Tiểu Thư Và Gia Phó - Tô Nhục Khúc Kì

Chương 60: Dân tị nạn đổ về (1)




Đúng vào lúc tháng 11 khi hoa quế nở hết sức thơm ngát, phía Nam đầy rẫy những bại binh càng trở nên hỗn loạn, tình trạng bắt người trưng binh diễn ra khắp nơi chỗ nào cũng có.

Bên ngoài, chiến tranh đang diễn ra ác liệt, tiếng pháo nổ vang rền và người dân chạy trốn khắp nơi, ngay cả bản làng ven sông cằn cõi hẻo lánh nào cũng thường xuyên có những dân tị nạn hoảng loạn xông vào.

Là một nơi trú ẩn tự nhiên đơn sơ nhưng an toàn, số lượng dân tị nạn lén lút ở khắp các góc trên núi ngày càng nhiều, bọn họ như tìm được chỗ nương náu, kéo theo gia đình vào các nơi trong rừng ẩn náu.

Nơi Đào Tương cùng Cố Sơn và người dân của bản làng chiếm giữ ở sườn núi là khu vực hiếm hoi bằng phẳng, còn là nơi gần suối, việc lấy nước rất thuận tiện, là một nơi đóng quân lý tưởng.

Dù dãy núi rộng lớn, nhưng ngoài vài ngọn núi cao ở ngoại vi, vào sâu bên trong là khu rừng rậm rạp đầy hiểm nguy, những dân tị nạn từ bên ngoài phần lớn sợ hãi thú dữ ăn thịt người, không dám đi sâu vào, chỉ đành nán lại quanh khu vực sườn núi nơi dân làng sinh sống.

Số lượng người lạ xung quanh ngày càng nhiều, không biết có phải do va chạm với người lạ hay không, mà Đào Cố mới ba bốn tháng tuổi bỗng nhiên phát sốt.

Gương mặt nhỏ bé của đứa trẻ đỏ bừng, tiếng khóc còn không lớn bằng tiếng mèo con, nhưng ở vùng núi hoang vu này không thể tìm thấy bác sĩ nào, khiến Đào Tương và Cố Sơn vô cùng lo lắng, suốt ngày ở trong cái chòi chăm sóc cho đứa trẻ.

Đơ khi đứa trẻ hạ sốt và tình hình ổn định, tâm tình sợ hãi của hai người mới thoáng an tâm trở lại.

Lúc này thời tiết trong núi ẩm ướt và lạnh lẽo, khi hương thơm cuối cùng của hoa quế cũng tan biến, không biết khi nào đã lặng lẽ bất giác bước vào giữa mùa đông.

Gió đông rét lạnh nghiêm trang thổi mạnh qua mọi ngóc ngách, tổi đến khiến da mặt người ta sinh ra đau rát, Đào Tương ôm Đào Cố không dám ra ngoài, sợ đứa trẻ bị gió thổi lạnh.

Mà Cố Sơn cũng không rời xa hai mẹ con, việc thu thập cành khô và củi để qua mùa đông đều phải nhờ vào việc dùng đồng bạc hỏi mua từ dân làng.

Trên núi có nhiều gỗ dễ kiếm, chỉ cần hai ba đồng bạc là có thể mua được hơn mười bó củi khô đã chặt, chất đống gọn gàng dưới gốc cây lớn đối diện cửa chòi, khiến chỗ trống đó đầy ắp, phủ lên trên bằng một tấm vải dày, ngay cả khi trời mưa cũng không sợ.

Thấy hai bên có nhà gỗ và đống củi chắn lại, sợ gió lạnh xuyên vào làm Đào Tương và đứa trẻ bị lạnh, Cố Sơn liền lấy ra mảnh bạt dầu còn lại để dựng tường chắn gió.

Anh dùng dây và vỏ tre đục lỗ ở mép và buộc chặt, căng kỹ càng và buộc vào những thân cây gần đống củi và chòi, phần bạt thừa còn kéo ra làm một cái mái nhỏ chắn mưa.

Người đàn ông sức lực rất lớn, buộc rất tỉ mỉ, bức tường chắn gió cao bằng người lớn bị gió núi thổi kêu vù vù, lớp bạt chắc chắn căng đầy gió như mặt trống, nhưng vẫn chặt chẽ chống đỡ, không bị thổi bay.

Sau khi bức tường bạt có mái được buộc xong, gió lạnh tạt ngang đã rõ rệt biến mất, khiến mọi người cảm thấy ấm áp hơn, không còn cảm giác lạnh lẽo như trước.

Buổi chiều, Đào Tương ôm Đào Cố ngồi sau tấm rèm ở cửa chòi cho con bú, Cố Sơn đang đun nước trên bếp than, hơi ấm dễ chịu phả vào mặt, khiến cô cảm thấy thoải mái vô cùng.

Gia đình ba người có cái chòi rộng rãi được dựng bên cạnh nguồn suối, xung quanh cũng có vài hộ dân khác, nhiều người hơn thì sống dọc theo dòng suối phía dưới, họ coi như ở địa thế cao hơn.

Hiện tại, chòi gỗ đã dựng ba mặt tường, chỉ để lại một mặt lấy nước, ngoài việc chắn gió, còn tăng cường tính riêng tư cho nơi ở.

Có họ làm gương trước, dân làng thấy bên ngoài chiến tranh không ngừng, tình trạng lính cướp trưng binh ngày càng tăng, không biết phải sống trong núi bao lâu, ai nấy cũng không còn do dự, bắt chước nhau chuẩn bị chòi gỗ để qua mùa đông.

Chỉ trong chốc lát, trong rừng rậm ở sườn núi đã xuất hiện đủ loại bạt và mái che, trông thật nhộn nhịp.

Khi có thêm đống củi và bạt chắn tầm nhìn từ bên ngoài, Đào Tương cảm thấy trong lòng thoải mái hơn nhiều, cũng có tâm trạng vui đùa với đứa trẻ trong ngực.

Đào Cố nhỏ bé đã hồi phục sức khỏe, lượng ăn uống vẫn đáng kinh ngạc như trước đây, vừa bú xong bên này lại tìm cách bú bên kia, dáng vẻ giữ chặt kho thóc của mình cực kỳ đáng yêu.

Trên gương mặt xinh đẹp của Đào Tương tràn đầy nụ cười, vừa nhẹ nhàng cho con bú vừa hôn lên đầu đứa trẻ được đội mũ lông.

Khi vừa mới vào thu, thú rừng béo tốt, Cố Sơn theo chân những thợ săn lão luyện lên núi hợp tác săn bắn được không ít thịt rừng, cũng học được cách chế da thú từ bọn họ, may cho Đào Tương và Đào Cố vài bộ áo lông, giờ chính là lúc thích hợp để mặc.

Đào Cố bú sữa no nê, sau khi ợ hơi, ngoan ngoãn cuộn tròn trong vòng tay ấm áp của mẹ, nhắm mắt muốn ngủ.

Nhóc rất quấn người, sau khi sinh non, Cố Sơn lo lắng không nuôi được, đã ôm nhóc suốt đêm để dỗ dành, nên hiện tại dù đã ngủ cũng cần người lớn thi thoảng ôm ấp, nếu không sẽ tỉnh dậy.

Dù chỉ mới ba tháng tuổi, nhóc đã nặng hơn nhiều so với lúc mới sinh, Đào Tương ôm lâu cũng cảm thấy mỏi tay.

Qua tấm rèm, Cố Sơn luôn chú ý đến cô, kịp thời vặn một chiếc khăn mặt ấm, đồng thời bế đứa trẻ sang tay mình, ra hiệu cho Đào Tương lau sạch phần ngực ướt.

Dù hai người rất thân mật khắng khít, hơn nữa đã có con, nhưng Đào Tương vẫn còn ngượng ngùng, mặt đỏ bừng khi nhận lấy chiếc khăn ấm, hơi nghiêng người, nhẹ nhàng lau cơ thể.

Cố Sơn ôm đứa trẻ đang ngủ say, nhẹ nhàng vỗ lưng cho nhóc, nhưng đôi mắt tối như chim ưng lại dán chặt vào cô không rời.

Đào Tương không hay biết, chỉ chăm chú cúi đầu dọn dẹp những giọt sữa vương vãi trước ngực, trông như một người mẹ thỏa mãn với con cái, quên mất rằng đã lâu rồi cô không thân mật với người đàn ông.