Thuận Minh

Chương 431: Hỏa tốc sáu trăm dặm, đồng Nhật (1+2+3)




Một năm mới bắt đầu là múa xuân đặc biệt là đối với quan ngoại có cây công nghiệp một năm chỉ quen một quý mà nói càng là như thế. Nhiếp Chính Vương Mãn Thanh Đa Nhĩ Cổn phát động công kích lần này với Liêu Trấn, quy mô cũng không lớn, chỉ có hai nhóm Chính Bạch Kỳ và Tương Lam Kỳ do Đa Đạc suất lĩnh trùng sát.

Nhưng hiệu quả đạt được lại tốt ngoái dự đoán của mọi người, biên binh Liêu Trấn do tổng binh đoàn luyện Ninh Viễn (đoàn luyện: tổ chức vũ trang phản động thời xưa) - Ngô Tam Quế vứt lại một nửa địa bàn quan ngoại, cuối cùng xác định phòng tuyến hai bên là ở vùng dịch trạm ở Sa Hà, binh Liêu Trấn co đầu rút cổ ở phía sau Tiền Truân Vệ, Quảng Ninh, định hơi có chút biến động liền rút về quan nội.

Tử thương của hai bên cũng cực ít, tổn thương xuất hiện ở binh mã thủ hạ của Ngô Tam Quế phần lớn ở trong lúc rút lui không cẩn thận ngã bị thương, hễ là chạy không kịp, đều dứt khoát đầu hàng.

Lần này binh mã Mãn Thanh cũng không thảm sát gì, bởi vì phần lớn nhân khẩu tổn thất cũng cần những lao động Liêu Trấn này bổ sung. Cuộc chiến đấu thương vong nhân số cũng ít, nhưng lại chiếm lĩnh được địa bàn vài trăm dặm cứ như vậy kết thúc.

Nhiếp Chính Vương Đa Nhĩ Cổn vừa nhậm chức, liền suất lĩnh Bát Kỳ giành được đại thắng như thế, thật sự là đáng mừng, bọn hoàng thân quốc thích các kỳ đều được phân nhân khẩu đất đai trong trận chiến lần này, nên ác cảm với Nhiếp Chính Vương này, không khỏi giảm bớt rất nhiều, thật là một cục diện tất cả đều vui vẻ.

Nhưng ngày mùa sản xuất không thể trễ nải chiến đấu tới đây, bọn hoàng thân quốc thích Bát Kỳ biết nếu tiếp tục tiến hành chiến đấu, nhất định sẽ đạt được lợi ích lớn hơn, nhưng nếu chậm việc sản xuất nông nghiệp, vậy cả Mãn Thanh liền phải đói bụng, chỉ đành dựa theo bố trí trước khi chiến đấu, ở trạm Sa Hà bố trí phòng tuyến, thu binh trở về trung bộ Thịnh kinh.

Cuối tháng tư năm Sùng Trinh thứ 16, tin Ninh Viễn bị mất, phải lui giữ Tiền Truân Vệ Quảng Ninh truyền tới kinh thành, đối mặt với kết quả này. Sùng Trinh hoàng đế và bọn đại thần trong triều thậm chí không có tâm tình phẫn nộ, sau khi thương nghị ngắn ngủi. Sùng Trinh hoàng đế hạ chỉ, hời hợt nói: “Tề quốc công đề đốc quân vụ phủ Vĩnh Bình, với Kế Liêu là một thể, quan ngoại gặp cảnh nguy khốn. Tề quốc công nên xuất lực giải cứu”.

Việc Mãn Thanh nhập quan kinh thành cũng đã quen. Bây giờ vẫn chưa nhập quan, lại cạnh khu vực phòng thủ của Lý Mạnh ngươi, vậy thì tự mình giải quyết đi, nếu chiến đấu riêng lấy cứng chọi cứng với Mãn Thanh, đây là hai mối họa tranh chấp, bất kể bên nào bị hao tổn, triều đình cũng sẽ không cảm thấy khó xử, tấu chương này của Ngô Tam Quế lúc trình lên triều đình. Hoàng đế và chư vị đại thần có mừng thầm hay không thật đúng là khó nói.

Quốc gia đại nạn, đại bại mất đất này là một trong những đại nạn đó, ngày xưa lúc Mãn Thanh vào Liêu Trấn, lưu dân vào Trung Nguyên, mỗi khi có cướp, trong thiên hạ đều là tiếng thở dài, nhưng lần này phản ứng các nơi cũng không kịch liệt như vậy, trong lòng mọi người hình như đột nhiên có chút phấn chấn. Tề quốc công lần trước đã đại thắng. Nếu lại có vấn đề gì,chắc hẳn binh mã Sơn Đông vừa đến, mọi sự sẽ liền đại cát.

Thất vọng nhất trong chuyện này chính là Tổng binh đoàn luyện Ninh Viễn Ngô Tam Quế, sau khi phong thư thứ hai của Sơn Đông gửi tới, tâm tư riêng bên Liêu trấn đã không còn lớn nữa.

Mặc dù quan binh Liêu Trấn từ trên xuống dưới đều có điền sản gia nghiệp ở chỗ này, nhưng nếu binh mã Sơn Đông kia vọc tay xuống chỗ này, vậy mảnh đất Liêu trấn này, còn có thể dung nạp được bao nhiêu nhân khẩu binh mã chứ, hơn nữa lớp thế công vào năm Sùng Trinh thứ 16 này, áp súc không gian sinh tồn của binh Liêu Trấn thêm một bước, ý quan ngoại đã không còn lớn.

Trong tay Ngô Tam Quế có một chi quân lính ở Đại Minh có thể nói là cường quân. Mà trước mắt quan nội Đại Minh đang thiếu hụt binh mã có thể chiến đấu. Mượn cơ hội này, nếu có thể dẫn binh mã của mình nhập quan. Triều đình cũng sẽ chia cho một mảnh địa bàn, cho dù không cho, chỗ binh Liêu đóng quân, ở đó còn dám nói không sao?

Nhưng vào quan ngoại mất đất, còn có thể giải thích là hai bên có thắng có bại, nhưng nếu hoàn toàn buông bỏ quan ngoại rút binh Liêu tới quan nội, trách nhiệm mất đất này, cho dù là Sùng Trinh hoàng đế cũng không gánh vác được, thế cục trong thiên hạ vì điệu như vậy, hành động như vậy chẳng phải là khiến danh dự của triều đình càng thêm bại hoại khiến Lý Mạnh kia càng có được nhân tâm sao.

Ngô Tam Quế bất đắc dĩ cực kỳ chỉ đành phải buồn bực mà nán ở Tiền Truân Vệ Quảng Ninh, gã chỉ hận tại sao mình không làm được cục diện như Tề quốc công Sơn Đông kia, nếu không có mệnh lệnh của triều đình. Ngô Tam Quế tuỳ tiện lãnh binh nhập quan. Tổng binh Sơn Hải Quan Cao Đệ nhất định sẽ đóng cửa, bày trận địa sẵn sàng đón địch.

Mấy thủ hạ của mình sợ cũng sẽ trở mặt bất ngờ làm phản, đã không có danh phận đại nghĩa triều đình cho gã, ra lệnh cho bộ hạ phía dưới có thể có chút danh bất chính, ngôn bất thuận, nói trắng ra là Ngô Tam Quế cũng chẳng đánh được bao nhiêu trận thắng, cũng không có quyền uy có sức thuyết phục gì, còn bên Lý Mạnh thì lại đại thắng liên tục.

Triều đình không thể không phong hào cho Lý Mạnh, còn cho Tổng binh Ngô Tam Quế hàm thủ lĩnh, chỉ đơn giản là bổ nhiệm bình thường mà thôi, việc này đương nhiên là có ý nghĩa khác nhau rất lớn.

Lúc này, Ngô Tam Quế cũng đang hoài nghi mình có phải đã bị vứt bỏ ở quan ngoại không, địa bàn giữa Tiền Truân Vệ Quảng Ninh tới Sơn Hải Quan thật sự quá quanh co. Thát Tử Mãn Thanh nếu lại phát động thế công lần nữa, chỉ sợ mình muốn rút lui cũng chưa hẳn có thế tổ chức rút lui được thuận lợi. Hơn nữa địa bàn thiếu một mảnh, thì quân đội cần mình dùng tiền cấp dưỡng lại nhiều hơn rất nhiều, ngay cả mặt tiền tài quân nhu cũng quẫn bách. Ngô Tam Quế lúc này ngược lại mong Lý Mạnh có thể mau tới phủ Vĩnh Bình.

Dù sao cục diện trước mắt cũng đã như thế, chi bằng chờ Lý Mạnh kia tới, để bên mình có thể thả lỏng một chút, nghe nói Sơn Đông không chỉ có binh lính có thể chiến đấu, mà còn giàu bằng cả nước.

Cùng không biết lúc đối phương nhúng tay. Sơn Đông sẽ phải binh tới nhúng tay, hay chờ binh mã Tề quốc công Lý Mạnh ở Sơn Đông kia tới. Có điều binh mã Tề quốc công Lý Mạnh kia vẫn đang chuẩn bị từ từ.

Bên phủ Hà Gian khác với bên nam Trực Lệ, bên nam Trực Lệ có không ít đại tộc và thân sĩ thâm căn cố đế, địa phương và quan phủ, thậm chí là địa phương và lục lâm đều cấu kết lẫn nhau, các loại quan hệ phức tạp vô cùng, di chuyển phát động toàn bộ, chỉ có thể dùng cách hai bên hợp tác khai phá để làm.

Còn bên Bắc Trực Đãi này thì khác, sản nghiệp của đại địa chủ và chủ đại trang viên, trên cơ bản đều là sản nghiệp của hoàng thân quốc thích, bây giờ những người này nghe nói binh mã Tề quốc công Lý Mạnh tới, ai còn dám tiếp tục nán lại ở phủ Hà Gian, người khác có lẽ có thể thoả hiệp, đầu nhập vào Lý Mạnh Sơn Đông, nhưng lợi ích của những hoàng thân quốc thích này đều dính chặt với triều đình Đại Minh , một người tổn cả họ đều tổn, nên liền thành thế tử địch không thể đội trời chung với Tề quốc công Lý Mạnh.

Binh mã Sơn Đông tới, những người này đương nhiên là phải đi, vàng bạc tài bảo thì có thể đưa vào trong kinh thành, nhưng những điền sản trang viên kia tất nhiên là phải để lại.

Lại càng không cần phải nói thiệt hại vì binh mã Thát Tử do A Ba Thái suất lĩnh tạo thành ở phủ Hà Gian, rất nhiều bá tánh bình dân trôi dạt khắp nơi, cho nên phủ Hà Gian đối với binh mã Sơn Đông mà nói có thể nói là từng mảng lớn đất hoang và ruộng đất “vỏ chủ”.

Binh tai vừa qua rất nhiều bá tánh bình dân trung tiểu địa chủ trở về quên hương, lại đột nhiên phát hiện thổ địa mà bọn họ trồng trọt nhiều năm. Bây giờ đã biết thành “Đất hoang” và “Ruộng đất vô chủ”.

Nếu là đất hoang, vậy đồn điền điền trang Sơn Đông kia dĩ nhiên là phải tới quy hoạch, dựa theo phân chia địa vực phủ châu huyện để phân ra đồn điền điền trang lớn nhỏ, với những bá tánh bình dân kia mà nói. Muốn sống sót, phải trở thành hộ đồn điền của đồn điền điền trang Sơn Đông, mất đi thân thể tự do, trở thành bán nông nô.

Đó là một chính sách tàn khốc, vốn dân tự do bị tước đoạt tự do, trở thành bán tá điền bán nông hộ, lúc này phủ Hà Gian chỉ có khoảng ba nghìn binh mã, do Vương Thao suất lĩnh. Mà quân lính đến tiếp sau ở Sơn Đông còn đang cải biên chỉnh huấn, lỡ như xảy ra nhiễu loạn, vậy thì chính là đại phiền toái.

Binh mã do Vương Thao suất lĩnh bày trận chờ quân địch, mã quân của doanh trại quân đội phủ Tế Nam cũng đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần có hộ đồn điền làm loạn, vậy lập tức xuất binh trấn áp.

Chính sách đồn điền điền trang Sơn Đông, cho tới bây giờ đều không phải là chính sách từ thiện gì, chính sách này là để xây dựng một bố cục trong hệ thống thống trị ở Đại Minh , càng lợi dụng đất đai và nhân khẩu ở khu vực doanh Giao Châu thống trị có hiệu quả, làm hàng loạt chỉ nhằm mục tiêu cuối cùng là để lúc doanh Giao Châu tác chiến không thiếu quân lương, lúc huy động, không thiếu nguồn mộ lính, về phần đã cứu được rất nhiều lưu dân nạn dân, đây chẳng qua chỉ là sản phẩm phụ.

Cho nên đồn điền điền trang này ở Sơn Đông là chính sự có ích cho dân, ở Nam Trực Đãi thì chưa chắc là chính sự có ích cho dân, phần lớn ruộng đất của người sở hữu tiêu thổ bị tước đoạt, bá tánh bình dân nguyên bản, thậm chí là trung tiểu địa chủ hơi có tài sản, đều bị biến thành bán nông nô không còn tự do.

Người được lợi chỉ có tập đoàn quan quân Sơn Đông và bọn thương gia giàu có. Nhưng ngoài dự kiến của Sơn Đông chính là, chính sách như vậy không ngờ lại không có phản đối quá lớn.

Sau khi cẩn thận tra xét mới biết, Nam Trực Đãi mặc dù mùa màng rất tốt, lại coi như là thái bình, nhưng thôn tính đất đai cực kỳ nghiêm trọng. Phần lớn bá tánh bình dân đều làm tá điền, hoặc là thế chấp đất đai cho địa chủ quản lý thay, đối với những người này mà nói làm trâu làm ngựa cho địa chủ, chưa chắc đã có ấm no, nhưng làm trâu làm ngựa cho đồn điền điền trang của doanh Giao Châu, thì lại có thể có ấm no, so ra thì hình như không có gì khác nhau.

Mà hình như làm cho hộ đồn điền cho đồn điền điền trang càng có lợi hơn một chút, về phần những trung tiểu địa chủ có thân phận có điền sản kia, thì chính là bọn thân sĩ, nhân số bọn họ quá ít, căn bản không tạo nổi sóng gió gì.

Nhưng thiết lập đồn điền điền trang, cũng không phải là chuyện có thể tạo dựng nhanh chóng được, trước lúc đó, doanh Giao Châu cũng sẽ không tiến tiếp vào bắc nữa.

Đối với đất Giang Bắc nam Trực Lệ và phủ Hà Gian mà nói, tình huống phủ Vĩnh Bình cũng có chút đặc thù, mặc dù phủ Vĩnh Bình là tiền tuyến tiếp giáp Sơn Hải Quan, gần Liêu Trấn, nhưng sáu năm nay. Thát Lỗ luôn đột nhập ở những quan khẩu khác của Trường Thành, ngược lại tránh khối địa phương phủ Vĩnh Bình này.

Hơn nữa bên phủ Vĩnh Bình này ở thời Minh Thành Tổ, chính là chỗ quân trú quan trọng nhất Đại Minh , mặc dù binh mã đã điều động đại chiến Tùng Sơn, nhưng vẫn còn giữ lại chút căn cơ. Tổng đốc Kế Liêu Vương Vĩnh Cát, mặc dù cũng là xuất thân văn nhân, không có năng lực suất binh tác chiến gì, nhưng tốt xấu gì cũng không quản nhiều chuyện mà mình không biết, Tổng binh Sơn Hải Quan Cao Đệ tốt xấu gì cũng có thể dựa theo bước đi của mình tới tổ chức ở Kế trấn.

Kết quả phủ Vĩnh Bình được những người Đại Minh này tổ chức cũng coi như là có chút vững chắc, mặc dù binh mã kia cũng chỉ là quân lính không đáng nhắc tới, nhưng nếu đồn điền điền trang này muốn tiến vào, cũng không dễ như vậy.

Mộ phủ tướng quân doanh Giao Châu và nha môn các quân, đều có chung nhận thức, chính là nếu không có đồn điền điền trang, vậy đi ra ngoài tác chiến hậu cần sẽ không được bảo đảm hữu hiệu.

Lúc ở nam Trực Lệ, quân Hoài Dương do tham tướng Trần Lục suất lĩnh vì lương thảo tiếp tế chỉ có thể thông qua hệ thống đường thuỷ sông Hoài vận chuyển, hơn nữa còn là do những thương gia giàu có kia cung cấp cấp dưỡng, cho nên trận chiến này cũng vẫn luôn rụt tay rụt chân, không dám có động tác quá lớn gì.

Tiến vào phủ Vĩnh Bình tác chiến, so với quân Hoài Dương ở Phụng Dương thì Lý Mạnh ở Hà Gian lại có sự khác biệt, phía sau Phụng Dương có Vận Hà và sông Hoài có thể tiến hành vận chuyển đường thuỷ nhanh và tiện, ở bên phủ Hà Gian cách Sơn Đông rất gần, hơn nữa cũng có sự thuận tiện của Vận Hà, mà ở phủ Vĩnh Bình, thì lại không có đường thuỷ nào có thể dựa vào.

Nếu đồn điền điền trang không tiếp tục xây binh trạm kho hàng, quân lính tiến vào phủ Vĩnh Bình, chính là cô quân (quân đơn độc) triệt để, doanh Giao Châu không có hy vọng may mắn gì, thiết nghĩ quân lính Sơn Đông ở mộ phủ Tướng quân trấn đông, tiến vào phủ Vĩnh Bình, sẽ có một đoạn thời gian rất dài đồng thời đối mặt với bốn kẻ địch “Binh mã Kế Liêu của tổng binh Sơn Hải Quan Cao Đệ và tổng binh đoàn luyện Ninh Viễn Ngô Tam Quế, vũ trang địa chủ ở bản địa phủ Vĩnh Bình và phủ Thuận Thiên luồn vào, còn cả binh mã Thát Lỗ tùy thời có thể đột nhập quan nội, lại có phỉ đạo Mông Cổ từ phương Bắc xông vào”.

Để bảo đảm an toàn, quân lính doanh Giao Châu phải đợi sau khi đồn điền điền trang ở phủ Hà Gian chuẩn bị đầy đủ mới có thể tiến vào phủ Vĩnh Bình. Mà dựa theo đánh giá trước mắt, thời điểm đó cho dù như thế nào cũng phải đến nửa năm sau của Sùng Trinh thứ 16.

Từ ý nào đó mà nói, ý nghĩa khối hậu cần này với doanh Giao Châu, vượt qua bất cứ một chi quân đội nào trên cả đại lục Châu Á, mặc dù không thể so với Châu Âu, nhưng lực sát thương do hoả khí doanh Giao Châu phát ra lại chiếm tỉ trọng rất lớn, hỏa khí cần bảo dưỡng, hỏa dược cần chứa cất, vận chuyển trang bị hoả khí, đều cần rất nhiều dân phu tráng đinh, thậm chí sau khi xuất hiện thương vong lớn, quân đội hệ thống doanh Giao Châu còn phải điều động tráng đinh ở trong đội hộ trang của đồn điền điền trang để bổ sung.

Doanh Giao Châu trên thực tế vẫn luôn tác chiến ở nội tuyến, bọn họ không dám cách căn cứ của mình hoặc là đồn điền điền trang quá xa, cách quá xa, trung quân của chủ tướng liền không có sức Mạnh.

Có điều đây cũng có một chỗ tốt, đó chính là sự khuếch trương của binh mã Sơn Đông sẽ không vội công tiến bừa, mà là khuếch trương ra ngoài từng bước một. Mỗi khi lấy được một khối địa bàn, liền dùng đồn điền điền trang nắm giữ đa số nông dân, còn cả nguồn cung cấp thuế má chủ yếu ở trong tay.

Sau khi tiêu hóa sạch mảnh đất đó, lại tiếp tục khuếch trương ra ngoài. Tốc độ này ở trong mắt nhiều người không khỏi quá chậm, nhưng lại sẽ không có phản lật gì.

Ít nhất thân sĩ đại tộc ở chỗ đó sẽ không ở sau lưng kéo chân, trên thực tế, chuyện Lý Mạnh và Lý Tự Thành làm đều giống nhau, bọn họ đều dùng vũ lực hoặc là cách riêng của họ, đoạt lấy nhân khẩu và địa bàn thuộc về Đại Minh , dưới sự không chế của Đại Minh , biến thành của mình.

Nhưng địa bàn mà lưu tặc Lý sấm đánh hạ, tất nhiên là phần lớn lưu dân tự theo, nhưng cũng có địa chủ, thương gia giàu có kết trại tự bảo vệ mình. Liên hợp với nhau, dùng đội ngũ tráng đinh và hương binh đối kháng với quân đội lưu dân, ở Hà Nam và Hồ Quảng cũng không ít chỗ, quân thuận và những thế lực dân đoàn vũ trang này đan xen vào nhau, quân đội Lý Tự Thành vẫn luôn không thể điều động hết quân lính đi công kích kẻ địch, bởi vì dẹp yên phòng bị ở hậu phương đã chiếm rất nhiều lực lượng rồi.

Phải biết rằng cái gọi là “Quyền vua không xuống huyện”, ở ngoài huyện thành, chuyện ở chỗ này phần lớn là do những đại tộc hào môn quản hạt, thân sĩ ở những chỗ này có thể nói là người thống trị cơ sở, ích lợi hơi bị đụng chạm, vậy thì khiến ngươi xây trạm từng bước gặp khó khăn, dạng trở mặt với địch như Lý Tự Thành, đó chính là tử đấu mọi người đều chết.

Mà ở Sơn Đông, đồn điền điền trang trên thực tế trông thì cướp đoạt quyền sở hữu đất đai của rất nhiều đại tộc thân hào, ở Giang Băc Nam Trực Lệ, cũng tước đoạt phần lớn quyền sở hữu đất đai của rất nhiều đại địa chủ, nhưng ở Sơn Đông, muốn có chống đối gì, thì lại căn bản là chuyện không có khả năng.

Bước đầu tiên Lý Mạnh và Lý Tự Thành đều làm gần như nhau, dùng vũ lực có ưu thế tuyệt đối áp đảo và phá huỷ thế lực ở chỗ đó hoàn toàn, nhưng kế tiếp. Lý Tự Thành chỉ phân phối đất đai cho dân chúng bần cùng, nhưng Lý Mạnh thì lại hợp thành đồn điền điền trang, bá tánh bình dân có đất đai vẫn như cũ là một nhóm cát vụn, địa chủ vũ trang lúc giết trở lại, không có chút lực chống cự nào, còn đồn điền điền trang ở một ý nghĩa nào đó mà nói càng là một địa chủ lớn hơn.

Nhân lực “Đại địa chủ” này có thể huy động được cũng khá đầy đủ, có thể ở dưới quản chế bán quân sự tiến hành sản xuất càng có hiệu suất hơn, có thể có một chi đội ngũ dân đoàn bán quân sự hóa.

ở trước mặt lực lượng như vậy, những địa chủ thân hào có ý đồ riêng kia, muốn chống đối căn bản không có bất cứ ưu thế gì, chứ đừng nói chỉ là đồn điền điền trang thậm chí giảm rất nhiều trung tiểu địa chủ ở trong những điền trang này.

Mồng 3 tháng 5 năm Sùng Trinh thứ 16, một gã mang tin phong trần mệt mỏi, cưỡi khoái mã tiến vào kinh thành đầy chướng khí, kể từ sau khi phong thưởng Tề quốc công, xác địch phạm vi trấn thủ của Lý Mạnh. Thát Lỗ ở quan ngoại chẳng khác gì là giao cho Lý Mạnh đối phó, còn Hà Nam giao cho Lý Mạnh, chẳng khác gì là lưu tặc cũng là do Lý Mạnh tiếp nhận.

Không biết vì sao, kinh thành từ trên xuống dưới, kể cả Sùng Trinh hoàng đế ở bên trong, đều có cảm giác rất nhẹ nhõm, gánh nặng lớn - nạn lưu tặc Thát Lỗ - vốn đặt ở trong lòng, đều ném cho Tề quốc công Lý Mạnh này, mà trước mắt chuyện khiến kinh thành bận rộn chính là đối phó Lý Mạnh. Loại cảm xúc thoải mái này không riêng gì hoàng đế có, đại thần có, mà ngay cả binh sĩ dân chúng kinh thành, cũng đều có cảm xúc như vậy, trong lúc mơ hồ, không ngờ lại có chút không khí lúc thái bình, sinh ý của thanh lâu, lại càng thịnh vượng hơn...

Kinh thành là đất trọng yếu, dưới chân thiên tử, không phải ai cũng có thể phóng ngựa phi nhanh, nhưng người mang tin từ ngoài thành này lại không hề giảm tốc độ chút nào, người đi trên đường đều vội né tránh chửi bậy.

Nhưng cũng có một số dân chúng kinh thành lớn tuổi nhìn ra chút môn đạo. Nhận ra trang phục cờ hiệu trên người mang tin này, đây chính là hỏa tốc sáu trăm dặm từ nam Trực Lệ tới, cũng không biết đã xảy ra đại sự gì.

Người mang tin tức này quen đường phi nhanh tới trước của Binh bộ, “hỏa tốc sáu trăm dặm bên Nam Kinh tới”. Tên gác cửa sửng sốt đọc trên cờ nhỏ một tiếng, vội tiến ra đón. Người mang tin hiển nhiên là mệt mỏi cực kỳ, xoay người xuống ngựa thiếu chút ngựa ngã nhào, có điều vẫn giãy giụa chạy vào trong nha môn Binh bộ.

Thư hỏa tốc sáu trăm dặm, các bộ chỉ có cấp sự trung và Thượng thư, thị lang là có thể xem, bất cứ kẻ nào ngăn cản đều phạm tội mất đầu.

Thấy người mang tin kia được dìu đỡ của mấy tên vệ binh, lảo đảo chạy tới bên Thượng thư, chủ sự các phòng còn cả bọn viên ngoại đều đi ra nhìn. Bọn họ thật không nghĩ ra được sao cuối cùng còn có quân báo khẩn cấp như vậy chứ, trong lòng mọi người đột nhiên thót lên một cái.

“Chẳng lẽ Lý tặc Sơn Đông kia động thủ với Nam Kinh sao?”

Nhưng quan lại Binh bộ hơi có chút thường thức quân sự đều hiểu, nếu Lý Nhị Lang này hưng binh tạo phản, nơi tấn công đầu tiên nhất định là kinh thành, chứ không phải Nam Kinh.

Có điều chuyện này quả thật là khẩn cấp dị thường. Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Duy vừa mới hạ triều không lâu, không lâu sau liền từ trong nhà chính chạy ra, luôn miệng gọi kiệu. Gã muốn vào cung gặp vua.

So với sự sôi nổi nhốn nháo của đại lục, Nhật Bản do mộ phủ Tokugawa thống trị, các nơi liền có vẻ an bình hơn nhiều, bọn thuỷ thủ của đội tàu Trịnh gia đều đang tận tình hưởng lạc, còn Chu Kế Hải thì lại có ý định khác.

Chu Kế Hải từ cuộc dạo chơi hôm đó, liền an tâm trở về chỗ ờ, từ các nơi dò xét nói bóng nói gió khoáng sản đồng của Nhật Bản xảy ra vấn đề, thông dịch kia vốn cũng không thấy đây là chuyện gì lớn, cho nên vẫn trước sau như một, kể tất tần tật cho Chu Kế Hải nghe.

Hóa ra Nhật Bản xưa nay vốn dồi dào những kim loại màu như vàng bạc đồng, có điều kỹ thuật tinh luyện kim loại trước kia rất kém cỏi. Có rất nhiều mỏ giàu, nhưng sản xuất lại không được bao nhiêu, nhưng vào thời Chiến quốc Nhật Bản. Dần từ Trung Quốc vào cách thôi bụi, sản lượng vàng bạc tăng mạnh, cũng phần lớn chày vào Trung Quốc, đồng thời vì khai thác vàng bạc, cũng nhập khẩu lượng lớn thuỷ ngân từ Trung Quốc làm nguyên liệu, cho nên xuất khâu thuỷ ngân nhập khâu bạc trắng, cũng trở thành một nguồn chủ lực trong mậu địch giữa Minh và Nhật.

Nhưng Nhật Bản mặc dù ngồi trên núi vàng núi bạc, lại rất thiếu ngạch tiền tệ nhỏ như đồng tiền, thường ở ngạch rất lớn chỉ có thể dựa vào tiền trong mậu dịch nhập vào, cùng với chút tiền Minh để làm ngạch tiền nhỏ.

Đến thời Giang hộ, Tokugawa đoạt được thiên hạ, vốn vẫn dùng tiền Minh, kết quả lại gặp triều Minh làm số lượng tiền ít, hơn nữa chất lượng giảm xuống nghiêm trọng, dẫn đến ở trong nước Nhật cũng xuất ra tiền xấu rất nghiêm trọng, Nhật Bản rút kinh nghiệm xương máu, quyết định tự tạo tiền, vừa may Nhật Bản lúc ấy lại tiến cử cách nấu đồng tiên tiến trong “Thiên công khai vật” của Minh triều, sản lượng đồng tăng mạnh, càng thêm tiện để đúc tiền đồng. Lúc này chính là sau cuối triều Thiên hoàng Kanei ba năm. Kanei thông báo khai lò chế tạo, bởi vì quặng đồng của Nhật phong phú, hơn nữa đa số là mỏ giàu, cho nên ở mặt tiền đồng rất thoải mái, cái túi mà thông dịch kia đưa cho gã, chính là tiền đồng tỷ lệ đồng tám kẽm hai so với “tiền tốt” đồng sáu chì bốn của triều Đại Minh cũng tốt hơn rất nhiều, chứ đừng nói chỉ là tiền xấu của triều Đại Minh .

Có điều, xế chiều hôm đó. Chu Kế Hải lại bị kinh hãi lần nữa, gã cầm tiền đồng này, đến chủ lữ quân ở đó định mua chút nến, bà chủ cư xá kia dùng tiếng Phúc Kiến trọ trẹ nói:

“Tiên sinh, tiền này của ngươi là tiền kém nha, mua đồ ở chỗ của ta, phải chiết khẩu chín phần đó!”

Mới vừa nghe những lời này. Chu Kế Hải kinh ngạc phi thường, cúi đầu nhìn thử trên tay mình, đúng là tiền đồng tốt mà, tiền tốt như vậy, không ngờ cũng là tiền kém, vậy tiền tốt là như thế nào? Lại trông thấy bà chủ kia cầm tiền đồng màu đỏ đi ra ngoài nói:

“Tiên sinh, số tiền này mới là tiền đồng tốt, do đại quân tạo ra, tiền đồng ngươi đổi kia, là tiền do nhà Fuji Nagasaki tạo, không giống nhau”.

Chu Kế Hải cũng không mua nến nữa, mà đổi mấy chục tiền tốt, mang về nghiên cứu, hóa ra tiền do phía chính phủ Nhật Bản này đúc, đều dùng đồng đỏ để đúc, căn bản là không có thêm chì...

Triều Đại Minh đúc tiền vẫn rất ít, phía chính phủ tính tổng cộng cũng mấy trăm vạn quan, cộng thêm đúc tư, sản lượng cũng không tới số lẻ của triều Tống, hơn nữa phần lớn tiền đồng còn xuất khẩu cho Nhật Bản, khiến cho trong nước bây giờ dùng ít tiền Minh tăng lượng lưu thông tiền Tống, hơn nữa kể từ thời đại hàng hải, phần lớn bạc trắng chày vào tới nay, bạc rẻ đồng quý. Phía chính phủ đổi thu thế, là một nghìn đồng tiền đổi một lượng bạc trắng, nhưng nếu nấu chảy một nghìn đồng tiền, đúc ra vũ khí đồng, có thể bán đến gần hai lượng. Cho nên ở dưới tình huống khan hiếm tiền đồng, còn cả phần lớn tiền đồng không ngừng bị nấu chảy, càng khiến cho tiền đồng từng bước thiếu hụt, phía chính phủ đúc tiền những năm gần đây chất lượng lại càng thấp kém. Tiền kém trục xuất tiền tốt, lại càng tuần hoàn ác tính.

Nhật Bản trong lúc này, một lượng bạc ước chừng có thể đổi ra một nghìn hai trăm đồng tiền tốt, mỗi một đồng nặng gần gấp hai do Thiên Khải thông bảo, chính là hàm lượng đồng gần gấp ba. Cùng là một lượng bạc, mà ở Trung Quốc chỉ có thể đổi ra bảy trăm đồng tiền kém, trên thực tế chẳng khác gì là bạc trắng như thế ở Nhật có thể đổi đồng gấp năm lần!!

Chu Kế Hải tới từ Sơn Đông, tất nhiên biết rõ nhu cầu cực lớn của Sơn Đông đối với đồng, một khẩu pháo nặg 18 pound, cần số xâu tiền đồng, hơn nữa nhu cầu hỏa pháo tương lai, sẽ dùng cách nghìn để tính toán, sự khổng lồ của thị trường này không nói, bán qua chỗ doanh Giao Châu đồng khan hiếm, đạt được hảo cảm của Tề quốc công. Chỗ tốt cho không như vậy, thì càng không nên hạn chế.

Vừa rạng sáng ngày thứ hai Chu Kế Hải liền tìm một thông dịch khác, bảo gã dẫn đường đi tới chỗ “Nhà Fuji” này. Mấy hôm trước gã đã biết, ở Nhật bây giờ, sinh ý từ kinh doanh mỏ đồng, đúc tiền tư lớn nhất, chính là nhà này.

Nhà Fuji ở chi nhánh Nagasaki nhưng cũng không thấy, đây là một thương xã mới phát, mới chỉ có ba mươi năm lịch sử mà thôi. Hơn nữa không phải dạng loạn thể phát tài cuối Chiến quốc.

Dù sao, người sáng lập nhà Fuji Trụ Hữu Chính Hữu, cũng chỉ khoảng năm 1585 mới ra đời, ở lúc Sekigahara hợp chiến, Đông Chiếu Thần Quân nhà Tokugawa binh định loạn thế gã vẫn chỉ là một học đồ mà thôi.

Có điều, theo sự truyền nhập của “Thiên công khai vật” Đại Minh ,Trụ Hữu Chính Hữu là người học được nhanh nhất, cũng là người dám bỏ tiền vốn nhất, gã lập tức chấm dứt tất cả buôn bán của mình, dùng hết tiền mình có thể mượn được, được ăn cả ngã về không mà đốc toàn bộ lên việc nấu đồng, kết quả thật sự chứng minh gã đã đánh cuộc thắng.

Gã cũng không giống những thương gia giàu có khác đi làm ăn với mấy kho đại danh đại lý, hoặc là cho đại danh vay, bởi vì bọn đại doanh ở trong thời loại thế Chiến quốc, đã kết quan hệ chính phụ chặt chẽ với bọn thương gia giàu có kia, dù sao loại quan hệ mật thiết này, đối với thương gia giàu có mới phát như vậy thật khó nhúng tay vào.

Nhưng không có bè cánh ở mặt chính trị như vậy, lại ở trong loạn cục chính trị nước Nhật làm nên chuyện, thong dong phát triển.

Chu Kế Hải mang theo người, từ từ tới nhà Fuji, lúc này thương nhân triều Đại Minh ở Nhật Bản, đã rất giống người ngoại quốc ở trong nước thời hiện đại ai cũng cung kính, chính là người trên người.

Đã tới nhà Fuji, trên tấm bảng của cửa hàng này cũng là chữ Hán chân phương, thư pháp cũng không tệ. Chu Kế Hải trực tiếp vẻn rèm cửa treo nửa, đi vào, trong cửa hàng này cũng không có người khách nào, chỉ có mấy người khoanh chân ngồi ở trên giường, gẩy bàn tính lốc cốc, thông dịch tiến lên, nhỏ giọng hỏi:

“Xin hỏi có phải chường quỹ không? Hào thương Chu công của nước Minh cầu kiến”.

Mấy người gảy bàn tính kia, thấy người tiến vào liền ngẩng đầu, một người bên trong đứng lên nghênh tiếp:

“Tại hạ chính là chưởng quỹ bản điếm Tứ Ngũ Lang, vị khách nước Minh này, không biết muốn mua thứ gì?”

Chưởng quỹ này, khoảng chừng hơn bốn mươi tuổi, thoạt nhìn chính là một gã trung niên Nhật Bản điển hình, gầy nhỏ, mặt tươi cười, không ngừng cúi chào.

Chu Kế Hải thấy đối phương nhiệt tình như vậy, tất nhiên cũng không thể chậm trễ liên tục cúi người đáp lễ không ngừng, đợi tới khi hai bên đều cúi chào xong hết rồi mới nói:

“Tại hạ nghe nói nhà Fuji là nhà nấu đồng đệ nhất Nhật Bản, cho nên muốn đến mua chút đồng về nước”.

Hào thương Đại Minh ở nước Nhật chính là biểu tượng của tài phú, nhưng chỉ đến mua đồng thì lại hiếm thấy, đây chính là hàng hóa thô, vẫn luôn không được những thương nhân Đại Minh theo đuổi lợi nhuận cao coi trọng, nhưng y phục Chu Kế Hải mặc trên người cũng sang trọng, bộ dạng khí chất cũng không giống kẻ lừa đảo.

Mấy tên chưởng quầy ngồi ở trên giường đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng ánh mắt tập trung ở trên mình người lớn tuổi nhất kia, lúc này, người lớn tuổi nhất này đứng lên, nói:

“Khách nhân, tại hạ là ông chủ nơi đây,Trụ Hữu Chính Hữu, xin theo ta ra phía sau, thương nghị tỉ mỉ một chút”.

Sau đó nghiêng nửa người, đưa tay mời Chu Kế Hải tiến vào trong phòng, Chu Kế Hải đối với điều này có chút kinh ngạc, sao lại đúng dịp thế, không ngờ lần đầu gặp đã có thể thấy ông chủ đối phương, ví dụ như cửa hàng Linh Sơn và cửa hàng Bát Mân ở Sơn Đông hiện giờ, hai nhà này là thương nhân lớn trong thiên hạ, tầng cấp rất rõ ràng.

Muốn gặp được đại chưởng quỹ Khổng Hữu Đức hoặc là Hầu Sơn, vậy thì thật đúng là ngàn khó vạn khó, có điều nói lại, chưởng quỹ hai nhà này, cho dù là tri châu, tri huyện muốn gặp cũng cực khó.

Chu Kế Hải hiểu biết với Nhật Bản này cũng hơn nhân sĩ Đại Minh ở đất liền rất nhiều, biết ngọn nguồn giặc Nhật này thế nào cũng có mấy tỉnh lớn nhỏ của Đại Minh . Lẽ ra đồng thương đệ nhất Nhật Bản này, hơn nữa nhân vật tự luyện tiền đồng, nếu là ở Đại Minh , người đó chắc chắn là đại nhân vật giàu bằng cả nước. Sao ở Nhật Bản này, lại giống như một chưởng quỹ tầm thường vậy.

Đương nhiên, đây cũng là một trong những nguyên nhân nhà người ta sở dĩ có thể trở thành đồng thương đệ nhất Nhật Bản, cơ bản với bối cảnh phía chính phủ bằng không, tất nhiên cần cần cù một chút mới có thể có thành tựu hôm nay.

Có điều vẫn đi theo vào, chờ khách và chủ ngồi xuống. Trụ Hữu Chính Hữu mở miệng nói:

“Tại hạ kinh doanh luyện đồng làm ăn cũng đã mấy năm, ở trong nước Nhật, tại hạ dám bảo đảm, không có đồng thương nào tốt hơn nhà Fuji, không biết các hạ lần này muốn mua bao nhiêu đồng?”

Lời này vừa nói xong. Chu Kế Hải lại có chút giật mình, lẽ ra những thương gia lớn như vậy đều có chút dè dặt khôn ngoan, sao vị Trụ Hữu Chính Hữu này lại vội vàng như vậy, điều này cũng quả thật không trách Trụ Hữu Chính Hữu được, đó cũng không thuyết minh kỹ xảo buôn bán của gã không tốt. Chỉ có điều tiệm đồng này lần đầu tiên có thương nhân Đại Minh tới.

Hơn nữa thương nhân Đại Minh vượt biển mà đến, ai cũng không biết lần sau còn có thể liên hệ hay không, ai cũng không biết đối phương sẽ ở dị quốc thời gian bao lâu. Thấy Chu Kế Hải cũng thành tâm muốn mua, nên đơn giản đi thẳng vào vấn đề.

Đối phương thẳng thắn như vậy, ngược lại khiến Chu Kế Hải hơi trầm ngâm, sau đó mở miệng nói:

“Tại hạ là lần đầu tiên tới Nhật Bản mua bán, lần này chỉ định thử nước một chút, đại khái mua một cái thuyền là tốt rồi, nếu cuộc làm ăn này tốt. Sau này tất nhiên là càng nhiều càng tốt”.

Ngày đó, nhân vật tinh anh Nhật Bản, tất nhiên là biết nói tiếng Hán, biết chữ Hán, đặc biệt là những thương nhân vùng duyên hài này. Nghe được lời đối phương nói con mắt Trụ Hữu Chính Hữu chớp chớp, chỉ mấy câu ngắn ngủi, gã đã thấy cơ hội ở ngay trước mắt, tinh quang chợt loé, cười ha hả nói:

“Thật là may mắn, đại khái có thể đặt ba mươi vạn cân Minh, tương đương khoảng hai vạn năm năm nghìn lượng bạc Minh, không biết khách nhân định trả tiền như thế nào, khi nào thì đặt lên thuyền?”

Chu Kế Hải suy nghĩ một chút nói:

“Lần này mọi người là lần đầu tiên giao dịch, vẫn nên giao dịch tiền mặt đi, ở chỗ của ta có tiền giấy do Trịnh gia Phúc Kiến phát hành, có thể sử dụng ở Nagasaki Hàng Châu. Minh Châu. Phúc Kiến, không biết có thể dùng không?”

Buôn bán của Trịnh gia ở chỗ Nagasaki này đông đảo, cho nên hằng ngày tiền trả thương là tiền giấy chứ không phải trực tiếp cấp lá bạc, dù sao mọi người cũng không thể mang theo hơn mấy chục nhân lực lưng đeo vàng bạc. Trịnh gia ở trong mắt thương nhân Nhật Bản và mộ phủ Nhật Bản chính là quái vật vô cùng khổng lồ, lực lượng của nó, chữ tín của nó, tài phú của nó đều không để cho người ta hoài nghi, tiền giấy của Trịnh gia, vậy độ đáng tin thậm chí so với Mộ phủ còn hơn.

Trụ Hữu Chính Hữu thấy là tiền giấy Trịnh gia, lập tức vui vẻ đáp ứng, hai bên đến hiệu buôn Trịnh gia ở bản địa. Chu Kế Hải lấy ra tiền giấy hai nghìn năm trăm lượng, người Trịnh gia tra xé danh sách. Chu gia mặc dù là thương nhân loại hai ba của Sơn Đông, nhưng danh dự của chư vị thương nhân ở Sơn Đông đều tốt, lần này còn ngồi thuyền Trịnh gia, cũng không có lo lắng gì. Tra xét thêm chút nữa, liền đóng dấu, xác nhận của Trịnh gia, khiến Trụ Hữu Chính Hữu càng thêm tín nhiệm Chu Kế Hải.

Nếu hai bên đều không có nghi vấn gì, lại có tiền thật. Trụ Hữu Chính Hữu nhận lấy tiền đặt cọc. Chu Kế Hải cũng dùng lời lẽ uyển chuyển từ chối lời mời tha thiết của Trụ Hữu, gã bây giờ chỉ muốn bình tĩnh, sợ mình lỡ như thất thố. Trụ Hữu Chính Hữu cũng không miễn cưỡng, bên gã phải đi về vội triệu tập nguồn cung cấp.

Chu Kế Hải vội vội vàng vàng chạy về chỗ đội tàu Trịnh gia nghỉ chân, tìm tới đầu thuyền phụ trách sinh ý lần này, muốn bao khoang thuyền lúc về, mọi người tới Nhật Bản này cũng là vì phát tài, vừa nghe muốn bao khoang thuyền, chắc là có hàng hóa kiếm tiền, hiểu kỳ hỏi thăm, chưởng quỹ kia nghe nói gã muốn mua chính là đồng, không khỏi cười nhạo nói:

“Nhật Bản này, thứ gì cũng có lợi nhuận mấy lần, hậu sinh ngươi cần gì mua thứ đồng không đáng tiền này để chiếm kho chứ”.

Chu Kế Hải cũng đã đi làm ăn lâu năm, cũng không thèm để ý tới gã, chỉ nói:

“Dù sao đá sát khoang thuyền dưới mồi thuyền lớn của ngươi, cũng chỉ mười vạn cân, ta liền dùng ba mươi nghìn cân đồng này, đôi ba mươi nghìn cân đá buôn của ngươi chẳng phải là được sao, loại như đao Nhật của ngươi cũng không dám đặt ở trong khoang đáy, những kho để hàng hóa chuyên chở sát khoang thuyền, chi bằng cứ để cho ta, phí chuyên chở này, ta liền cấp riêng cho ngươi, Chẳng phải là sướng sao”.

Đầu thuyền thấy gã nói rõ thế, ai cũng sẽ chẳng gây khó dễ kiếm tiền, đương nhiên không muốn bỏ qua cho tiền tài tới tay, trực tiếp đồng ý với Chu Kế Hải, thu gã phí chuyên chờ một vạn lượng. Có điều tiền Chu Kế Hải mang trên người vốn chỉ chưa tới hai vạn, tiền cho phí chuyên chở thì không đủ mua hàng hóa, đành phải dựa theo quy củ, tìm người bảo đảm với đầu thuyền Trịnh gia, tự mình viết một tờ thiếu nợ, dùng lợi tức ba phần, vay từ Trịnh gia một vạn năm nghìn lượng.

Vụ này thật ra là đầu thuỵền này và chưởng quỹ thương quân địa phương lén làm, tự khai ra mấy tờ phiếu, mình liền kiếm được bốn nghìn năm trăm lượng.

Kiếm được tiền rồi, hai người kia còn lén cười Chu Kế Hải này là một kẻ ngốc, đáng bồi cái táng gia bại sàn...

Có câu tục ngữ: Người cười tới cuối cùng, là cười sướng nhất.