Tiểu Đạo Sĩ – Gom Tiền Gom Luôn Tình

Chương 24




Nếu chỉ là bệnh ngoài da thì dù nó nghiêm trọng đến đâu hay kỳ lạ thế nào, Dư gia cũng không cần mời đạo sĩ đến xử lý chuyện này. Là một doanh nhân thành đạt có thể phát triển một xí nghiệp trở thành một chuỗi cửa hàng bách hóa lớn, sao có thể mê tín đến mù quáng. Vì vậy, ngoài những bọc mụn nước trông như một căn bệnh ngoài da như thế này, e là còn có một số vấn đề khác.

Ôn Nhiên ra hiệu cho Dư Mộng Ly thả áo xuống: “Ngoài cái này ra, còn có vấn đề gì khác nữa không?”

Bà Dư không giấu được lo lắng, nói: “Đại sư, có phải con gái của tôi mắc bệnh giời leo mà người xưa hay nói hay không?”

Ôn Nhiên mỉm cười: “Mọi người đều có trình độ học vấn hơn người, sao có thể tin vào những điều này? Ngày xưa, gọi là giời leo vì y học còn kém phát triển. Khi đối mặt với một số căn bệnh đặc biệt mà người ta còn thiếu kinh nghiệm thì việc sơ sẩy là điều khó tránh khỏi. Cộng thêm nếu loại mụn nước này mọc đầy người, các triệu chứng bệnh trông rất đáng sợ, lan truyền bậy bạ rồi trở thành bệnh giời mà thôi.”

Làm sao bà Dư lại không biết những điều này cho được. Nhưng vừa nghĩ tới đứa con gái của mình, bà không khỏi thở dài. Dường như bà có điều muốn nói nhưng không thể nói trước mặt con gái, vì vậy bèn bảo Dư Mộng Ly lên lầu trước. Sau khi người đi rồi, bà mới nói: “Nếu như chỉ là bệnh ngoài da, dĩ nhiên chúng tôi sẽ không ngu ngốc tới mức đi tìm đại sư. Nếu trong nước trị không khỏi thì có thể ra nước ngoài. Nhưng mà con gái của tôi thật sự giống như bị thứ gì đó ám, bây giờ thi thoảng con bé còn phát điên. Mỗi khi con bé phát bệnh, sẽ điên cuồng muốn ăn thịt sống. Trước đây nhà chúng tôi có nuôi một chú cún nhỏ màu trắng, thuộc giống Bichon Frisé. Con bé rất thích nó, mỗi ngày đều ôm cún ngủ. Kết quả…”

Bichon Frisé

Nhớ tới cảnh tượng khi đó, bà Dư nghẹn ngào không nói nên lời, Khang Thời nói tiếp: “Kết quả bị Dư tiểu thư bóp chết khi phát điên, còn lột da gặm thịt của nó.”

Đây cũng chính là lý do tại sao mà Khang Thời lại nói anh ta không tìm ra nguyên nhân, nhưng chắc chắn không phải có ai đó giả thần giả quỷ ở phía sau. Phải làm sao mới có thể điều khiển một cô gái ăn tươi nuốt sống chú chó của mình.

Dư Hồng Bân ở bên cạnh nghiêm giọng nói: “Ban đầu chúng tôi cũng nghĩ Mộng Mộng mắc bệnh gì đó, dẫu sao trên đời vẫn có rất nhiều căn bệnh kỳ lạ. Chúng tôi cũng đã đưa Mộng Mộng đi khắp các bệnh viện lớn trong nước, thậm chí cả các bệnh viện nổi tiếng ở nước ngoài nhưng đều không kiểm tra được gì. Chỉ cần Mộng Mộng phát bệnh, lập tức muốn ăn thịt sống. Nếu như khi đó không cho con bé ăn thịt sống, ngoài việc mọc mụn nước, Mộng Mộng sẽ trở nên tiều tụy già nua không chịu nổi, như thể bị thứ gì đó hút khô chỉ trong một đêm. Mộng Mộng chỉ mới 15 tuổi, nhưng lúc phát bệnh thì lại trở nên già nua, nói con bé giống một bà lão 60, 70 tuổi có khi người ta còn tin. Một khi cho con bé ăn thịt sống rồi, con bé sẽ trở lại như trước. Chúng tôi thật sự không còn cách nào khác, bệnh viện không trị được, lúc này mới tìm tới Thuần Dương đạo quán.”

Ôn Nhiên nói: “Tôi không nhìn thấy âm khí trên người con gái ông, vì vậy tạm thời có thể loại trừ khả năng bị quỷ ám. Dựa theo những vấn đề ông vừa nói, tôi nghiêng về hướng cổ trùng hơn.”

Khang Thời nói: “Tôi cũng nghi là cổ trùng, tuy nhiên cổ trùng cũng có hàng ngàn loại, thật sự rất nhiều. Tôi cũng thử liên hệ với vị sư huynh nghiên cứu về thuật cổ trùng trong Huyền Môn, nhưng sớm nhất cũng phải là ngày mốt anh ấy mới tới đây được. Ôn Nhiên, cậu có chút hiểu biết gì về mặt này không? Nếu thật sự không làm được, cậu có cách nào có thể hóa giải tạm thời giúp Dư Mộng Ly hay không? Dựa theo những kinh nghiệm trước đó, tối nay Dư Mộng Ly sẽ phát điên. Nếu không, tôi cũng sẽ không vội vàng tới tìm cậu.”

Ôn Nhiên suy nghĩ một lát, nói: “Có thể cho tôi xem phòng của con gái hai người được không? Hoặc là những nơi trong nhà mà cô ấy hay ngồi thẫn thờ lâu nhất?”

Bà Dư nói: “Thường thì con bé đều sẽ ở trong phòng ngủ, hoặc là trong phòng nhạc để luyện đàn.”

Khi Ôn Nhiên và mọi người lên tới, Dư Mộng Ly đang ngồi thẫn thờ trên bục cửa sổ, ngẩn người nhìn ra khu vườn nhỏ bên ngoài. Không thể không nói, một cô gái xinh đẹp thì làm gì cũng khiến người khác cảm thấy đẹp, ngay cả khi lặng lẽ ngẩn ngơ cũng đẹp như một bức tranh vẽ. Một cô gái như thế, thật sự khiến người ta chẳng cách nào tưởng tượng nổi bộ dạng của lúc phát điên đòi ăn thịt sống sẽ trông như thế nào.

Phòng của Dư Mộng Ly rất rộng, nhưng không phải kiểu mơ mộng của công chúa, mà vô cùng đơn giản, mang theo một chút kiểu dáng hiện đại của phong cách Châu Âu. Những vật trang trí trên tường đều có liên quan đến âm nhạc. Còn có một số ảnh chụp của Dư Mộng Ly khi cô chiến thắng trong các cuộc thi. Từ những thứ như vậy, có thể thấy rằng cô bé này thật sự là một cô gái hết sức ưu tú.

Tuy nhiên Ôn Nhiên chưa bao giờ nhìn người qua vẻ bề ngoài, vì vậy cậu không đưa ra đánh giá.

Ôn Nhiên quan sát bao quát căn phòng. Trong mắt cậu, bao gồm cả Dư Mộng Ly đang ngồi trong phòng, đều được phủ một tầng khí chết chóc nhàn nhạt. Nhưng trong lớp khí chết này không hề có âm khí. Sau khi xác định trong phòng không có thứ gì đặc biệt, Ôn Nhiên mới thắp một nén nhang bên dưới chân giường của Dư Mộng Ly.

Khi nén hương cháy dần từng chút một, Dư Mộng Ly đang âm thầm ngồi trên bục cửa sổ đột nhiên ôm bụng lăn lộn dữ dội: “A! Đau quá! Mẹ ơi, con… bụng con đau quá…”

Vợ chồng ông Dư vội chạy tới ôm lấy con gái mình, một người cố gắng nắm chặt tay con gái. Trên lưng Dư Mộng Ly có rất nhiều mụn nước nhỏ, nếu như để cô ấy cào trúng, không biết sẽ còn xảy ra chuyện gì.

Nhưng cũng chỉ mất vài phút, thấy nhang trầm khiến Dư Mộng Ly phản ứng dữ dội, Ôn Nhiên lập tức dập nén nhang đi. Sau khi nhang đã tắt, Dư Mộng Ly cũng từ từ bình tĩnh lại. Chỉ là cô ấy vẫn còn hơi sợ sệt vì cơn đau bất ngờ khi nãy, sắc mặt xanh xao chui rúc vào lòng mẹ.

Ôn Nhiên nói: “Về cơ bản có thể kết luận, vấn đề trên người Dư tiểu thư chính là thuật cổ trùng. Trong phòng và trên người cô ấy không có chút âm khí nào, cộng thêm việc cô ấy phản ứng dữ dội trước nhang dẫn cổ trùng của tôi, chắc hẳn đã bị người ta hạ cổ.”

Khang Thời cũng có chút hoài nghi, chỉ là anh ta không hiểu chút gì về mặt này nên cũng chỉ có thể nghi ngờ. Bây giờ thấy Ôn Nhiên nói vậy, anh càng tò mò hơn: “Tại sao cậu lại mang theo loại nhang này trên người?”

Ôn Nhiên mở túi xách, lấy ra một chiếc hộp gỗ nhỏ. Bên trong có đầy đủ các loại nhang chỉ dài bằng bàn tay, được chia thành 12 ô nhỏ: “Loại nhang nào cũng có, trang bị cơ bản thôi mà.”

Khang Thời thầm nghĩ, đây thật sự không có cơ bản xíu nào. Nhang dẫn cổ trùng, trong Huyền Môn bọn họ dù là hòa thượng hay là đạo sĩ cũng rất ít người có.

Nghe Ôn Nhiên nói đã tìm ra được nguyên nhân căn bệnh kỳ lạ của con gái mình, Dư Hồng Bân cũng thở phào nhẹ nhõm. Đã tìm được vấn đề thì sẽ dễ dàng giải quyết: “Vậy không biết sư phụ Ôn có hiểu gì về thuật cổ trùng không? Chuyện của con gái tôi, có thể giải quyết được hay không? Về vấn đề thù lao hai người cứ yên tâm. Chỉ cần chữa khỏi bệnh cho con gái tôi, muốn bao nhiêu cũng không thành vấn đề.”

Ôn Nhiên lắc đầu: “Mỗi người học thuật đều tập trung vào chuyên môn riêng, dù tôi có chút hiểu biết về thuật cổ trùng nhưng chỉ giải được những loại trùng phổ biến, nói cách khác là loại trùng bình thường mà thôi. Còn triệu chứng do cổ trùng gây ra trên người con gái ông là lần đầu tiên tôi được thấy. Cổ trùng có rất nhiều loại, dù là loại bình thường cũng có đến hàng ngàn loài khác nhau, có loài còn phức tạp hơn. Thông qua các cách nuôi trùng khác nhau mà cách giải trùng cũng sẽ khác nhau. Nếu như có thể, tốt nhất ông nên cho người đi điều tra, loại cổ trùng lần này chắc chắn là do con người hạ cổ. Các người cần phải điều tra rõ nguyên nhân, xem người hạ cổ này có thù oán với con gái hai người, hay là có thù oán với các người. Nếu như tìm được người hạ cổ trùng, vậy đám cổ trùng này sẽ rất dễ xử lý.” 

Hai vợ chồng nhìn nhau, trong đầu đều đang nghĩ xem mình có thể đắc tội với ai. Bà Dư thấp giọng hỏi Dư Mộng Ly: “Mộng Mộng, con có nghi ngờ ai không?”

Dư Mộng Ly cau mày, suy nghĩ một lúc lâu, lắc đầu: “Con không nghĩ ra người nào sẽ hạ cổ với mình.”

Khang Thời không khỏi nhíu mày: “Dù sao thì cũng không phải vô duyên vô cớ hại người. Càng không biết vấn đề bắt nguồn từ bản thân Dư tiểu thư hay là từ ông bà Dư. Phải xác định được mục tiêu mới có thể đi tìm.”

Ôn Nhiên không nói gì, những chuyện này đã vượt ngoài phạm vi công việc của cậu. Hơn nữa, dù cậu có hiểu biết nhiều về thuật cổ trùng, nhưng ở đây không phải thế giới cũ của cậu. Cho dù là thế giới song song cũng có thể có một chút gì đó khác biệt, dẫn đến các kết quả khác nhau một trời một vực. Nếu cậu làm loạn ở đây, không chừng sẽ gây chết người.

Nhớ tới vị sư huynh tinh thông thuật cổ trùng mà Khang Thời nói lúc nãy phải mất hai ngày nữa mới tới được đây, Ôn Nhiên nói: “Tôi không rành về phương pháp giải thuật trùng cổ, nhưng tôi có thể giúp cô ấy ổn định mấy ngày, chờ đến khi đạo sĩ giải cổ trùng tới.”

Dư Hồng Bân vội vàng nói: “Không biết sư phụ Ôn có cách gì?”

Ôn Nhiên nói: “Tôi có một loại nhang đặc chế riêng, có thể khiến cả người cả trùng cùng chìm vào giấc ngủ. Trong lúc nó ngủ say, ông Dư cần phải tìm nhân viên y tế chuyên nghiệp để tiến hành truyền dịch dinh dưỡng cho cô ấy. Những lúc Dư tiểu thư phát điên muốn ăn thịt sống, đều là do cổ trùng quấy phá. Nếu như cổ trùng cũng ngủ say, dĩ nhiên cô ấy sẽ không quậy nữa. Tuy nhiên loại nhang này chỉ có thể dùng tối đa bảy ngày, quá bảy ngày sẽ gây tổn hại đến cơ thể.”

Dư Hồng Bân vội vàng nói: “Được, bảy ngày cũng đủ để vị đạo sĩ giải cổ trùng đó tới.”

Ôn Nhiên nói tiếp: “Loại nhang đặc biệt này còn đang thiếu một bước cuối cùng để hoàn thành, vì vậy tôi cần một ít máu của Dư tiểu thư. Sau đó, làm phiền tài xế Dư gia đưa tôi về nhà lấy chúng. Một nén nhang có thể cháy trong 24 giờ, chỉ cần nhang không tắt, Dư tiểu thư sẽ không thể tỉnh dậy. Mùi nhang cũng không ảnh hưởng tới người khác, nên mọi người có thể vào chăm sóc cho cô ấy.”

Bà Dư vội nói: “Vậy thì tốt quá, làm phiền sư phụ Ôn.”. Bà ta còn tưởng phải cách ly con gái hoàn toàn bởi mấy nén nhang gây ngủ này.

Ôn Nhiên nói: “Quy trình làm nhang khá phức tạp, nguyên liệu cũng thuộc dạng hiếm có, vì vậy giá cả cũng không hề rẻ, một cây 30 nghìn.”

Dư Hồng Bân vội vàng bảo vợ mình đi lấy sổ chi phiếu, ghi thẳng 300 nghìn: “Hôm nay phải làm phiền sư phụ Ôn một chuyến. Nếu sau này con gái tôi còn gặp vấn đề gì mong sư phụ có thể giúp đỡ thêm.”

Ôn Nhiên nhận lấy tờ chi phiếu. Người giúp việc của Dư gia mang ra một ống tiêm còn nằm trong bao bì, Ôn Nhiên khéo léo lấy nửa ống máu từ cánh tay của Dư Mộng Ly. Sau đó để tài xế Dư gia đưa cậu về lại Kỳ gia, vì đa số đồ đạc của cậu đều ở biệt thự Kỳ gia.

Người tài xế tưởng rằng cậu Ôn này chỉ là một tiểu đạo sĩ bình thường. Đến khi ông ta chạy xe vào Kỳ gia và được quản gia ở đây tiếp đãi, chú tài xế nhỏ này mới thấy sợ hãi. Ông ta đã lái xe cho Dư được vài năm nên ít nhiều cũng có chút kinh nghiệm, may mà lúc Ôn Nhiên phàn nàn về vấn đề ăn uống, ông cũng không làm ra chuyện gì bất lịch sự.

Đến khi bác tài xế quay về Dư gia và kể hết mọi chuyện ở Kỳ gia, Dư Hồng Bân cũng rất ngạc nhiên. May mắn thay ông ta không tỏ vẻ xem thường khi thấy sư phụ Ôn quá trẻ tuổi. Chỉ là trong lòng ông ta có chút tò mò, không biết vị sư phụ Ôn này có quan hệ thế nào với Kỳ gia.

──── ∘°❉°∘ ────

Sau khi về tới Kỳ gia, Ôn Nhiên nhờ bác quản gia đổi chi phiếu thành tiền giúp mình. Cậu chỉ rút 100 nghìn ra làm từ thiện và giữ lại 200 nghìn. Vốn dĩ cậu có thể giữ lại toàn bộ số tiền này mà không cần phải cho đi. Vì đây là tiền buôn bán của cậu chứ không phải tiền xử lý ma quỷ giúp người ta, nên có giữ lại toàn bộ cũng không sợ bị báo ứng.

Nhưng giá bán nhang giả chết kia có hơi đắt. Giá gốc của mỗi nén nhang cao lắm chỉ có 3000 tệ, cậu lại bán giá gấp 10. Lần đầu tiên trong đời cậu kiếm được nhiều lợi nhuận như vậy nên hơi đề phòng. Thế là cậu mới dứt khoát quyên góp một ít cho an tâm.

Nhìn thấy tài khoản của mình càng ngày càng nhiều, Ôn Nhiên cũng có chút tự tin hơn về đời sống sinh hoạt ở thế giới này. Cho dù sau này phải rời khỏi Kỳ gia, cậu cũng không chết đói.

Đây là lần đầu Ôn Nhiên được tiếp xúc với thuật cổ trùng ở thế giới này nên không khỏi tò mò. Cậu tới đây chưa được bao lâu, cũng không dễ dàng gì mới có thể hòa nhập được với thế giới mới mà không lộ ra khuyết điểm. Bây giờ tình cờ gặp được vụ đó, cậu dự định tìm hiểu đôi chút về nó.

Ôn Nhiên vốn định tới thư viện xem thử cuốn sách nào nói về đề tài này hay không, nào ngờ lại được bác quản gia mách cho trong thư phòng trong nhà cũng có vài cuốn. Lúc ông cụ còn sống rất hứng thú với lĩnh vực này, nên đã sưu tầm rất nhiều sách, chỉ tiếc là ông cụ không có tài năng về chúng.

Ôn Nhiên cứ tưởng, đáng ra thư phòng của Kỳ gia phải là chỗ khá quan trọng. Sản nghiệp của Kỳ gia lớn như vậy, chắc chắn có rất nhiều bí mật. Cậu và Kỳ Vân Kính chỉ là quan hệ hợp đồng, bước vào đó sợ không ổn. 

Không ngờ, mặc dù được gọi là thư phòng nhưng cậu cảm thấy nó không khác gì một cái thư viện. Thư phòng lớn như một cái mê cung, giá sách cái nào cái nấy cao đến nỗi phải dùng thang mới lấy được. Nếu không phải đa số kệ sách đều được đặt sát tường, lại thêm một chiếc ghế sô pha thoải mái nằm gần cửa sổ và cách bài trí trong phòng trông khá ấm áp, thì cậu đã ngỡ như mình đã lạc vào thư viện nhà người ta.

Biết được Kỳ gia có một kho sách lớn như vậy, đương nhiên Ôn Nhiên sẽ không bỏ gần tìm xa. Hơn nữa, sợ là sách về Huyền Thuật ở những thư viện bên ngoài còn không nhiều bằng Kỳ gia. Ôn Nhiên lập tức nghĩ tới việc tạo dựng một mối quan hệ tốt với Kỳ Vân Kính, có như vậy cậu mới dễ dàng tới đây đọc sách ngay cả khi hợp đồng giữa hai người kết thúc.

Tuy nhiên, suy nghĩ này vừa lóe lên đã bị dập tắt, cậu đang kế thừa cuộc đời và số phận hẩm hiu của pháo hôi, bởi vậy tốt nhất vẫn nên tránh xa nhân vật chính một chút.

Ôn Nhiên thích làm việc trong phòng riêng của mình hơn, dù bày trí trong thư phòng rất thoải mái nhưng trong không gian riêng của mình sẽ cảm thấy tự do hơn nhiều. Vì vậy cậu lựa vài cuốn sách có tiêu đề liên quan tới cổ trùng rồi lập tức trở về phòng để xem.

Trên đường về phòng cậu chạm mặt với bác quản gia. Thấy chiếc hộp trong tay bác phát ra ánh sáng huỳnh quang màu xanh nhạt, cậu tò mò hỏi thử.

Bác quản gia mở chiếc hộp ra, bên trong là một chiếc vòng ngọc vỡ nát: “Bà cụ vô tình làm rơi khiến chiếc vòng vỡ nát. Đây là chiếc vòng bà cụ thích nhất nhưng không thể nào sửa lại được nữa. Để tránh cho bà cụ đau buồn, bác mới đem nó đi.”

Ôn Nhiên định bảo thảo nào ánh sáng này trông khá quen mắt, thì ra cậu đã từng thấy trên tay bà nội. Loại ngọc tốt như vậỵ, không chỉ rất có giá trị mà bản thân khối ngọc còn mang lại rất nhiều may mắn cho người đeo, là vật chỉ có thể gặp chứ không thể cầu.

Ôn Nhiên nhìn vào chiếc vòng ngọc vỡ thành nhiều mảnh kia, nói: “Bác định xử lý nó thế nào ạ?”

Quản gia nói: “Đã không sửa được thì chỉ có thể đem vứt thôi.”

Vứt đi thì tiếc quá. Ôn Nhiên suy nghĩ rồi nhặt mấy mảnh ngọc vỡ lên: “Vậy bác Úc có cách nào cắt miếng ngọc dày thế này thành từng mảnh nhỏ không ạ?”

Bác quản gia cười nói: “Có thể, chỉ cần tìm thợ thủ công mài giũa là được. Nhưng ít nhất đến tối mới chuẩn bị xong.”

Ôn Nhiên gật đầu: “Vậy làm phiền bác Úc giúp cháu, mà không cần mài giũa quá đẹp đâu, cắt đại một xíu là được.”

Gần đến giờ cơm tối, sau khi xử lý xong số ngọc, bác quan gia trực tiếp đem hộp ngọc tới và mở cho Ôn Nhiên xem thử. Nếu như cậu chưa hài lòng có thể kêu người mang đi sửa lại.

Ôn Nhiên nhìn những miếng ngọc hình tròn dẹp trong hộp, cảm thấy rất vừa ý: “Đẹp rồi đẹp rồi, thế này là được rồi ạ.”

──── ∘°❉°∘ ────

Bởi vì cháu trai và cháu dâu đều ở nhà nên tâm trạng của bà cụ rất tốt. Nhìn thấy hộp đựng vòng ngọc mà mình đã làm vỡ trước đó nằm trên bàn ăn cơm, bà cụ Kỳ tò mò hỏi: “Tiểu Nhiên, con giữ những thứ này lại làm gì? Nếu con cần ngọc thạch thì trong nhà chúng ta vẫn còn rất nhiều, loại ngọc đã vỡ nát thế này là điềm xui đấy.”

Ôn Nhiên mỉm cười, nói: “Nội ơi, tuy rằng người xưa có nói ‘ngọc nát chắn tai họa’, nhưng cách nghĩ của nội không đúng lắm đâu.”

Bà cụ Kỳ mỉm cười hiền lành: “Vậy nó là thế nào?”

Ôn Nhiên nói: “Tai họa không xuất phát từ miếng ngọc. Ngọc bị vỡ là do cản tai họa giúp chủ nhân của nó, đó cũng là chuyện đã qua, vì vậy điềm xui không phải do miếng ngọc. Cái này giống với việc nhiều người cho rằng mèo đen là xui xẻo ấy nội, bởi vì khi nhìn thấy mèo đen thì sẽ có chuyện xấu xảy ra. Nhưng thực chất mèo đen là mèo may mắn, là loài mèo có linh tính nhất, nên mỗi khi mèo đen xuất hiện đều là đang nhắc nhở mọi người rằng sắp xảy ra tai họa. Dần đà, nhiều người cảm thấy mèo mang lại chuyện xấu, nhưng thực chất bản thân nó lại là điều tốt. Ngọc này tuy đã vỡ nát, nhưng dẫu sao nó cũng đã cố gắng bảo vệ chủ nhân của mình, nên không thể tùy tiện vứt nó đi được. Nó vẫn còn có thể tiếp tục phát sáng và bảo vệ chủ.”

Kỳ Vân Kính liếc nhìn Ôn Nhiên, cái miệng này đúng là cái gì cũng nói được.

Bà cụ Kỳ nói: “Nó đã vỡ thành nhiều mảnh nhỏ rồi, còn làm được gì nữa đâu?”

Ôn Nhiên quay đầu nhìn Kỳ Vân Kính, mỉm cười rộ lên má lúm đồng tiền, còn nháy mắt tỏ vẻ như đang muốn nói gì đó với anh.

Kỳ Vân Kính chậm rãi nuốt hết thức ăn trong miệng xuống, rồi bảo: “Nói đi.”

Ôn Nhiên nói: “Sân trong nhà lớn như vậy, ở ngoài sau còn một mảnh đất rất lớn, bỏ không để cỏ mọc thì lãng phí lắm. Chi bằng anh cho tôi trồng rau đi được không?”

Kỳ Vân Kính lạnh lùng nhìn cậu: “Đó không phải là bãi cỏ dại mà là sân golf.”

Ôn Nhiên thật sự không nhìn ra, cậu tưởng đó chỉ là một bãi cỏ dại lớn mà thôi. Vả lại cái diện tích đó dư sức xây thêm mấy tòa chung cư nữa, cậu chỉ muốn xin một phần nhỏ thôi mà: “Sao tôi chưa thấy anh chơi? Mỗi ngày anh đều bận đến mức ăn cơm còn phải chắt chiu từng chút thời gian, còn có thể đánh golf được sao?”

Kỳ Vân Kính: “Có nhiều thứ không thường xuyên dùng tới, nhưng khi cần thì phải có sẵn.”

Ôn Nhiên ôm hộp đựng ngọc lên và nói: “Trên đời có một dạng năng lượng đặc biệt gọi là linh khí. Linh khí chỉ lơ lửng ở trong không khí. Người trong Huyền Môn phải dùng phương thức tu luyện đặc biệt để sử dụng được linh khí cho bản thân, cũng vì vậy mà chúng tôi mới có khả năng xử lý mấy chuyện quỷ dị kia. Linh khí cũng rất tốt cho người bình thường, đáng tiếc chúng thường thưa thớt và mờ nhạt, rất khó để người thường có thể hấp thu được. Tuy nhiên nếu có trận pháp tập hợp linh khí lại thì sẽ khác. Nhưng mà bà nội đã lớn tuổi, các anh cũng chưa chắc có thể tu luyện được, vậy thì chỉ có thể ăn linh khí vào. Chúng ta mở một vườn rau trong sân và trồng các loại rau củ quả, tôi sẽ dùng những miếng ngọc làm vật dẫn để bố trí một trận pháp cho vườn rau, khi đó rau củ có thể hấp thu được linh khí giữa đất trời. Rau củ lớn rồi thì dùng để nấu ăn, và chắc chắn lành mạnh hơn rau củ bên ngoài rất nhiều.”

Ôn Nhiên dùng chất giọng đầy dụ dỗ để thuyết phục Kỳ Vân Kính: “Ăn vào rất tốt cho sức khỏe của bà nội nha, anh thật sự không thể cho dù chỉ một mảnh thôi sao?”

Ngày hôm sau, hiếm khi Kỳ Vân Kính được tan làm sớm ngồi xe về nhà. Khi xe đang lái ngang hồ nhân tạo để về khu biệt thự, anh tình cờ nhìn thấy một số công nhân đang làm cỏ, xới đất. Anh hơi nghi ngờ không biết mình có bị Ôn Nhiên cho uống bùa mê thuốc lú gì hay không mà lại đồng ý cho cậu xới sân golf của mình để trồng cây. Vừa nghĩ tới việc sau này đường về nhà của mình biến thành một cánh đồng rau, anh đã cảm thấy đau đầu.

Làm cỏ và xới đất xong, còn phải bón lót để đất đai màu mỡ. Ôn Nhiên cũng phải dựa theo vận thế của Kỳ gia để thiết kế một vườn rau phù hợp với phong thủy của trang viên, tốt nhất nên bố trí thêm những vật có thể trấn áp. Nếu xử lý tốt, thì rau củ được trồng ở mảnh vườn này sẽ trở thành cây lương thực thần.

Thật ra Ôn Nhiên cũng chưa bao giờ tự mình làm những chuyện liên quan tới phong thủy như thế này, dù trước đây cậu đã từng thấy rất nhiều khi đi theo cha nuôi.

Kỳ gia cũng có rất nhiều đồ quý, nhưng không có lấy một cái pháp khí. Pháp khí chưa chắc là đồ cổ, không phải đồ vật nào càng cổ cũng càng tốt. Pháp khí là thứ chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Cơ mà chỉ một cánh đồng rau nhỏ thì không cần phải dùng pháp khí trấn áp. Nếu có thì càng tốt, không có thì chỉ cần dùng những mảnh ngọc đó để lập trận pháp là được, số dinh dưỡng mà những rau củ kia hấp thu được cũng không chênh lệch mấy.

Nhưng đây là lần đầu tiên Ôn Nhiên dựng phong thủy nên cậu muốn làm mọi thứ thật hoàn hảo. Dù sao vận khí của Kỳ gia luôn đi kèm với bốn chữ ‘thập toàn thập mỹ’, mấy nhà khác thì không cần cậu phải chỉnh chu như vậy.

Ở biệt thự Kỳ gia không có, Ôn Nhiên chỉ có thể tự mình đi tìm. Pháp khí có thể không phải là đồ cổ, nhưng trong đống đồ cổ lại dễ dàng tìm thấy pháp khí nhất. Vì vậy, muốn tìm pháp khí vẫn phải tới những chỗ bán đồ cổ. Ở thành phố nơi Ôn Nhiên đang sống có một con phố đồ cổ rất lớn, nổi tiếng khắp cả nước. Thậm chí còn thu hút nhiều người nước ngoài thích đồ cổ đặc biệt đến đây để mua bảo vật.

Lợi ích của việc nổi tiếng là người mua và người bán từ khắp nơi đều sẽ đổ dồn về đây, sản phẩm tự nhiên sẽ phong phú hơn. Điều tai hại chính là do quá nhiều người tới lui nên thành ra thật giả lẫn lộn, nếu không tinh mắt chắc chắn sẽ bị lừa.

Ôn Nhiên vừa bắt xe đi vào trong thành phố, còn chưa tới phố đồ cổ đã nhận được cuộc gọi tới từ Hạ Vũ. Vì cậu bất ngờ về nhà khi chưa tới cuối tuần, nên Hạ Vũ gọi hỏi xem bao giờ cậu trở về trường học. Biết được cậu đang tới phố đồ cổ, Hạ Vũ – thanh niên chưa từng tới chỗ đó – lập tức la làng muốn đi cùng. 

Ôn Nhiên ngồi đợi trong tiệm nước trước phố đồ cổ khoảng 10 phút thì Hạ Vũ chạy tới, cậu ta vừa vào lập tức ngồi xuống hứng máy lạnh trong tiệm: “Trời nóng như vậy tớ còn chạy ra đây với cậu, tớ đúng là tình yêu đích thực của đời cậu mà.”

Ôn Nhiên nói: “Tình yêu đích thực này của cậu tớ không nhận nổi. Đi thôi, giờ hứng máy lạnh làm gì, chút nữa ra ngoài nóng đổ mồ hôi cũng vậy à.”

Hạ Vũ cầm lấy tờ quảng cáo trong tay Ôn Nhiên, vừa quạt vừa nói: “Sao phố đồ cổ này không mở bán trong nhà ấy? Trời nóng như vậy mà buôn bán được hả?”

Sự thật đã chứng minh, vẫn có rất nhiều người không màng đến cái nắng cháy da giữa tiết hè mà đến đây săn tìm bảo vật, chẳng những buôn bán rất được mà còn vô cùng náo nhiệt. Cơ mà đúng là thời tiết vẫn gây ảnh hưởng, nhất là những khi đông người qua lại, mọi người toàn chen lấn tranh giành lẫn nhau.

Hạ Vũ vừa đi vừa tò mò hỏi: “Tại sao đột nhiên cậu lại tới đây vậy? Mỗi lần bảo cậu xuống lầu lấy hàng shipper, cậu toàn la nóng quá không chịu xuống, bây giờ lại chạy tới phố đồ cổ.”

Ôn Nhiên nhìn vu vơ vào mấy cái sạp hàng, nói: “Tớ muốn tìm vài món đồ xài được, nhưng cũng không biết có tìm được không nữa.”

Vừa nói xong Ôn Nhiên lập tức nhìn thấy một sạp hàng ưng ý, hai mắt cậu sáng bừng lên. Hôm nay trước khi ra ngoài cậu đã bói một quẻ chỉ đường, đúng là vừa nghĩ đến cái gì sẽ lập tức tìm được.

Người bán hàng là một cậu trai trẻ, nhưng trông cậu ta giống như đi làm vì đam mê hơn là dân buôn bán ở đây. Cậu bé đó ngồi trên bậc thềm trước một cửa hàng, bên trên tấm bạt trải hàng là những viên đá với đủ loại màu sáng và hình dạng khác nhau.

Ôn Nhiên đi tới gần, cúi đầu nhìn những viên đá được bày bán trên mặt đất: “Mấy viên đá này em bán thế nào?”

Cậu bé kia không ngờ sẽ có người hỏi mua, thuận miệng nói: “Mười tệ một viên, nếu anh mua nhiều sẽ tính rẻ một chút.”. Nghĩ lại sợ giá mình hét cao quá, dù sao cũng không có ai dư tiền tới mua mấy viên đá này nên nói thêm: “Đây đều là do tự tay em lựa, hình dạng rất bắt mắt, cũng rất trơn láng không sần sùi, anh có thể sờ thử.”

Hạ Vũ cũng tới gần nhìn thử, thấy hơi buồn cười: “Chỗ này không phải để bán đồ cổ sao? Tại sao em lại bán đá? Mấy viên đá đó có gì đặc biệt à?”

Dù bị nghi ngờ như vậy, nhưng mãi mới có khách hỏi mua nên cậu bé đó cũng không định đuổi khách đi, chỉ nhìn bọn họ với vẻ mặt ‘anh thì biết cái gì’ và nói: “Có một số người thích sưu tầm những thứ kỳ lạ thì cũng có người thích sưu tầm đá vậy. Những viên đá có hình dạng đặc biệt còn có thể bán được tới giá mấy triệu bạc. Với cả đâu ai quy định trong phố đồ cổ chỉ được bán đồ cổ đâu, có rất nhiều đồ vật khác nữa mà.”

Ôn Nhiên ngồi xổm xuống, đưa tay cầm lên vài viên đá: “Anh mua mười viên, em có thể bớt bao nhiêu?”

Cậu bé nói: “Bớt cho anh 20 tệ, mười viên đá của anh tổng cộng 80 tệ.”

Ôn Nhiên cũng không thèm trả giá, tiện tay cầm lấy mười viên đá trên sạp hàng, viên lớn nhất cũng chỉ to cỡ bàn tay của đứa bé 3, 4 tuổi, viên nhỏ nhất thì cỡ ngón tay cái. Chưa tới một phút cậu đã chọn xong mấy viên đá ưng ý, rồi quét mã thanh toán.

Nghe thấy tiếng ting ting trong điện thoại, cậu bé lập tức mỉm cười, khoản tiền tiêu vặt của bé lại nhiều hơn một chút.

Hạ Vũ nhìn Ôn Nhiên mà cạn lời: “Cậu bỏ 80 tệ ra mua 10 viên đá? Cậu thích đá tới vậy thì bảo tớ, tớ có thể dẫn cậu ra công viên nhỏ phía sau trường học. Ở đó có một bãi đá cạn, có rất nhiều đá cuội.”

Rõ ràng cậu bé đó không có ý tới đây buôn bán nên chỉ đựng những viên đá của Ôn Nhiên trong một cái túi nilon trong suốt. Ôn Nhiên lại không mang theo balo, cậu vừa quan sát xung quanh thử xem có chỗ nào bán túi đựng kín đáo hơn không, vừa trả lời: “Cậu không hiểu gì hết. Đừng nói là 80 tệ, 800 nghìn tệ cũng sẽ có rất nhiều người tìm mua.”

Hạ Vụ trợn tròn hai mắt. Tám trăm nghìn tệ? Bỏ 8 tệ ra mua thôi là đã ngu ngốc lắm rồi.

Cậu ta vừa âm thầm than thở xong, đột nhiên trước mặt xuất hiện một người đàn ông trung niên mặc một bộ tơ lụa thời Đường cản đường của bọn họ. Nét mặt của ông ta khá vui vẻ còn mỉm cười tủm tỉm nhìn Ôn Nhiên: “Cậu trai trẻ này, tôi thấy túi đá trong tay cậu rất đẹp, không biết cậu có thể bán lại cho tôi không?”

Ôn Nhiên mỉm cười đáp lễ: “Xin lỗi, tôi không bán.”

Người đàn ông trung niên kia lấy ra một tấm danh thiếp đưa cho Ôn Nhiên: “Tôi họ Lam, là ông chủ của cửa hàng Ngọc bội Lam Viễn. Tôi thường thích sưu tầm những viên đá với đủ loại màu sắc và hình dáng khác nhau. Vì hôm nay bản than quá nóng vội nên có thể đã mạo phạm tới các cậu, mong các cậu thứ lỗi cho. Nhưng tôi thật lòng muốn mua túi đá trong tay cậu, giá cả thế nào cũng được.”

Ôn Nhiên lấy một viên đá ra khỏi túi nilon và nói: “Nếu ông thật sự thích những viên đá này thì tôi sẽ tặng lại hết cho ông, ngoại trừ viên tôi đang cầm trên tay.”

Lam Chu Minh giật giật khóe miệng, cơ mà nhờ vậy ông ta cũng biết cậu đây không phải là một tay gà mờ. Tuy hơi tiếc nuối nhưng ông vẫn chưa chịu bỏ cuộc, nói: “Hóa ra cậu là người trong nghề, vậy tôi cũng không vòng vo nữa, 1 triệu tệ, nếu cậu thấy được lập tức tiền trao cháo múc. Còn nếu cậu không nỡ bán, thì coi như chúng ta có duyên gặp mặt, xin được kết bạn.”

Ôn Nhiên bỏ viên bỏ viên đá vào lại trong túi, sau đó vươn tay về phía Lam Chu Minh: “Rất vui được làm quen, tôi tên Ôn Nhiên.”

Lam Chu Minh cũng đưa tay ra, chỉ là ông vẫn tiếc nuối nhìn vào cái túi trên tay cậu. Nếu như ông không nhìn lầm thì đó đúng là đá ở núi Thái Sơn. Từ trước đến nay, đá ở núi Thái Sơn luôn là vật trấn giữ được các thầy phong thủy ưa chuộng nhất. Cũng có người bởi vì hai chữ ‘Thái Sơn*’ này mà cố tình mua đá từ trên núi Thái Sơn đem về trưng bày trong nhà, nhưng thật chất nó chỉ đơn giản là một hòn đá vô dụng, cùng lắm cũng chỉ mang lại chút an ủi về tinh thần cho chủ nhà.

(Thái Sơn 泰山: có ý nghĩa là Vững vàng, chắc chắn cả về công danh lẫn tài lộc.

Thái: 泰 gồm bộ thủy 氵水, ý nói vận khí hanh thông, thuận lợi như nước.

Sơn: 山 là núi, ý nói vững vàng như núi.)

Nhưng nếu như may mắn có thể lấy được hòn đá mang phúc khí từ trên núi Thái Sơn xuống, thì hòn đá đó chính là vật trấn giữ phong thủy tốt hơn bao giờ hết. Chưa kể, rất có thể hòn đá trong tay Ôn Nhiên đã là một pháp khí có linh tính sau khi hấp thụ linh khí ở trên núi.

Tuy nhiên dù pháp khí có tốt đến đâu cũng đều hữu duyên vô phận với ông, vì vậy Lam Chu Minh chỉ có thèm thuồng nhìn ngắm thêm một chút. Nếu sở hữu vật này trong tay thì có lẽ ông ta đã tạo ra vô vàn giá trị khác nhau, chỉ tiếc là ông đã chậm một bước.

Dù phong thủy cũng được coi là một phần trong giới Huyền Môn, nhưng chỉ với hai từ phong thủy này thôi đã chứa đựng sự sáng tạo vĩ đại của đất trời. Có thể nói, cứ 10 người trong Huyền Môn sẽ có 9 người biết bắt quỷ, nhưng chưa chắc có lấy một người am hiểu về phong thủy.

Mặc dù Lam Chu Minh không biết Ôn Nhiên thuộc môn phái nào, nhưng thấy cậu còn trẻ tuổi lại có mắt nhìn như vậy, ông ta thật sự rất muốn lôi kéo cậu nên đã nhiệt tình trao đổi Wechat. Ngoài mặt là ông chủ cửa hàng ngọc bội, nhưng thực chất trong nhà ông ta cũng có một số thứ liên quan tới phong thủy. Nếu có thể kết bạn với nhiều người trong giới thì sau này khi ông ta muốn tìm một món pháp khí nào đó cũng đều có thể dễ dàng tìm được.

Thấy người đàn ông kia rốt cuộc cũng chịu rời đi, lúc này Hạ Vũ – người nãy giờ vẫn luôn làm một bông hoa treo tường – mới ngơ ngác nhìn Ôn Nhiên: “Mấy viên đá có 80 tệ mà suýt bán được tận một triệu tệ?”

Vì để đề phòng chuyện khi nãy lại xảy ra, Ôn Nhiên trực tiếp nhét hết mấy viên đá đó vào trong túi áo, dù sao vẫn còn nhiều người có kiến thức qua lại trong phố đồ cổ: “Tớ bảo rồi, những người tinh mắt muốn mua số đá này còn rất nhiều. Tiếc là đúng lúc tớ cần dùng nên không bán được.”

Bên ngoài viên đá đó còn được bao bọc bởi một tầng địa chất, chờ sau khi gỡ bỏ lớp bọc bên ngoài, thì bên trong mới là món pháp khí thật sự. Nếu cậu không nhìn lầm thì đây chắc chắn là đá gốc* ở núi Thái Sơn. Loại đá bình thường và đá gốc ở núi Thái Sơn rất khác nhau, và hiệu quả mà chúng mang lại cũng cách biệt một trời một vực. Cậu có thể biết được những điều này đều là nhờ vào ký ức của nguyên chủ, trước đây cậu ta đã từng đọc những thứ này khi ở cùng với sư phụ. 

(Đá gốc – nham thạch: là loại đá hình thành nên các lớp địa chất, trong đó có đá mẹ – đá mẹ hình thành nên lớp đất dinh dưỡng nuôi cây – có thể nói đá gốc chính là nền tảng của núi rừng)

Cũng may thứ khác biệt giữa hai thế giới cũng chỉ là một số môi trường địa lý và tên địa danh mà thôi. Còn những loại khí mà cậu có thể nhìn thấy được cùng tên gọi của chúng lại không khác nhau là mấy. 

Chỉ là vừa nhớ tới 1 triệu tệ rồi, Ôn Nhiên không nén được đau lòng. Thậm chí cậu đã nghĩ tới việc bán lại với giá cao cho Kỳ Vân Kính, dù gì thì thứ này cũng là của nhà anh mà. Cơ mà nghĩ lại thì, từ khi cậu tới thế giới này, ngay ngày đầu tiên đã được người của Kỳ gia mang về nhà hầu hạ cho ăn sung mặc sướng, tạo đủ mọi điều kiện vật chất để cậu có thể thích nghi với thế giới này mà không chịu nhiều lo âu vất vả. Chỉ vậy thôi cũng đủ khiến cậu không dám nói thách, tất nhiên là trừ khi Kỳ Vân Kính chủ động ngã giá cao. Cho nên cậu sẽ cảm ơn anh bằng cách bố trí một cái vườn rau phong thủy trong trang viên.

Tiếc là vận khí của Kỳ gia quá hưng thịnh, mệnh cách của Kỳ Vân Kính quá đặc biệt, phong thủy tổng thể của nhà anh khó thay đổi, nếu không cậu đã thay đổi toàn bộ phong thủy ở Kỳ gia. Hầy, xem ra thực lực của cậu còn quá kém, còn phải tu luyện dài dài.

──── ∘°❉°∘ ────

Ở bên này, Ôn – hài lòng – Nhiên đang đưa Hạ Vũ đang ngu ngơ về lại trường học. Ở bên kia, vị đại sư giải thuật cổ trùng đã đến sớm hơn một ngày so với thời gian dự kiến, anh ta có vẻ khá ngạc nhiên khi thấy Dư Mộng Ly đang ngủ say: “Trên đời này vẫn còn có người biết làm nhang giả chết hay sao? Nếu không phải tôi đã từng nhìn thấy công thức này trên cuốn sổ tay của sư phụ, sợ là tôi cũng không biết đến nó.”

Khang Thời nói: “Nhang giả chết gì cơ?”

Mục Mộ kinh ngạc nhìn sư đệ mình: “Các người dùng mà lại không biết nó là cái gì à?”

Khang Thời lắc đầu: “Ôn Nhiên nói đây là nhang an thần, có thể khiến người ta ngủ say.”

Mục Mộ bật cười: “Làm sao có thể đánh lừa được đám cổ trùng bên trong người bằng cách ngủ say được. Chỉ có thể giả chết, khi đó đám cổ trùng này mới không di chuyển nữa.”

Khang Thời nói: “Trước mắt bỏ qua vấn đề nhang thơm này đi, huynh có thể giải quyết số cổ trùng trên người cô Dư được không?”

Nghe Khang Thời hỏi vậy, vợ chồng Dư gia cũng nhìn vị sư huynh đó với vẻ mặt lo lắng.

Mục Mộ lấy ra một cây kim, hơ qua lửa hai lần và đâm vào đầu một ngón tay của Dư Mộng Ly. Sau khi hứng được một bát máu, Mục Mộ lại đổ vào đó một chất lỏng màu xanh lam. Một lát sau, máu trong bát bắt đầu khuếch tán.

Tiếp tục, Mục Mộ lại lấy một cái ống trúc từ trong túi ra. Sau khi mở nắp ống trúc, một con trùng toàn thân đen bóng với hai cọng râu dài trông rất kỳ dị từ từ bò ra ngoài. Con trùng đó bỏ 2 cọng râu vào trong bát máu và run lên hai lần như thể không thích thứ này, rồi lại chậm rãi chui vào ống trúc.

Mục Mộ cất ống trúc vào trong túi, đặt bát máu sang một bên và nói: “Muốn xử lý loại cổ trùng này cũng không quá khó, trước mắt có hai cách giải. Một là, tôi sẽ thả một con trùng khác mạnh hơn vào người con gái hai vị, để nó cắn nuốt con cổ trùng kia. Một khi cổ trùng trong người cô ấy bị nuốt chửng, người hạ cổ cũng sẽ bị cắn trả. Khi đó tôi dẫn trùng của mình ra ngoài là coi như đã giải độc xong. Hai là, phải tìm được người hạ cổ.”

Nghe vậy, vợ chồng Dư gia bỗng giật mình. Vốn đã có một con trùng, bây giờ lại thả thêm một con, liệu con gái bọn họ có chịu nổi không?

Bà Dư nói: “Lỡ như con trùng ngài đưa vào, đánh không lại con cổ trùng cũ thì sao?”

Mục Mộ liếc nhìn bọn họ, ánh mắt lạnh lùng còn lộ ra một chút kiêu ngạo: “Tôi dám nói những lời này, chứng tỏ con trùng của tôi phải mạnh hơn đối phương.”

Dư Hồng Bân nhẹ nhàng kéo vợ mình lại. Mấy người làm đạo sĩ thường rất kiêu ngạo, cũng khó khăn lắm mới tìm được một vị đại sư hiểu biết về thuật cổ trùng nên không thể đắc tội với anh ta được.

Thấy biểu hiện của hai vợ chồng Dư gia, Mục Mộc lại nói: “Con cổ trùng trong người con gái hai người đã được nuôi lớn bằng máu của kẻ hạ cổ. Nếu như có thể tìm được kẻ đó, hoặc lấy được máu của kẻ đó, thì càng dễ giải độc hơn.”

Nhắc tới việc tìm người, hai vợ chồng họ lại lộ vẻ lúng túng. Bọn họ đã điều tra hết tất cả những kẻ tình nghi một lượt, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa chút manh mối nào.

Dư Hồng Bân nói: “Vậy cách thứ nhất kia có nguy hiểm lắm không?”

Mục Mộ liếc nhìn bọn họ một cái: “Tất nhiên sẽ có nguy hiểm. Mặc dù tôi tin chắc rằng mình có thể giải quyết được con cổ trùng trong người cô bé. Nhưng khi hai con trùng đánh nhau trong cơ thể, có thể gây hại đến nội tạng và khí huyết trong người hay không, đều là những rủi ro khó báo trước. Tôi bảo đảm sẽ giải được cổ trùng cho các người, nhưng hai người nên nghĩ kỹ về hậu quả sau khi giải độc rồi hẵng quyết định.”

Khang Thời kéo Mục Mộ lại: “Thật sự không còn cách khác sao?”

Mục Mộ nói: “Cũng may các người còn mấy nén nhang giả chết, nên trong khoảng thời gian này con gái của hai người vẫn còn đang an toàn. Nếu như có thể giải độc sớm, đương nhiên sẽ ít tổn thương hơn. Ngoài ra, tôi có thể chỉ cho hai người một hướng đi đúng đắn, đó là người hạ cổ còn rất trẻ, bởi vì mùi máu trong người con cổ trùng kia còn rất tươi mới. Cũng vì cổ sư kia còn khá trẻ, có lẽ trình độ chưa cao nên uy lực của cổ trùng sẽ không lớn lắm. Bằng không với loại cổ trùng được nuôi lớn bằng máu người, rất có thể đã tra tấn người ta đến mức sống không bằng chết.”