Nước mắt ta đầm đìa, khóc to một trận. Những ngày tháng ở hoàng cung Bắc Lương dường như đều là chuyện quá khứ rồi.
Bắc Lương rét đậm, tuyết lớn đầy trời. Mặc dù ngoài xe trời lạnh giá nhưng cảnh sắc dọc đường thật sự không tệ.
Vân Hạc biểu ca suốt một đường không hoảng không vội, vân đạm phong khinh đến mức ta cảm thấy như thể chuyến đi này thật sự chỉ là cùng hắn đi du sơn ngoạn thủy.
Dọc đường cũng thật sự không có binh lính đuổi theo, trái tim thấp thỏm của ta cũng dần dần kiên định trở lại.
*Vân đạm phong khinh: thờ ơ, lạnh nhạt, bình thản, không màng đến điều gì khác, tựa như gió nhẹ mây hững hờ trôi.
Từ kinh thành đi Nguyên Châu mất tám ngày, ước chừng là Vân Hạc đã đi một con đường khác, nên mất mười ngày chúng ta mới đến Nguyên Châu.
Nguyên Châu nằm ở hướng Tây Nam, được xem là một trong những nơi giàu có và đông đúc nhất Bắc Lương, cách ba thành trì là tiếp giáp với Đại Tề.
Người Nguyên Châu phần lớn là thương nhân, hành tẩu khắp nơi ở Bắc Lương, nếp sống cũng cởi mở hơn những nơi khác.
Bằng hữu Trương Tiến Bằng mà Vân Hạc nói, cha hắn là một trong những thương nhân bán muối lớn ở Bắc Lương. Nhà Trương Tiến Bằng xuất thân là thương nhân, nhưng hắn lại không có dáng dấp láu cá của một thương nhân, là một người thẳng thắn nồng hậu.
Hắn đến đón Vân Hạc và ta, khen ngợi: “Đây chính là lệnh muội? Quả nhiên là tiên tư ngọc chất không kém gì Vân huynh.”
*Tiên tư ngọc chất: Dung mạo xinh đẹp, phẩm cách cao quý
Vân Hạc thản nhiên đáp một tiếng, nhưng ta lại khá thẹn thùng: “Trương công tử khen sai rồi.”
Trương Tiến Bằng dẫn ta và Vân Hạc vào gian phòng, nói với ta: “Mấy nay trời lạnh cóng, quả thực không thích hợp ngồi xe ngựa mệt nhọc, Vân cô nương cứ yên tâm ở lại đây. Vân huynh đối với ta có ân cứu mạng, vẫn luôn chưa báo đáp được. Các ngươi có thể ở đây một thời gian thì đã là may mắn của kẻ hèn này.”
Nói xong, sau lưng hắn đột nhiên xuất hiện một cái đầu, mặt nở nụ cười như hoa: “Vị tỷ tỷ này trông quen mắt quá.”
Trương Tiến Bằng cười giới thiệu: “Đây là xá muội Huệ Tâm”, rồi lại quay đầu, “Hôm nay muội gặp Vân cô nương lần đầu tiên, sao lại quen mắt được?”
Huệ Tâm cười hì hì đáp: “Vân tỷ tỷ nhìn giống như tiên nữ trong mộng của ta, nên mới thấy quen mắt.”
Huệ Tâm chỉ nhỏ hơn ta hai tuổi, Trương gia lại ít nữ quyến, tính tình nàng hoạt bát, ngày thường không muốn ở cùng các vị trưởng bối. Thấy ta đến, nàng rất thích thú nên thường xuyên đến trò chuyện với ta.
Vân Hạc cũng lười sửa miệng, vẫn gọi ta là tiểu Vân nhi. Mọi người đều tưởng rằng hắn gọi ta là Vân (云) vì người trong nhà hay gọi vậy, nhưng lại không biết rằng Vân (芸) này mới đúng, chứ không phải Vân (云) kia.
Ngày thứ ba ở Nguyên Châu, Vân Hạc gọi đến một người bằng hữu khác là Tống Cẩn, giúp ta xem bệnh. Sư phụ của Tống Cẩn là một vị thần y ở Bắc Lương, được xưng danh là Tú Sơn tiên sinh. Hắn bái sư đã nhiều năm, sau đó đi ngao du khắp nơi, cũng mới trở lại Bắc Lương không lâu, hiện giờ sống ở con đường cạnh Trương phủ.
Huệ Tâm dẫn hắn đến phòng ta, hắn và Vân Hạc chào hỏi rồi ngồi xuống xem bệnh cho ta.
Tống Cẩn sinh ra đã có đôi mày kiếm cùng đôi mắt sáng như sao, lúc xem bệnh hắn đều im lặng không nói, thoạt nhìn không giống như một vị du y, mà giống như một quý công tử của nhà nào.
Hắn chẩn mạch cho ta, khẽ cau mày nói: “Gần đây có thường cảm thấy chóng mặt không?”
Ta sửng sốt, không nghĩ tới hắn còn có thể chẩn ra được những chứng bệnh cũ của ta. Chóng mặt thật ra vốn là chứng bệnh đã có từ trong bụng mẹ, lúc trước ngự y trong hoàng cung Đại Tề đã điều dưỡng cho ta hơn mười năm, nhưng để loại bỏ gốc rễ thì rất khó. Cứ thế nên bây giờ nếu ta mệt mỏi quá độ, rất dễ bị chóng mặt. Chỉ là mỗi lần như vậy, nghỉ ngơi điều dưỡng một thời gian là được, ta cũng không quá coi trọng. Mười ngày ngồi xe ngựa mệt nhọc, xác thực cũng đã chóng mặt mấy lần.
Vân Hạc nói: “Tiểu Vân nhi đích xác có chóng mặt, là chứng bệnh lâu năm... Lúc trước cũng đã uống không ít thuốc, ngươi có phương pháp điều trị gì không?”
Hắn đáp: “Vết thương ở đầu gối không phải là vấn đề lớn, chỉ cần thay thuốc mỗi ngày là được. Chỉ là chứng chóng mặt này, muốn hết thì cũng phải dùng thuốc sắc ít nhất ba tháng.”
Nếu nói có thể trừ được tận gốc, trong lòng ta nói chung quy cũng không tin. Suy cho cùng, chứng chóng mặt này cũng đã uống thuốc nhiều năm như vậy rồi, ngay cả ngự y hoàng cung Đại Tề cũng không có cách.
Bởi vì lúc nhỏ ta uống quá nhiều thuốc sắc, nên sau khi lớn lên, thứ ta không nguyện ý đụng vào nhất cũng chính là thuốc sắc. Bây giờ nghĩ đến vị đắng của thuốc sắc, ta đều cảm thấy buồn nôn dâng trào cổ họng.
Ta đã gặp qua không biết bao nhiêu đại phu có tiếng, nhìn lại khuôn mặt trẻ trung tuấn lãng của Tống Cẩn, ta không thể tự thuyết phục bản thân rằng hắn giỏi hơn các ngự y ở hoàng cung Đại Tề. Đối với lời hắn nói về việc phải uống thuốc sắc ba tháng, trong lòng ta bất giác sinh ra một cảm giác kháng cự.
Ta chần chừ nói: “Tống công tử, thật ra chứng chóng mặt này vốn đã có từ trong bụng mẹ, ta đã quen nhiều năm như vậy rồi, có trị hay không trị đều như nhau...”
Hắn đang viết phương thuốc, nghe xong liền ngẩng đầu nói: “Sợ là không được.”
Ta: “Hả?”
Hắn cười nhẹ nhìn ta đáp: “Ai cũng đều nói thuốc đắng dã tật, thật ra chỉ là một lời nói, đối với các chứng bệnh khó trị, phải kê thuốc đúng với triệu chứng, nhưng người bệnh cũng cần kiên trì uống thuốc mới có thể chữa khỏi tận gốc.”
Nội tâm như bị chọc một cái, trên mặt ta hiện vẻ xấu hổ, nhưng phải uống thuốc sắc ba tháng, ta không nhịn được liền nhăn mặt, hướng qua Vân Hạc biểu ca cầu cứu.
Vân Hạc nhìn biểu tình rối rắm của ta, bỗng nhiên tỉnh ngộ: “Ta nhớ ra rồi, tiểu Vân nhi không thích thuốc sắc... Ồ, hay là kiên trì một chút, Tống Cẩn thật sự là thần y, có thể đem bệnh của muội trị ba tháng là hết...”
Tống Cẩn ngẩng đầu: “Không thích thuốc sắc?”
Ta ngượng ngùng gật đầu: “Lúc nhỏ đã uống rất nhiều thuốc sắc, bây giờ có chút...”
Lúc này ta tự cảm thấy bản thân hơi già mồm, phỏng chừng trong mắt Tống Cẩn, ta là một người bệnh phiền phức, trong lòng liền hạ quyết tâm sẽ dứt khoát bịt mũi gắng gượng qua ba tháng này.
Đang định nói thuốc sắc cũng không sao, hắn liền suy tính: “Vậy thuốc viên thì sao?”
Ta ngây người: “Thuốc viên? Thuốc viên đương nhiên tốt…”
Hắn nhận lấy bút, “Vậy thì uống thuốc viên đi. Một ngày hai lần, ta sẽ làm thuốc mỗi hai ngày một lần, làm xong sẽ gửi qua cho ngươi.”
Ta vội vàng đáp: “Vậy thì phiền toái Tống công tử quá, không bằng vẫn là...”
Tống Cẩn cười nói: “Nếu thật sự cảm thấy phiền toái cho ta thì nhớ uống thuốc đúng giờ.”
Vân Hạc tựa vào khung cửa cười: “Nếu như chứng chóng mặt lâu năm của tiểu Vân nhi được thần y ngươi trị hết, ta nhất định sẽ cảm tạ ngươi thật tốt.”
Tống Cẩn nâng mắt, “Ồ, ngươi cảm tạ ta như thế nào?”
Vân Hạc nhướng mày, không đứng đắn nói: “Hay là ta... lấy thân báo đáp? Ngươi có nguyện ý không?”
Ta và Huệ Tâm đều bị chọc cười, Tống Cẩn thu dọn hòm thuốc, thong thả nói: “Lấy thân báo đáp thì còn phải xem là ai, ngươi... thì thôi bỏ đi.”
Hai người cùng nhau đi ra ngoài, Huệ Tâm ngơ ngác nhìn theo bóng lưng hai người đã rời đi, quay đầu đáp: “Vân tỷ tỷ, tỷ có biết không, trước đây ta nghĩ, ca ca ta là nam tử đẹp nhất Nguyên Châu. Bây giờ thấy Tống ca ca và Vân ca ca, nhìn lại ca ca ta, cứ như một viên ngọc đẹp biến thành đá cuội vậy, ôi chao...”
Ta cười: “Muội có biết có một từ gọi là nhìn mãi quen mắt không? Chẳng qua muội nhìn ca ca của muội nhiều rồi mới cảm thấy như vậy.”
Bất quá, nếu ba người này cùng đứng lại một chỗ, thật sự có thể tạo nên một cảnh tượng đẹp.
Qua nửa tháng, vết thương ở chân của ta gần như lành hẳn, ở mãi trong phòng cũng buồn chán, liền nhận lời mời của Huệ Tâm đi xem hí kịch.
Vũ đài này cách Trương phủ không xa, Huệ Tâm còn gọi thêm hai cô nương thường ngày giao hảo, bốn người một đường đi tới Lưu Phương Lầu đối diện với vũ đài.
Lưu Phương Lầu có hai tầng để xem hí kịch, ngoài chỗ chúng ta ngồi, còn có một khu ở giữa luôn bị bỏ trống.
Ta nhỏ giọng hỏi Huệ Tâm: “Vị trí kia có vẻ rất tốt để xem hí kịch, sao lại luôn bị bỏ trống?”
Huệ Tâm khẽ đảo mắt, nhỏ giọng nói: “Vân tỷ tỷ có điều không biết, chỗ kia được chuẩn bị cho đại nhân vật...”
Sự tò mò khơi dậy trong lòng ta: “Đại nhân vật nào?”
Huệ Tâm đáp: “Còn không phải là nữ nhi của Giang thái thú, Giang Tích Văn sao?” Nói xong, không biết nàng nghĩ đến điều gì, tức giận nói: “Tỷ tỷ, ngươi biết không, mấy năm trước kể từ khi Giang thái thú đưa gia quyến từ kinh thành về Nguyên Châu. Hơn nửa nam tử ở Nguyên Châu đều bị Giang Tích Văn câu mất hồn. Ai gặp qua rồi cũng đều khen ngợi nàng ta tài mạo song toàn, các cô nương ở Nguyên Châu đều không thể vượt qua nàng ta. Giang Tích Văn kia cũng rất kiêu ngạo. Nàng ta tự nhận bản thân là người trên kinh về, cảm thấy Nguyên Châu không bằng kinh thành. Trang sức tơ lụa tốt nhất Nguyên Châu đều phải đưa cho nàng ta chọn lựa trước, nàng ta chọn xong thì phần còn lại mới đến lượt chúng ta. Không chỉ vậy, từ khi nàng ta muốn đến Lưu Phương Lầu xem hí kịch, vị trí chỗ ngồi tốt nhất luôn phải để dành cho nàng ta.”
Nói xong, nàng đột nhiên ngẩng đầu nhìn ta, hai mắt hiện lên vẻ khó hiểu: “Vân tỷ tỷ, tỷ cũng đã ở trên kinh, kinh thành thật sự tốt hơn Nguyên Châu sao?”
Ta lắc đầu: “Kinh thành chẳng qua là quốc đô, được hưởng chút không khí hoàng gia mà thôi. Theo ta thấy, Nguyên Châu tốt hơn kinh thành không biết bao nhiêu lần.”
Lời ta nói đều là thật lòng.
Trong mắt Huệ Tâm tỏa ra ánh sáng rực rỡ, vui vẻ nói: “Có thật không?”
Ta cười đáp: “Đương nhiên là thật.”
Đang nói chuyện thì nghe tiếng người ồn ào từ thang gác truyền đến, Huệ Tâm bĩu môi, nhỏ giọng nói: “Mỗi lần xuất hiện đều phô trương như vậy, nàng ta nghĩ mình là công chúa chắc...”
Ta nhìn theo hướng âm thanh, thấy một đám người đang vây quanh một nữ tử đi tới. Nữ tử kia cài một cây trâm dài bằng vàng ròng khắc hoa, giữa trán khảm một đóa mai, một thân váy xếp ly bằng lụa, từ từ đi tới, thật sự rất chói mắt.
Sau khi Giang Tích Văn ngồi vào chỗ không lâu, vở kịch hôm nay cũng bắt đầu. Vở kịch này nói về một câu chuyện tình bi ai, Huệ Tâm và hai cô nương kia đều xem đến nước mắt lưng tròng.
Khi đang xem hí kịch, ta cảm thấy bên cạnh dường như có một ánh mắt nhìn sang. Ngoảnh đầu lại, ta liền thấy Giang Tích Văn đang nhìn về chỗ chúng ta. Ta không để ý, vẫn quay đầu tiếp tục xem hí kịch.
Một lúc sau, có một gã người hầu nhỏ tiến đến trước mặt ta.
“Vị tiểu thư này, tiểu thư nhà chúng ta muốn mời ngài qua bên kia ngồi.”
Lúc này trên vũ đài đang biểu diễn một đôi uyên ương số khổ buộc phải rời xa nhau, hầu hết những người ngồi xem đều không khỏi lau nước mắt. Huệ Tâm nghe tiếng, cũng quay đầu lại, trên khóe mắt nàng vẫn còn đọng lại những giọt nước mắt sáng óng ánh.
Ta cảm thấy trong lúc xem hí kịch mà bị đến làm phiền thì là một điều bất lễ, ta cũng tương đối ngạc nhiên về lời mời của Giang Tích Văn, liền hỏi: “Vở kịch này vẫn chưa kết thúc, không biết tiểu thư nhà các ngươi tìm ta có chuyện gì?”
Gã người hầu dường như không dự liệu được ta sẽ hỏi những lời như vậy, ngơ ngác đáp: “Tiểu thư nhà chúng ta cảm thấy cô nương giống như người có thể lên được mặt bàn, muốn cùng cô nương kết làm bằng hữu.”
*Người có thể lên được mặt bàn: Đây là một phép ẩn dụ, ngụ ý chỉ người này cao quý, sang trọng, có tư cách xuất hiện ở những dịp lớn.
Một câu nói hàm chứa tán dương cùng châm biếm, nhìn có vẻ như là đang khen ta, nhưng lại đem ba vị ngồi cạnh ta bất giác quy kết thành không lên nổi mặt bàn.
Huệ Tâm ngẩn người nhìn ta, ta nhấp một ngụm trà, nhìn về phía vũ đài lạnh nhạt nói: “Thật có lỗi, hôm nay ta và bằng hữu còn phải xem hí kịch, sợ là không có thời gian kết thêm bằng hữu mới.”
Đợi gã người hầu kia về lại chỗ Giang Tích Văn, Huệ Tâm sáp lại gần ta, tuy đã tận lực hạ thấp giọng, nhưng không giấu được vẻ kích động: “Vân tỷ tỷ, tỷ vậy mà lại từ chối Giang Tích Văn.”
Ta vốn không có ý định kết giao cùng những người không liên quan ở Nguyên Châu, huống gì là nữ nhi của thái thú, liền cười đáp: “Làm sao? Huệ Tâm muốn kết làm bằng hữu với nàng ta sao?”
Huệ Tâm lè lưỡi: “Ta mới không thèm.” Nói xong, lại ngượng ngùng nói: “Vả lại nàng ta cũng xem thường nhà thương nhân chúng ta, nghe nàng ta nói, Vương gia kia, tên gọi là gì nhỉ, có thể được nàng ta xem trọng, chúng ta và những người khác nàng ta đều không thèm để mắt.”
Cô nương bên cạnh cười nói: “Vương Như Quân.”
“Đúng đúng”, Huệ Tâm cười, “Nghe nói, Vương gia muốn đem Vương Như Quân tiến cung làm nương nương, không biết tìm đâu ra một cô cô trước kia làm việc trong cung về dạy quy củ phép tắc. Việc này đã lọt vào mắt của Giang Tích Văn.”
“Thì ra là vậy.” Ta mỉm cười, trong lòng đã hiểu ra một nửa, “Đừng để nàng ta làm phiền hứng thú xem kịch của chúng ta.”
Huệ Tâm gật đầu, mấy cô nương đều tiếp tục chăm chú xem kịch.
Vở kịch bi ai này cũng kết thúc, đôi uyên ương số khổ cuối cùng cũng có một kết cục tốt đẹp, cũng xem như là cười trong nước mắt.
Chỉ là ta không thể khóc nổi, nhìn Huệ Tâm khóc lê hoa đái vũ, ta chỉ có thể cười khổ trong lòng.
*Lê hoa đái vũ: Giống như hoa lê dính hạt mưa. Vốn miêu tả dáng vẻ khi khóc của Dương quý phi. Sau này được dùng để miêu tả sự kiều diễm của người con gái.
Cũng không biết mấy năm nay, là do ta ở trong hoàng cung Bắc Lương luyện được một trái tim sắt đá, hay là do đã bị mài mòn hết những thứ nữ nhi tình trường.
Khi ta đứng dậy chuẩn bị rời đi, mới phát hiện Giang Tích Văn không biết đã sớm rời đi từ khi nào rồi. Rốt cuộc vẫn là người không liên quan, ta cũng không để ý, cùng mấy người Huệ Tâm một đường đi xuống lầu rời khỏi.
Vừa bước xuống góc cầu thang, ta liền thấy một người đang vội vã chạy ngược dòng người, hình như là gã người hầu nhỏ bên cạnh Giang Tích Văn. Nhịp chân người này bước lên lầu rất nhanh, ta lại đứng ngay giữa cầu thang, không cẩn thận bị hắn va vào vai, thân thể loạng choạng, nhìn như sắp té ngã đến nơi.
Ta còn đang nghĩ hôm nay sao lại xui xẻo đến như vậy, một đôi tay đột nhiên đỡ lấy cánh tay ta, ta đứng vững liền ngẩng đầu, đối diện là một đôi mắt đan phượng đang nhếch nhẹ.
Ta nhỏ giọng nói: “Đa tạ công tử.”
Người trước mặt nhìn ta chằm chằm hồi lâu, khóe miệng nở một nụ cười: “Chỉ là tiện tay mà thôi, không biết cô nương...”
Lời còn chưa kịp nói hết, đã bị Huệ Tâm vội vã ngắt ngang: “Đa tạ Bàng công tử, Vân tỷ tỷ, ca ca vẫn đang đợi chúng ta ở nhà, chúng ta mau trở về thôi.”
Nói xong liền kéo ta rời đi.
Ra đến đường lớn, Huệ Tâm mới nhỏ giọng: “Vân tỷ tỷ, ngàn vạn lần đừng tiếp xúc với người lúc nãy. Người đó là Bàng Nghệ, là con nhà quyền quý ở Nguyên Châu. Chẳng qua dựa vào nhà mình là thủ phú Nguyên Châu, bản thân lại có một cái túi da tốt, cứ nhìn thấy nhà nào có cô nương xinh đẹp đều muốn... muốn trêu đùa một phen...”
*Thủ phú: Nhà giàu nhất, nhà giàu số một
Ta gật đầu: “Yên tâm, ta không có hứng thú với người này.”
Ai ngờ qua ngày hôm sau, Bàng Nghệ tặng đến một bộ trâm cài ngọc trai.
Gã người hầu tặng trâm nói: “Công tử nhà chúng ta nói, vừa mới gặp Vân cô nương mà cứ ngỡ như gặp bằng hữu cũ.”
Ta dở khóc dở cười, ngày đó ta nói với hắn chẳng qua chỉ là bốn chữ “Đa tạ công tử”, như thế nào lại là vừa mới gặp mà cứ ngỡ như gặp bằng hữu cũ?
Cách một ngày sau, Bàng Nghệ lại tặng đến một cặp vòng tay ngọc bích.
Cách một ngày nữa, lại là một đôi bông tai lưu ly rũ xuống.
Ta đau đầu không ngớt, hết thảy đều không nhận.
Ta gửi trả lại liên tiếp mười ngày, sau khi ta từ chối tất cả, Bàng Nghệ rốt cuộc cũng không gửi thêm bất cứ thứ trang sức nào khác nữa.
Ta nghĩ đến lời nói của Huệ Tâm, trong lòng tự nhủ, có lẽ hắn đã nhìn trúng một cô nương nhà khác, sau đó liền không để ý gì thêm.
Ba ngày sau, Vân Hạc nói ta ở mãi trong phòng cũng rất buồn chán, liền kéo ta ra ngoài hít thở không khí. Không ngờ vừa ra khỏi cửa Trương phủ mấy bước, liền thấy một người đứng trong tuyết, trên tay còn cầm một hộp thức ăn.
Người này thấy ta, trên mặt lộ vẻ kinh hỉ: “Vân cô nương!”
Ta ngây người hồi lâu, thật sự không nghĩ tới lại có thể nhìn thấy Bàng Nghệ ở trước cửa Trương phủ, chung quy mấy ngày trước hắn cũng chỉ sai người đem đồ đến tặng ta, còn bản thân hắn thì chưa từng đến.
Chẳng lẽ vì cảm thấy ta không chịu nhận những thứ đồ đó, bẻ gãy sĩ diện thủ phú của hắn, nên mới đến tìm ta tính nợ?
Hắn mặc một thân áo choàng đen, trên vai có một tầng tuyết mỏng, nhìn có vẻ như đã đứng rất lâu rồi.
Ta do dự hỏi: “Bàng công tử... đang ở đây đợi ai sao?”
Ý cười tràn đầy khóe mắt hắn: “Ta đang đợi Vân cô nương.”
Ta vừa muốn hỏi làm sao hắn biết hôm nay ta sẽ ra ngoài thì nghe hắn nói: “Mấy ngày trước là do ta đường đột, thật ra ngày đó ta ở Lưu Phương Lầu đã nhất kiến khuynh tâm với cô nương. Gửi mấy món lễ vật kia cũng là hi vọng cô nương có thể hiểu tâm ý của tại hạ, chứ không muốn đưa đến phiền toái cho cô nương. Là ta không phải. Hôm nay ở đây đợi cô nương, chẳng qua chỉ muốn mang một hộp bánh bao lạp nguyệt của Như Ý Trai đến cho cô nương.”
*Nhất kiến khuynh tâm: Vừa gặp đã xiêu lòng, vừa gặp đã đem lòng yêu thương.
Ta chớp chớp mắt, bánh bao?
Hắn dường như hiểu được sự khó xử của ta: “Bánh bao lạp nguyệt của Như Ý Trai chỉ có sau ngày hai mươi ba tháng chạp. Theo phong tục của Nguyên Châu, nếu có thể ăn những chiếc bánh bao lạp nguyệt của Như Ý Trai mỗi ngày, sang năm sẽ nhận được nhiều phúc khí vừa lòng vừa ý.”
Ta đứng im tại chỗ, nhất thời không biết làm gì mới tốt, liền nói: “Đa tạ ý tốt của Bàng công tử, nhưng là...”
Gã người hầu phía sau hắn bước lên nói: “Cô nương hãy nhận đi, thiếu gia nhà chúng ta đã đứng ở đây đợi cô nương ba ngày rồi, ngày nào cũng giờ Tỵ đến đứng đợi, giờ Thân mới rời đi. Sợ làm phiền cô nương nên không dám đứng gần Trương phủ. Bánh bao này vốn rất khó mua, mua rồi thì lại nhanh nguội, thiếu gia ba ngày liền mua ba lần, còn nghĩ đến đủ loại biện pháp mới có thể giữ cho bánh bao còn ấm trong hộp thức ăn.”
*Giờ Tỵ: Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng
*Giờ Thân: Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều
“Yên tâm”, Bàng Nghệ tiến lên mấy bước, đem hộp thức ăn nhét vào tay ta, “Không có ai biết là ta tặng cho cô nương, cô nương cũng không cần cảm thấy phiền toái, ta chỉ hi vọng”, hắn cười lộ răng, “Vân cô nương trong năm tới có thể như ý an khang.”
Nói xong, Bàng Nghệ làm một động tác chào: “Cuối năm, trong nhà nhiều việc, sợ là muốn gặp lại Vân cô nương thì phải đợi năm sau.”
Bàng Nghệ đi xa rồi, ta mới muộn màng nhận ra rằng lẽ ra ta không nên nhận hộp bánh bao này.
Có lẽ bộ dạng của hắn vừa nãy đứng trong tuyết, quả thật quá giống với bộ dạng của ta khi đứng trước Lân Chỉ Cung ngày trước.
Quay đầu đi mấy bước, ta liền thấy Vân Hạc đang ẩn mình sau mái hiên, ta thở dài: “Biểu ca thật không tốt, không giúp ta nói chuyện thì thôi, còn trốn sang một bên xem chuyện vui.”
Vân Hạc cười đáp: “Muội trốn được tháng chạp, không trốn được ngày mùng một, trốn được ngày mùng một, không trốn được mùng mười lăm. Lại nói, ta thấy Bàng công tử này cũng không giống kiểu người như người ta nói, lần này quả thật có lòng. Bất quá, hộp bánh bao kia cũng không phải sính lễ, nhận cũng không sao.”
Ta liếc hắn một cái: “Huynh nói nghe đơn giản quá.”
Hắn cười vài tiếng, giúp ta xách hộp đồ ăn, vừa đi vừa tự nói một mình: “Chẳng qua ta thấy loại chuyện này, quả nhiên phải không biết xấu hổ mới làm được... ừm, học hỏi, học hỏi... Bàng công tử này ta thấy có thể kết giao một chút...”
Cùng Vân Hạc xách hộp thức ăn trở về, Huệ Tâm nhìn thấy bánh bao lạp nguyệt nóng hổi, cảm thán: “Ta từ nhỏ đến giờ chỉ nghe câu gửi than trong tuyết, hóa ra trong tuyết vẫn còn có thể gửi bánh bao...”
Vân Hạc ở một bên nói: “Cái gọi là xuất kỳ bất ý, đại khái chính là như thế này.”
*Xuất kỳ bất ý: Hành động bất ngờ khi người ta không đề phòng.
Ta: “…”
Đúng như Bàng Nghệ nói, từ đó đến mấy ngày đầu năm mới, quả nhiên hắn không xuất hiện trước mặt ta.
Mấy ngày này ở Trương Phủ, ta và Tiến Bằng, Tống Cẩn cũng trở nên thân quen hơn nhiều. Mỗi khi rảnh rỗi, Tiến Bằng, Tống Cẩn và Vân Hạc thường tụ tập lại kể cho ta nghe những lần ba người đi ngao du tứ phía.
Tổng Cẩn biết ta hay nấu canh bổ, còn đưa cho ta không ít phương thuốc để ta nghiên cứu. Ta xem qua thì thấy toàn là những phương thuốc có lợi cho thân thể của ta.
Cơn chóng mặt của ta thỉnh thoảng vẫn tới, nhưng Tống Cẩn đã nói qua, chứng bệnh này dẫu sao cũng rất ngoan cố, phải điều dưỡng lâu dài mới có thể tốt lên.
Cứ như vậy theo từng ngày, ta cũng đã ở Bắc Lương được ba năm.
Bắc Lương và Đại Tề, tuy mấy tháng gần đây biên cương vẫn còn xích mích, nhưng cả hai bên đều không chính thức xuất quân, vậy nên năm nay, bách tính Bắc Lương vẫn có thể trải qua cuộc sống bình an thuận lợi.
Ta luôn cảm thấy có điều gì đó không ổn ở chiến sự vốn được hai bên lên kế hoạch từ đầu. Rốt cuộc, Bắc Lương không xuất quân vào mùa đông thì sẽ mất đi cơ hội tốt nhất, mà Đại Tề vẫn luôn giữ thái độ mờ mịt không rõ, ta cũng lười suy nghĩ cặn kẽ.
Suy cho cùng, sao phải tự mình làm phiền mình?
Đêm giao thừa, Trương gia không có thói quen đón giao thừa, các trưởng bối đều đã sớm đi nghỉ ngơi. Tiến Bằng đốt lửa than hồng, vài người chúng ta quây quần quanh lò lửa trò chuyện.
Thoáng một cái đã ba năm, ta hồi tưởng lại lần đón giao thừa đầu tiên ở Bắc Lương, là ở Lân Chỉ Cung, cùng với Nghiêm Hủ.
Ở Đại Tề, bởi vì thân thể yếu nhược, ta đều không tham gia giao thừa ở trong cung. Sở dĩ năm đó ta ở Lân Chỉ Cung đón giao thừa, chẳng qua là nghe cung nhân nói, ở Bắc Lương, nếu nam nữ trẻ tuổi cùng nhau đón giao thừa thì có thể bên nhau đến bạc đầu.
Đêm đó, chỉ nhớ ta và Nghiêm Hủ đã viết vài chữ chúc phúc cho nhau, ta kể cho hắn nghe chuyện lúc nhỏ đón năm mới ở hoàng cung Đại Tề, hắn cũng kể cho ta nghe phong tục đón năm mới của Bắc Lương.
Ta khi đó, thậm chí còn có một loại ảo tưởng, cho rằng chúng ra sẽ cùng nhau ngắm tuyết và trò chuyện như thế này đến rất lâu, rất lâu sau này.
Chỉ là thân thể ta yếu, năm đó vừa qua giờ Tý ta đã ngủ quên từ lúc nào không biết.
*Giờ Tý: Từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng
Ngày hôm sau tỉnh lại, người đã ở trong Ánh Tuyết Các, A Xán còn che miệng cười nói: “Công chúa tỉnh rồi sao? Đêm qua công chúa ngủ quên ở Lân Chỉ Cung, là nhị điện hạ ôm công chúa trở về. Nhị điện hạ sợ đêm qua tuyết lớn công chúa sẽ lạnh, còn đặc biệt dặn dò nô tì lấy thêm chăn gấm cho công chúa.”
Ta đỏ mặt thẹn thùng, lòng ta lúc đó, vẫn ngọt ngào như một hũ mật.
Giao thừa năm thứ hai, ta đã biết đến Triệu Lăng.
Đêm giao thừa, sau khi cùng hoàng đế, hoàng hậu Bắc Lương dùng bữa tại Trùng Hoa Điện, ta liền tìm một cái cớ nói thân thể không thoải mái, trực tiếp quay trở về Ánh Tuyết Các.
Nằm trên giường nhưng bất luận thế nào cũng đều không ngủ được, mấy người A Xán bọn họ đón giao thừa ở ngoài cửa, ta liền đứng dậy khoác một kiện y phục, đẩy cửa sổ xem tuyết rơi lớn hay không.
Không ngờ tuyết đã ngừng rơi, xung quanh tràn ngập ánh sáng, ta nhìn về phía Lân Chỉ Cung, thì nhìn thấy một thân ảnh quen thuộc đến mức không thể quen thuộc hơn.
Nghiêm Hủ khoác một chiếc áo choàng đen, đứng lặng ở cửa Lân Chỉ Cung rất lâu, ngẩng đầu nhìn trời. Ta cũng ngẩng đầu theo, nhưng chỉ thấy một bầu trời đen kịt vô biên vô hạn, không có lấy một vì sao.
Lò lửa phát ra một tiếng nổ lớn, đem mạch suy nghĩ của ta kéo trở lại, Huệ Tâm đang quấn lấy Tiến Bằng đòi bánh ngọt, Tống Cẩn và Vân Hạc cũng đang nói chuyện vui vẻ. Đón giao thừa náo nhiệt thế này, thật là như mộng như ảo.
Tiến Bằng hâm nóng một bình rượu, rót cho mỗi người một ly. Rượu ấm xuống bụng, giống như một tràng pháo hoa nổ trong lòng, xua tan hết thảy mây mù.
Lúc muốn uống ly thứ hai, ta bị Tống Cẩn ngăn lại: “Tiểu Vân vẫn còn đang uống thuốc, không thích hợp uống rượu, một ly là được rồi.”
Tiến Bằng thu lại tay định rót rượu, cười nói: “Ta đây vui quá lại quên mất, vậy Tiểu Vân tới ăn chút bánh ngọt”, nói xong, còn chen thêm một câu, “Hương vị e không thể bằng bánh bao lạp nguyệt của Như Ý Trai.”
Ta cũng cười, biết hắn đang trêu ta, lại quay đầu sang Tống Cẩn nói: “Tống đại phu thật nghiêm khắc quá.”
Vân Hạc đã uống được mấy ly, hai mắt mê ly: “Nghiêm khắc cái gì, lần trước ta bị thương ở Nhạc quốc, sao ngươi không ngăn cản ta uống rượu?”
Tống Cẩn nhìn hắn một cái: “Thật ra lúc đó ngươi không nên uống, ta chẳng qua chỉ muốn để ngươi nhớ lâu một chút, cuối cùng sau khi ngươi uống rượu xong phải uống thuốc hơn cả tháng...”
Vân Hạc: “…”
Mùng một hôm sau, Huệ Tâm kéo ta đến chỗ các trưởng bối hưởng không khí vui mừng rồi nhận hồng bao.
Lúc sắp đến gần phòng của Vân Hạc, đột nhiên có người gọi: “Tiểu thư, lão thái thái cho gọi người.”
Huệ Tâm nghe xong liền cười hì hì nói với ta: “Vậy tỷ tỷ đến chỗ Vân ca ca trước đi, ta đi đến chỗ tổ mẫu, tỷ nhớ giúp ta đòi hồng bao ở chỗ Vân ca ca nhé.”
Ta gật đầu.
Vân Hạc không có trong phòng, trên bàn đặt lại một bức tranh mà ta chưa thấy bao giờ.
Nữ tử trong tranh có đôi mày ngài xinh đẹp, nho nhã thoát tục. Đôi mắt đẹp lưu chuyển, mang đến một cảm giác linh động, tay trái cầm kiếm, càng thêm mấy phần oai hùng mạnh mẽ.
Nét mực còn chưa khô, dường như vừa mới được vẽ xong không lâu.
Lúc này, ngoài cửa truyền đến giọng nói của Tiến Bằng: “Ở Giang Châu xác thực có người nhìn thấy người rất giống Phong cô nương, chỉ là nàng kia không chịu thừa nhận, vậy Vân huynh, ngươi có muốn đích thân đi...”
Yên lặng một hồi lâu, ta mới nghe thấy một tiếng thở dài.
Không lâu sau, Vân Hạc đẩy cửa bước vào, nhìn thấy ta ở đây, đuôi mày nhướng lên, cười nói: “Sao chỉ có một người đến đòi hồng bao?”
Ta cười đáp: “Huệ Tâm được Trương lão phu nhân gọi đi rồi, ta liền ở đây đợi huynh.”
Hắn bước đến, đi vòng ra sau bàn, ta chỉ vào bức tranh: “Nữ tử trong tranh này đẹp quá.”
Hắn dường như có chút tự đắc, nhẹ nhàng vuốt góc giấy: “Đương nhiên, lông mày đẹp, đôi mắt đẹp, mũi đẹp, miệng cũng đẹp, chỉ là”, hắn lắc đầu, “Những thứ này tập hợp lại sinh ra một tính khí ương bướng cứng đầu.”
Ta nhìn hắn, trong lòng đột nhiên hiểu ra: “Biểu ca đến Bắc Lương để tìm vị cô nương này, phải không?”
Vân Hạc cười đáp: “Sao còn không phải? Vừa nãy Tiến Bằng nói ở Giang Châu có người nhìn thấy nàng ấy, nhưng nàng ấy lại không thừa nhận, cũng không biết có thật là nàng ấy không... Chẳng qua, vẫn rất giống tính khí của nàng ấy.”
Ta biết trong lòng hắn đang do dự điều gì, liền nói: “Biểu ca đưa Mạc Kỳ đi đến Giang Châu một chuyến đi. Ta ở đây có Linh Tê và huynh muội Trương gia, còn có Tống Cẩn, sẽ không có chuyện gì lớn đâu.”
Hắn nhìn ta, lắc đầu nở một nụ cười khổ hiếm hoi: “Nếu nàng ấy có thể hiểu chuyện bằng một phần của muội... thì tốt rồi.”
Ta nghĩ, nữ tử có thể làm cho Vân Hạc thế tử của Đại Tề lộ ra được biểu tình như thế này, hẳn cũng không phải tầm thường, ta cười nói: “Đợi huynh đem biểu tẩu tẩu trở về rồi thì hãy khen ta trước mặt tẩu ấy sau.”
Mặc dù Vân Hạc vẫn không yên tâm về ta, nhưng dưới sự thúc giục của ta, Vân Hạc đã đem theo Mạc Kỳ xuất phát vào mùng hai.
Giang Châu cách Nguyên Châu tương đối xa, đường lại không dễ đi. Sở dĩ để Vân Hạc đem theo Mộ Kỳ, một là Mộ Kỳ đã ở Bắc Lương nhiều năm, đối với nơi này cũng quen thuộc ít nhiều, hai là hắn và Linh Tê có phương thức liên lạc giữa các ảnh vệ, cũng tốt để ta và Vân Hạc có thể biết được tình hình của nhau.
Qua mùng mười, trên đường cũng dần dần náo nhiệt trở lại, nhưng Linh Tê lại trúng phong hàn, Tống Cẩn chẩn ra do làm việc quá sức nên mới bị cảm lạnh, rồi bắt đầu kê mấy phương thuốc.
Ta nghĩ từ khi nàng đến Bắc Lương với ta, vì ta mà chịu không ít cực khổ, nên ta nấu cho nàng một món canh bổ theo phương thuốc của Tống Cẩn để xua đuổi cảm lạnh, để nàng nghỉ ngơi thật tốt mấy ngày này.
Đêm mười lăm, đường xá Nguyên Châu náo nhiệt phi thường, khắp nơi đều treo đèn lồng đủ màu sắc, Tiến Bằng và Huệ Tâm rủ ta cùng nhau ra ngoài ngắm lồng đèn, giải câu đố. Huệ Tâm nhìn thấy đèn lồng đủ màu liền muốn giải câu đố, Tiến Bằng lại chỉ muốn ngắm đèn lồng, huynh muội hai người một đường cãi nhau, cãi đến vui c.h.ế.t đi được.
Đèn lồng đủ màu của Bắc Lương, cách làm hơi khác so với Đại Tề. Đại Tề thích nhỏ nhắn tinh xảo, Bắc Lương thì thích khí thế lớn một chút. Đèn lồng cũng được làm rất lớn, đi qua vài chỗ liền thấy mấy cái đèn lồng lớn có hình người, trên mặt đều vẽ những câu chuyện được lưu truyền dân gian.
Xem qua từng cái rồi lại từng cái, một câu chuyện quen thuộc hiện ra trước mắt, ta không nhịn được dừng lại bước chân.
Lần cuối ta nhìn thấy đèn lồng Ngưu Lang Chức Nữ là khi nào nhỉ?
Hình như là vào thất tịch ở hành cung Đại Tề năm đó, ta vừa biết bản thân sẽ đi đến Bắc Lương hòa thân. Ta lúc đó, cũng ngắm đèn lồng, cầu nguyện ước muốn có thể ở Bắc Lương lạnh lẽo có được một tình cảm quyết chí thề không thay lòng thuộc về ta.
Chuyện quá khứ nhuộm dần đêm tối, cảm xúc ngũ vị tạp trần, hôm nay ta nhận ra một điều, sợ là chính mình thật sự không có được kiểu may mắn như vậy.
Lúc ngẩng đầu lên, ta liền không thấy Tiến Bằng và Huệ Tâm đâu nữa. Ước chừng hai người họ đã đi giải câu đố ở phía trước, ta thuận theo dòng người, vừa đi vừa tìm.
Đằng trước đột nhiên truyền đến một hồi náo loạn, theo tiếng mở đường ồn ào là tiếng vó ngựa truyền đến, nghe âm thanh thì số người đến cũng không ít. Một vài bà tử vốn đang bán hàng cũng gác lại công việc, rời khỏi quầy hàng lao ra bên đường.
Ta kéo một người lại hỏi: “Bà bà có biết chuyện gì xảy ra không?”
Bà tử kia mặt mày hớn hở đáp: “Vừa nghe có người nói, hình như là nhị hoàng tử đột nhiên đến Nguyên Châu, à không, phải là lập tức đến ngay mới đúng.”
Đầu ta liền ầm một tiếng, bà tử kia vẫn tiếp tục nói: “Ai cũng nói nhị hoàng tử là nam tử đẹp nhất trong cung, đêm nay không biết có thể gặp được hay không... Cô nương, ngươi đứng ở đây sẽ không thấy được, ngươi chen lên phía trước đi...”
Ta liên tục lùi về sau, Nghiêm Hủ đến Nguyên Châu rồi? Nghiêm Hủ đến Nguyên Châu rồi?
Ta vội vàng lùi về phía sau, nhưng người phía sau càng lúc càng nhiều, cái gì gọi là trịch quả doanh xa, hôm nay ta đã thấy rõ rồi.
*Trịch quả doanh xa: Đại khái ám chỉ về sự yêu thích của nữ nhân đối với nam nhân đẹp, đẹp đến mức ngay cả bà cụ già rồi vẫn bị mê hoặc.
Người khác đều lao về phía trước, ta lại liều mạng lùi ngược dòng người, không biết bị ai giẫm phải góc váy, ta loạng choạng một cái, đầu gối bên trái bị thương, đ.ậ.p lên ấm lô của một cô nương. Vết thương cũ chưa lành lại thêm vết thương mới, đau đớn tức khắc ập đến toàn thân.
Đột nhiên có người trong đám người hét lên: “Nhị điện hạ đến rồi! Nhị điện hạ đến rồi!”
Ta không biết tại sao ta quay đầu lại, cũng không biết tại sao lại vừa vặn nhìn thấy Nghiêm Hủ đang cưỡi ngựa.
Mắt chạm mắt.
Đám người reo hò, ta lập tức quay đầu, cầu nguyện rằng hắn không thấy ta, nhưng tim lại đập nhanh ngoài dự tính. Bởi vì vừa rồi trong phút chốc, ta đã nhìn thấy sự kinh ngạc và không thể tin được trên gương mặt hắn.
Rõ ràng bị ngăn cách bởi nhiều người như vậy, rõ ràng có nhiều người trên đường như vậy.
Cơn chóng mặt quen thuộc ập tới, ta ôm trán ngã nhào về phía trước.
Nhất thời, tiếng vó ngựa, tiếng reo hò, từng tiếng “nhị điện hạ, nhị điện hạ” tràn ngập bên tai, ta chỉ cảm thấy quá phiền quá phiền, người bên cạnh hình như đã dần rời đi, cho dù như thế nào thì ta đều không muốn chú ý đến.
Dường như có một cơn gió lạnh thổi qua ôm lấy ta, là mùi Nguyệt Lân hương nhàn nhạt mà ta quen thuộc nhưng không bao giờ muốn ngửi nữa.
Trước khi ngất đi, ta đã nghĩ, ta thật sự không có một chút may mắn nào.