Đại thiếu gia Đông Thận Chi mặc một kiện áo màu xanh ngọc, trên vạt áo có thêu hàng trúc xanh thẳng tắp, dáng người cao ngất, lông mày dài đến tóc mai, bờ môi nở nang, tạo cho người ta một ấn tượng như đây là lão phu tử lúc còn trẻ. Không thể không nói, ngoại trừ Đại tiểu thư, chất lượng dạy dỗ con cái của Đại thái thái đặc biệt cao.
Đại thiếu gia hành lễ với di thái thái: “Gặp qua dì”, lại xoay người sang bái kiến Đại thái thái, rồi nhìn về phía Từ Thiên Thanh: “Mấy cuốn sách biểu đệ nhắc tới trong thư hiện đã để trong thư phòng. Ngày mai, biểu đệ có thể trực tiếp đến thư phòng lấy.”
Từ Thiên Thanh vái chào thật sâu, có thể thấy được hắn thật thích vị biểu ca đang làm thứ cát sĩ đầy tài hoa nhưng hơi có chút cứng nhắc này: “Đa tạ biểu ca, mấy cuốn sách kia đệ tìm lâu rồi nhưng không thấy, chỉ có thể làm phiền biểu ca.”
Đông Thận Chi gật gật đầu nói câu không cần khách khí, xoay người kiến lễ cùng mấy muội muội, trực tiếp ngồi xuống chiếc ghế gỗ lim đỏ trăm tuổi có tay vịn mà Tử Sai đã đặt sẵn cho hắn, tiếp nhận trà uống một ngụm, lại không nói thêm gì.
Trên khuôn mặt di thái thái tràn đầy ý cười: “Mấy năm không gặp, Thận Chi càng thêm chín chắn rồi.”
“Chín chắn gì chứ, tuổi còn nhỏ mà lúc nào cũng nghiêm mặt.” Đại thái thái nhìn như đang phàn nàn, trên mặt lại lộ ra kiêu ngạo, thoáng nghĩ đến hôn sự của hắn, sắc mặt lại tối sầm vài phần.
Ánh mắt Tích Thu chỉ nhìn vào Thất thiếu gia. Hôm nay y mặc một chiếc áo màu thiên thanh nhỏ thêu chữ phúc bằng chỉ vàng, búi một búi tóc nhỏ, cài một cây trâm bằng trúc, thân hình nho nhỏ đứng thẳng tắp.
Nàng hơi kinh ngạc, rồi lại cảm thấy vui mừng, Đông Mẫn Chi sang năm sau sẽ học vỡ lòng. Nàng vốn tưởng rằng y ra ngoài không biết thu lại tính tình nên ngày nào cũng phái người đi hỏi thăm. Không nghĩ tới sau một tháng ngắn ngủn, y lại tiến bộ nhiều như vậy.
“Gặp qua dì, mẫu thân, biểu ca cùng các tỷ tỷ.” Đôi tay nhỏ bé mũm mĩm của Đông Mẫn Chi ôm quyền, khuôn mặt phấn điêu ngọc trác, khóe miệng lúm đồng tiền trông nghịch ngợm hoạt bát, giọng nói cũng rõ ràng, giòn vang chọc người yêu thích.
Đại thái thái gật đầu, chuyển ánh mắt sang nhìn Đại thiếu gia, bộ dạng nhìn nhiều thêm chút cũng không nguyện ý.
Di thái thái kinh ngạc nhìn Đại thái thái, ngay sau đó lôi kéo Đông Mẫn Chi hỏi: “Đứa nhỏ này lớn lên cũng thật ngoan. Hiện giờ đã đọc sách gì rồi?”
Đông Mẫn Chi ngước khuôn mặt tươi cười lên, đáp không tự ti không kiêu ngạo: “Thưa dì, tiên sinh hôm nay bắt đầu dạy ‘Thiên Tự văn’, ôn tập ‘Tam Tự kinh’.”
Đông Tích Thu hiểu ý nở nụ cười, ánh mắt dịu dàng nhìn Đông Mẫn Chi. Ánh đèn cung đình màu vàng ấm áp hắt lên người nàng làm nổi bật làn da trắng nõn, sáng bóng, tươi đẹp giống như đóa hoa bạch trà nở rộ trong cùng cốc thâm sâu, bất kể gió táp mưa sa, thế sự khó lường, trong mắt nàng chỉ hiện lên cảnh sắc này.
Từ Thiên Thanh ngẩn ra, trong lòng dường như có chút hụt hẫng, càng thêm mất mát.
“Tốt, tốt lắm, nên chăm chỉ chút, cũng sẽ không phụ sự kỳ vọng của phụ thân đối với con.” Di thái thái lại sờ sờ đầu Đông Mẫn Chi, thưởng lễ gặp mặt, là một bộ bút mực của Hồ Châu.
Đông Mẫn Chi ôm ngay vào ngực, nhìn cực kỳ vui mừng.
Cuối cùng vẫn chỉ là một hài tử 6 tuổi! Tích Thu thầm lắc đầu, trên mặt lại cười nói: “Dì chớ có khen đệ ấy. Đệ ấy nghịch như con khỉ con, Đại lão gia chính là thấy đệ ấy nghịch không biết đâu mà lần nên mới mời tiên sinh uốn nắn. Nếu không có mẫu thân sai người ngày ngày đốc thúc, không biết hiện giờ đệ ấy còn nghịch cỡ nào. Chính vì vậy nên ngày nào cũng bị tiên sinh mắng. Nữ nhi nghe người trong phủ nói, Đại ca từ khi mới ba tuổi đã đọc ngược Tam Tự kinh làu làu. Hiện giờ, những tiên sinh kèm cặp đó còn lấy Đại ca làm tấm gương để dạy dỗ học trò.”
Những lời này ý tứ chính là, Đại thiếu gia rất lợi hại, rất thông minh, là một thiên tài, tài đức sáng suốt trong mắt người ngoài, Đông Mẫn Chi chỉ là bùn loãng không trát được tường, nếu không có đích mẫu như Đại thái thái ban ơn, tương lai chính là một phế nhân.
Quả nhiên, Đại thái thái có chút kiêu ngạo nhìn về phía Đại thiếu gia, đáng tiếc người kia vẫn một bộ dáng chỉnh tề như cũ, chuyên tâm uống trà, không một chút cảm xúc gì khác.
Phòng ma ma đúng lúc xuất hiện: “Thái thái, dọn cơm ở đâu ạ?”
Đề tài đang sôi nổi, Đại thái thái thay đổi gương mặt tươi cười: “Cũng đừng chuyển tới chuyển lui phiền toái, liền dọn ở đây đi.”
Mấy nha hoàn bày một cái bàn đá cẩm thạch chạm trổ hoa lê ở góc Tây trong phòng, lại bày đầy đủ chén đũa, ghế dựa. Đại thái thái miễn thỉnh an cho mấy di nương, lại lên tiếng không cần các thứ nữ hầu hạ dùng bữa, chín người cùng ngồi xuống quanh bàn ăn. Đông gia gia giáo nghiêm khắc quy định lúc ăn và ngủ không nói, trong lúc nhất thời chỉ nghe được tiếng va chạm nhẹ của đĩa sứ.
Chỉ có Tích Thu ăn có chút mất tự nhiên, nàng vừa âm thầm quan sát Đông Mẫn Chi, vừa cố gắng lờ đi ánh mắt nóng rực nhìn nàng của Từ Thiên Thanh ngồi phía đối diện, thật vất vả vừa ăn cơm lại cùng uống trà, cuối cùng cũng ra khỏi Trí Oái uyển.
“Lục tỷ tỷ.” Ngoại viện nơi các thiếu gia ở và chỗ của Tích Thu là hai hướng khác nhau. Ở khúc cua của hành lang, Đông Mẫn Chi rốt cuộc tìm được cơ hội nói một câu với Tích Thu: “Tỷ tỷ, di nương gần đây khỏe không, tỷ có khỏe không?”
Tích Thu nhìn xung quanh, thấy không có người lại đây, lại đưa mắt ra hiệu với Tư Hạnh, để nàng đi về phía cửa trước canh chừng, mới yên tâm nói chuyện: “Tỷ và di nương đều khỏe, đệ thế nào?”
Không có người ngoài ở đây, Đông Mẫn Chi rốt cuộc khôi phục bộ dáng hoạt bát, nghịch ngợm, kéo tay tỷ tỷ, ngẩng khuôn mặt nhỏ nhắn trắng nõn lấy lòng nói: “Hôm qua tiên sinh khen đệ chăm chỉ.”
“Thật sao? Thất thiếu gia của chúng ta thật lợi hại!” Tích Thu xoa đầu Đông Mẫn Chi. Lúc trước, khi y dọn ra khỏi nội viện bị Đại thái thái nuôi dưỡng vô pháp vô thiên, nàng đã phải nỗ lực thật nhiều, dụ y đọc sách, viết chữ mới ngoan được một chút. Hiện tại, y có thể trở nên hiểu chuyện như vậy khiến nàng thật vui mừng.
“Thật mà! Tiên sinh còn nói đệ phải cố gắng đọc sách, qua hai năm nữa xem kết quả như thế nào.” Đông Mẫn Chi đầy mặt hưng phấn, nóng lòng muốn thử.
Tích Thu kinh ngạc, bỗng nhiên rất muốn tìm hiểu vị tiên sinh mới đến này, kiểu tiên sinh tìm mục tiêu tương đối phù hợp cho học trò, đồng thời hành động rất thực tế nỗ lực hướng về mục tiêu, không giống những tiên sinh cổ hủ, rõ ràng đọc sách vì công danh lợi lộc lại cố tình đội mũ hô to đại nghĩa vì nước vì dân, làm tiểu hài tử dù đọc thuộc hết sách lại mất đi cảm giác thành tựu sau khi đạt được mục tiêu.
Tuy rằng biết không nắm chắc chút nào, Tích Thu vẫn rất vui mừng, gật đầu nói: “Vậy đệ cũng không thể phụ lòng kỳ vọng của tiên sinh, nỗ lực đọc sách.”
Đông Mẫn Chi nghiêm túc gật đầu, lộ ra một bộ dạng trịnh trọng: “Đệ nhất định phải đạt được công danh giống như Đại ca, để cho tỷ tỷ cùng di nương sống thật tốt.”
Hốc mắt Tích Thu ửng đỏ. Nếu nói sau khi chuyển thế, nàng sống không được thuận tiện và tự do như kiếp trước, nhưng vốn là một cô nhi nàng lại có được tình thân quý giá, khiến nàng lần đầu tiên sinh ra cảm giác lưu luyến: “Tốt lắm, tỷ cùng di nương chờ đệ.”
Đông Mẫn Chi gật đầu, lại kể vài chuyện thú vị ở học đường, nháy mắt nói: “Tỷ tỷ, ngày mai, đệ cùng tiên sinh đi ngoại ô đạp thanh*. Tỷ thích gì, đệ mua về cho tỷ.”
“Tỷ không cần gì, chỉ là đệ phải chú ý an toàn, phải giúp cầm tay nải cho tiên sinh, phải biết hiếu kính tiên sinh.”
“Đệ nhớ rõ!”
Tích Thu nhìn thấy phía cửa Trí Oái uyển có bóng người di chuyển, liền giúp Đông Mẫn Chi sửa lại y phục: “Đệ mau trở về đi thôi, có chuyện gì nhớ rõ thương lượng cùng tỷ và di nương, tuyệt đối không thể ngang bướng như trước kia.”
Đông Mẫn Chi khẽ gật đầu, cất bước đi về ngoại viện.
Tư Hạnh vội chạy trở lại, đỡ Tích Thu đi về. Tích Thu có chút không yên tâm về Đông Mẫn Chi, dặn dò: “Sáng sớm mai em mang hai lượng bạc đưa cho Thất thiếu gia, lại chuẩn bị ít điểm tâm cho y, để ý xem người hầu hạ bên cạnh y thế nào.”
Tư Hạnh gật đầu ghi nhớ.
Xuân Nhạn cầm theo đèn lồng đứng chờ ở cửa thuỳ hoa, nhìn thấy các nàng lập tức bước nhanh tới, vẻ mặt có chút ngưng trọng.
Tích Thu thầm đoán được bảy tám phần, không lộ chút sắc mặt: “Trở về rồi nói.”
Chú thích:
*Đạp thanh: đi chơi tiết Thanh Minh