thấy lạ ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Chúng ta đi lấy về xem được không?”

Lý Thư Bạch đứng ngay dậy không chút chần chừ: “Đi thôi.”