Màn đêm mỗi lúc một thăm thẳm, rượu mang bên mình cũng đã vơi, nhưng Tương Thanh không hề thấy buồn ngủ, chỉ ngồi tựa vào gốc cây khô, nhìn lửa bập bùng. Mọi âm thanh vọng lại từ bốn phía đều trở nên cô tịch. Có lẽ chuyện hay nhất ở sa mạc là không hề có bất kì tiếng côn trùng nào rả rích xáo động. Tương Thanh đưa tay lấy mảnh ngọc bội đeo trên cổ ra nhìn. Mảnh ngọc có chút hơi ấm, có thể là do y đã đeo bên người một thời gian dài. Thân ngọc tuyền một màu trắng đục, góc trái có một điểm nhỏ đỏ tựa máu đào, ở giữa là chữ “Thịnh”, vô cùng đơn giản.
Mảnh ngọc này vốn thuộc về Ngao Thịnh. Khi hắn còn là thái tử thì ngẫu nhiên được ban tặng. Nguyên bản nó lớn gấp đôi bây giờ, là một khối toàn vẹn có tên ngọc Uyên Ương, vì thân ngọc một nửa xanh, một nửa trắng, hai bên trái phải có điểm một mắt đỏ nên được gọi là uyên ương, vốn là vật trân bảo vô giá. Nhớ rõ năm ấy là sinh nhật của Ngao Thịnh, hắn mang ngọc tặng y, y không nhận. Ngao Thịnh khi đó còn nhỏ, thấy Tương Thanh chẳng bằng lòng đón lấy bèn nóng nảy đập vỡ ngọc.
Nghĩ đến đây, Tương Thanh cười khổ, khe khẽ lắc đầu, chớp mắt đã rời đi hoàng cung được ba năm, Ngao Thịnh cũng đã hai mươi tuổi, để làm một vị hoàng đế thì đúng là còn trẻ thật.
Sau chuyện đó, y nhặt khối ngọc vỡ kia lên, mang ra một cửa hàng ngọc khí, cho người ta tạc thành hai mảnh nhỏ, phần màu xanh khắc chữ “Thanh”, còn màu trắng thì khắc chữ “Thịnh”.
Tương Thanh đem ngọc đến cho Ngao Thịnh, để mỗi người giữ một mảnh, Ngao Thịnh lúc này mới không còn hờn giận, bất quá mảnh ngọc khắc chữ “Thanh” kia nên là của y, vậy mà hắn lại mặt dày đoạt đi, và buộc y phải đeo miếng có chữ “Thịnh” trên cổ.
Khi cầm lấy túi rượu thì chợt thấy bên trong đã hết sạch, Tương Thanh nhìn trời, thời gian cũng đã quá nửa đêm, gió sa mạc thổi qua, rất lạnh. Nghĩ một chốc y liền đứng lên, thu dọn đồ đạc, dẫu sao quay về khách điếm vẫn hơn. Lúc này, một con gió từ sâu trong đại mạc lại thổi đến…nhẹ nhàng lướt qua mặt.
Tương Thanh khẽ nhíu mày, mang theo trong gió là mùi máu tươi.
Khuất sâu trong đại mạc, sao lại có mùi máu tươi truyền đến? Hơn nữa theo kinh nghiệm của Tương Thanh, mùi máu có thể bị gió cuốn đi xa như vậy, khẳng định không phải chỉ là một hai cỗ thi thể.
Tương Thanh nhanh chóng dập tắt lửa, nhảy lên ngựa, đi lần theo mùi máu tàng trong gió. Ngựa chạy đi khoảng một nén nhang, Tương Thanh lại nhíu mày, vì mùi máu này có chút quái dị, ngửi kĩ thì không hoàn toàn giống với máu người.
Phía trước cách đó không xa là một dốc núi cao, Tương Thanh nghe thấy một vài âm tất tất tác tác. Thấy ngựa vẫn bình tĩnh, y nghĩ thầm đây hẳn không phải là thú dữ. Y đến trước dốc núi, phía sau là bồn địa đang nhấp nháy ánh lửa, đoán chắc bên ấy có người nên bèn xoay người xuống ngựa. Tương Thanh đi lên đỉnh dốc, nghiêng tai nghe ngóng, quả thật vọng ra tiếng người. Cẩn thận quan sát thì thấy bên trong có rất nhiều người. Tương Thanh nhíu mày, hơn nửa đêm, trong bồn địa sa mạc hoang vắng, cớ gì lại tụ tập quá nhiều người? Đang tự vấn, đột nhiên lại nghe hai tiếng “sưu sưu” vang lên.
Tương Thanh ngẩng đầu, chỉ thấy sâu trong bồn địa, hai chùm pháo hoa được bắn lên, nháy mắt đã xé gió lao đi rồi mất hút ở phía chân trời. Tương Thanh nhận ra đó là tên lệnh thường dùng ở Tây Vực…Lên tới giữa không trung sẽ vỡ ra, chiếu sáng bốn phía.
Quả nhiên lại nghe thấy tiếng “ba ba” giòn vang, khói lửa tung tóe, đốm lửa lan rộng, cùng lúc đó, bên trong bồn địa truyền đến từng đợt kèn lệnh.
Những tiếng kèn dài, trầm thấp thế này Tương Thanh đã từng nghe qua. Đó gọi là “Khâm”[1], một loại pháp khí thổi ra tiếng, được xem như một chiếc kèn to có miệng lớn. Trước kia khi theo Tư Đồ cùng nhau trốn chạy, y đã từng thấy một nhóm đạt ma đại sư thổi trong ngày hội chùa. Sao nơi đây cũng có loại âm thanh này?
Tương Thanh cẩn thận bước gần đến để thăm dò. Lúc nhìn vào bồn địa, y chỉ biết ngây ra. Cảnh tượng bên trong quả thật dọa người.
Bên trong đầy những người là người, tất cả đều vận y phục trắng, đội khăn trùm đầu. Những người xếp thành hàng ở hai bên thì thổi khâm, phần giữa đứng hơn mấy trăm người, ai cũng ôm một con rắn. Trên thân rắn bôi một lớp chất dính đen sậm, rắn được vắt ngang qua vai mỗi người, tùy thích uốn éo thân mình bóng lưỡng. Phía trước đoàn người là thần đàn, một hắc y nhân đứng trên ấy, đội khăn trùm đầu màu đen và đặc biệt bế trên tay một con rắn khổng lồ. Tương Thanh đoán chừng con rắn kia phải dài ít nhất hai ba trượng, miệng há rộng, trông rất ghê rợn. Rắn không ngừng vặn vẹo, còn hắc y nhân kia tuy bị vải đen trùm phủ nhưng mắt miệng tay chân đều có thể động đậy. Hắn hé răng, cắn phập xuống đầu rắn, hút một ngụm máu, sau lại rùng mình, bày ra các vũ bước quái dị, miệng không ngừng lẩm bẩm. Dưới thần đàn, nhóm người vận áo chùng trắng cũng làm tương tự, tựa như đang thực hiện một nghi lễ nào đấy. Nếu ban ngày nhìn thấy cảnh tượng này sẽ nghĩ nó rất buồn cười nhưng bấy giờ đang là đêm khuya thanh vắng, sâu trong hoang mạc, cộng thêm mùi máu tươi, thật sự quỷ dị nói không nên lời.
Tương Thanh nhìn chốc lát, chợt nhớ lại những tà môn dị phái trên giang hồ, chưa từng thấy qua nhóm người nào lại ăn mặc kì lạ như vậy.
Nhóm người bên dưới ca múa một trậm ầm ỉ, rắn quấn trên người đã chết, bị ném sang một bên, sau đó hắc y nhân kia lại nói gì đấy, Tương Thanh cẩn thận lắng nghe mới rõ nhóm người này không phải là người Hán mà là dị tộc. Bên trong đại mạc tồn tại không ít tiểu tộc, có thói quen quái dị, Tương Thanh tuy không hiểu nghi thức này là gì nhưng lại nghĩ chúng không lên quan đến mình. Vừa lúc xoay người định rời đi thì bỗng nghe hắc y nhân phía sau hô to: “Thịnh Thanh diệt vong!”
Những người dưới thần đàn cũng cất cao giọng lặp lại: “Thịnh Thanh diệt vong….”
Tuy rằng lời nói lọng ngọng, nhưng quả thật là tiếng Hán, Tương Thanh cũng rành mạch nghe được bốn tiếng này, chẳng lẽ dị tộc muốn làm phản?
Tương Thanh quyết định lưu lại, xem thử đến tột cùng chúng đang mưu đồ gì, nhưng phía sau, ngựa của y lại bị bò cạp cắn, kinh sợ hí vang.
Tương Thanh sửng sốt, nhóm người bên dưới bỗng lặng hẳn đi, lại nghe tên hắc y nhân kia lầm bầm vài tiếng. Bất chợt cảm thấy có tia sát khí truyền vào trong gió, y vội kéo lại khăn che mặt, nhảy khỏi đỉnh dốc, nhưng hắc y nhân kia đã phi thân bay qua khỏi dốc cao, khai triển song chưởng tựa như một con hắc điểu lao đến y.
Nhác thấy công phu người này không tồi, Tương Thanh định nghiêng người né tránh, nhưng lại muốn thử xem tên hắc y nhân thuộc môn phái nào nên y vội tiếp chiêu nghênh chiến.
Hắc y nhân nương theo ánh trăng cùng đóm lửa chưa dập để nhìn rõ Tương Thanh hơn, phát hiện y là người Hán, hơn nữa thân thủ cũng khá, liền thu chưởng thối lui từng bước, nhìn Tương Thanh: “Ngươi là ai?”
Tương Thanh nghe hắn nói tiếng Hán khá chuẩn, có chút khàn, hắn như cố tình dùng không đúng giọng của mình nhằm che đậy chuyện gì khác. Bên cạnh đó, công phu của hắn kỳ dị, không phải võ công Trung Nguyên. Vùng Tây Vực này người có thể nói chuẩn tiếng Hán, đương nhiên là người thường xuyên tham gia vào sinh hoạt của khu người Hán, người này đã có tâm phản loạn, tất có thân phận nào đó.
Nghe hắc y nhân kia hỏi, Tương Thanh thầm nghĩ cách đáp trả, khôn khéo đáp: “Là người biết rõ thân phận của ngươi.”
Hắc y nhân rõ ràng chấn động, Tương Thanh nhíu mày, nghĩ rồi nói tiếp: “Thân phận hai mang của ngươi, những gì ngươi bí mật làm, ta đều rõ.”
Nghe Tương Thanh nói, hắc y nhân liền cau mày đánh giá Tương Thanh rồi cười lạnh: “Thật ra ngươi là ai?”
Tương Thanh thấy bộ dáng bình tĩnh của hắn, đành đánh cuộc một phen: “Hắn nói rất đúng, ngươi quả nhiên là phản tặc!”
“Hắn?” Hắc y nhân di chuyển, âm thầm rút đao sau lưng, lạnh lùng nói: “Thật ra ngươi do ai phái tới?”
Tương Thanh lui ra sau từng bước, y đã nghe thấy tiếng chân người đang đi lên từ dưới bồn địa. Chỉ trong chốc lát nữa, nhiều người sẽ kéo đến, khó có cơ hội thoát thân, nên trước phải chọn thời cơ thích hợp mà lui. Y khôn khéo tung hứng lời hắn: “Người rất thân với ngươi.”
Hắc y nhân sửng sốt, nghi ngờ hỏi lại: “Ngươi là người của đại ca ta?”
Tương Thanh bỗng thấy mờ mịt, nói nửa ngày cũng không moi được thông tin gì. Nếu chỉ biết là hắn có huynh đệ thì có ích lợi chi? Trong lòng y khó tránh khỏi có chút ảo nảo, thầm nói nếu bản thân có được cái tính mồm năm miệng mười của Mộc Lăng thì tốt rồi, nói vài câu là có thể đào ra cả lịch sử tổ tông mười tám đời nhà người ta. Đáng tiếc về lĩnh vực này thì y lại dốt đặc.
Hắc y nhân thấy Tương Thanh im lặng, thầm nghĩ mình đã đoán đúng, liền cười ha hả: “Tên vô dụng kia đúng là hết thuốc chữa. Ngươi về mà nói với hắn, hắn tình nguyện làm cẩu nô tài dưới chân Ngao Thịnh thì đó là chuyện của hắn, không liên quan đến ta. Ta không vô dụng như hắn, ngay cả di huấn của tổ tông cũng quên!”
Tương Thanh lại tiếp tục khó hiểu. Không nói lời nào so với việc nói còn tốt hơn, đoạn lại suy đoán, huynh trưởng của tên này tự dâng mình làm nô tài cho Ngao Thịnh, chẳng lẽ là kẻ có chức vị? Di huấn của tổ tông? Là người của dị tộc đã suy vong? Nhà có hai huynh đệ, lại giữ chức vụ trong triều…Như vậy có điều càng thuận tiện.
Hắn lại thấy Tương Thanh vẫn không nói gì, chợt cảm giác có chút kỳ quái, đột nhiên hỏi: “Ngươi thật sự là người của đại ca ta?” Lúc này, nhóm bạch y nhân dưới chân núi đã chạy lên, ai cũng trang bị binh khí trên tay.
Tương Thanh nhìn trường đao trong tay họ, lại cau mày, thấp giọng hỏi: “Binh khí của Thịnh Thanh, các ngươi đều là người trong quân đội?”
Hắc y nhân chấn động, trừng mắt nhìn Tương Thanh: “Ngươi không phải là người của đại ca ta? Ngươi là ai?!”
Tương Thanh nói thầm, ngươi hiểu được quá muộn rồi, lúc này manh mối đã được nhiều, lại thấy khí thế dọa dẫm đang vây hãm mình của đám bạch y nhân, y liền thả người lao ra khỏi đám người, chạy xuống phía chân núi.
“Đứng lại!” Hắc y nhân đuổi theo, Tương Thanh cước bộ không ngừng, tay phóng ám tiễn. Hắc y nhân không lưu ý, bị ám tiễn làm bị thương một bên mặt, vệt rách dài hiện ra trên khăn trùm, máu cũng theo đó mà tuôn trào. Lúc này, Tương Thanh đã phi thân lên ngựa, thúc cương chạy đi.
Rất nhiều kẻ mặc áo chùng trắng định đuổi theo nhưng đều bị hắc y nhân ngăn lại. Tương Thanh lướt ngựa đi xa, quay đầu lại chỉ thấy đám người kia còn đứng tại chỗ, máu vẫn không ngừng chảy trên mặt hắc y nhân nọ, y nhủ thầm: “Cho ngươi lưu chút ký hiệu, về sau dễ phân biệt.”
Thấy thân ảnh Tương Thanh biến mất trong đại mạc, hắc y nhân mới tháo khăn trùm đầu xuống, dùng tay áo lau vết máu bên mặt, cau mày.
“Đại nhân?” Lúc này, một tên áo trắng mới tiến lên, thấp giọng hỏi gã hắc y: “Kẻ vừa rồi là ai?”
Hắc y nhân thở dài, lắc đầu: “Xem ra tình thế có biến, các ngươi đều cẩn thận làm việc, còn nữa, phái người đi thăm dò xem người kia là ai.”
“Vâng” Đám bạch y nhân đều tản đi, gã hắc y xoay người, nhặt ám tiễn bạc rơi dưới đất lên, thấy trên mặt tiễn khắc hình chim ưng, âm trầm vẽ ra tia cười.
Bên trong hoàng thành, cũng là một bầu trời đêm như thế.
Ngao Thịnh nằm trên giường, trở mình vài lần, trên mặt gối đặt một khối ngọc xanh biêng biếc.