Thịnh Đường

Chương 30




Hôm sau trời còn chưa sáng, Lý Kiến Thành đã đứng cạnh trướng môn, vén một góc trướng, đưa mắt nhìn ra ngoài.

Một đêm đã trôi qua, mưa vẫn rơi đều đều, sương mù trĩu nặng, trời đất mịt mùng. Thu ánh mắt lại, chỉ thấy mặt đường xung quanh cũng trở nên lầy lội.

Lý Kiến Thành hơi nhíu mày, trầm ngâm không nói.

Đúng lúc này, cách đó không xa vang lên tiếng ngựa hí. Anh ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy dưới nắng sớm tinh mơ, Lý Thế Dân vận giáp cứng, khí vũ hiên ngang, nháy mắt đã xoay người xuống ngựa mà bước đến gần.

“Sao rồi?” Lý Kiến Thành hơi nghiêng người cho hắn bước vào trướng.

“Đại ca,” Lý Thế Dân cởi áo choàng đẫm mưa treo lên giá, nói, “Ta dẫn nhân mã đến dưới chân thành Lạc Dương, nhưng cổng thành vẫn đóng im ỉm như cũ. Ta liều mạng chửi bới vài câu dưới thành, đối phương cũng không hề phản ứng.”

“Xem tình hình này……” Lý Kiến Thành ngồi xuống, rót hai chén trà nóng, đặt một chén sang cạnh bàn bên kia, nghe vậy trầm ngâm nói, “Hay là Vương Thế Sung đã hạ quyết tâm không giao chiến trực diện với chúng ta?”

Lý Thế Dân nói: “Lạc Dương dù sao cũng là đông đô, thành trì kiên cố, dễ thủ khó công. Kể ra Vương Thế Sung cũng là kẻ thông minh nên mới mượn nó để tránh né mũi nhọn của đại quân ta.”

Vương Thế Sung vốn là Quận thừa Giang Đô, sau vào Lạc Dương làm quan, được Dương Quảng vô cùng tín nhiệm. Lần này Dương Quảng băng hà, dù hắn có lập Việt vương Dương Đồng lên ngôi đế nhưng thực chất cũng đã nắm đại quyền trong tay.

Lý Kiến Thành lặng lẽ gật đầu, ngầm hiểu lúc này Lạc Dương giống như một cái khiên vàng, trường mâu trong tay mình, công hay lùi chỉ trong một ý niệm.

Đang lúc trầm ngâm, chợt nghe tiếng một tiểu giáo vọng vào từ ngoài trướng: “Thưa thế tử, ngoài doanh có người cầu kiến.”

Lý Kiến Thành liếc mắt qua, hỏi: “Là ai?”

“Kẻ đó chỉ nói, tin tức hắn mang đến ắt sẽ khiến thế tử vui mừng,” Tiểu giáo trả lời, “Những câu hỏi khác một mực không đáp.”

“Nói vậy nghĩa là bất kể thế nào, ta cũng phải gặp hắn một lần?” Lý Kiến Thành buông chén trà trong tay, nghe vậy chỉ khẽ cười, khoát tay, “Vậy hãy để hắn vào đi.”

Tiểu giáo ngoài trướng dạ một tiếng, vội vàng cáo lui, chẳng mấy chốc đã dẫn một người vào trướng.

Dáng dấp người kia cao gầy mảnh khảnh, toàn thân đẫm mưa, thong thả kéo mũ trùm trên đầu xuống, chắp tay vái dài: “Thảo dân bái kiến Đường thế tử và Tần công tước.” *ủa em Dân được phong Tần công tước hồi nào sao mình không nhớ ò.ó*

Lý Thế Dân hỏi: “Ngươi là ai?”

Người kia nghe vậy liền ngước mắt lên, đường nét rõ ràng, ngũ quan sâu thẳng. Liếc mắt nhìn sang Lý Kiến Thành bên kia rồi mới quay về Lý Thế Dân, cười nói: “Danh tính thảo dân là gì, hai vị có biết cũng vô dụng; cái hữu dụng là phong thư trong ngực thảo dân.” Dứt lời quả nhiên lấy từ trong ngực áo ra một vật, đi đến trước mặt Lý Kiến Thành, cung kính dâng lên bằng cả hai tay.

Lý Kiến Thành nhìn y một lát, mỉm cười, đưa tay tiếp nhận: “Để xem phong thư này có thật sự khiến bản thế tử vui mừng như lời tiên sinh hay không.”

Nói đến đây đã thong thả mở thư ra, rũ mắt, ánh mắt chầm chậm quét qua nét chữ trên thư. Lát sau anh nhẹ nhàng gấp thư lại, đưa cho Lý Thế Dân, còn mình thì liếc nhìn người kia, cười nói: “Hôm nay trời mưa lớn, chi bằng tiên sinh hãy tạm nghỉ ở đây, ngày mai hẵng trở về được không?”

Anh không nhắc đến một chữ nào trong thư, mà người đưa thư vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh, cũng không hề truy hỏi mà chỉ đáp: “Thân mang mệnh lớn, thực không dám trì hoãn. Bất luận thế tử hiếu khách thế nào, hôm nay thảo dân cũng nhất định phải đi.”

Lý Kiến Thành nghe vậy cười khẽ, nói: “Nếu đã thế thì hôm nay đành mời tiên sinh quay về vậy. Ngày mai ta sẽ phái người đưa thư phúc đáp tới, được không?”

Người đưa thư lẳng lặng nhìn anh, sau đó trên gương mặt sáng láng nở một nụ cười, đáp: “Vậy cũng được.” Nói xong dứt khoát thi lễ, xoay người cáo từ.

Người đưa thư vừa đi, Lý Thế Dân đã hỏi: “Đại ca, việc này…… phải giải quyết thế nào đây?”

Mà Lý Kiến Thành vẫn nhìn theo bóng người kia rời đi, sau đó mỉm cười thư thái, nói: “Thế Dân, hãy truyền lệnh xuống, ngày mai nhổ trại, toàn quân rút lui.”

Lý Thế Dân nghe vậy, kinh ngạc hỏi: “Đại ca, Lý Mật kia muốn kết minh với chúng ta, cùng đánh chiếm Lạc Dương, đây có thể coi là cơ hội tuyệt vời, sao lại muốn rút quân?”

“Lý Mật cầm đầu Ngõa Cương trại, hỗn chiến với Vương Thế Sung mấy bận mà không phân thắng bại, chúng ta tội gì phải sa vào vũng lầy này?” Lý Kiến Thành lắc đầu, vẫn cười đáp, “Nghe nói mấy ngày trước hắn bại trận rút lui, tưởng đâu đã bỏ ý định đánh chiếm Lạc Dương, nào ngờ rốt cuộc vẫn còn tơ tưởng.”

Lý Thế Dân nghe đến đây chợt bừng tỉnh, nói: “Chi bằng tạm thời cứ để hai kẻ này trai cò đánh nhau, đến khi lưỡng bại câu thương thì ta sẽ làm ngư ông đắc lợi!”

“Thế Dân nói rất đúng,” Lý Kiến Thành gật đầu, “Lý Mật kia mơ tưởng Lạc Dương đã lâu, làm sao chịu hợp lực với kẻ khác mà công thành? Lần này viết thư cho ta, thực chất là muốn ngấm ngầm bảo ta không cần nhúng tay vào Lạc Dương đó thôi. Nếu đã như thế, sao không thuận nước đẩy thuyền, cho hắn một món nợ ân tình?”

“Vậy cũng được.” Trong lòng Lý Thế Dân đã thấu suốt như gương, đưa mắt nhìn ra màn mưa ngoài trướng, “Đúng lúc cơn mưa này rơi mãi không ngừng, cũng coi như thiên ý.”

Lý Kiến Thành nghe vậy gật đầu, trầm ngâm cười nói: “Vậy xem ra thư kết minh hắn đưa đến hôm nay…… quả là một tin tức làm người ta vui mừng.” Dừng một chút, trong đầu lại hiện ra dáng dấp và vẻ mặt của sứ giả vừa rồi, trong lòng mơ hồ cảm thấy trước khi tới đây, chỉ e người kia đã đoán ra quyết định của mình.

Rõ ràng là người dưới trướng Lý Mật, lại chỉ xưng thảo dân; rõ ràng không phải kẻ tầm thường, lại chẳng chịu nói ra danh tính.

Người này, quả thực cũng có phần thú vị.

*****

Hôm sau Lý Kiến Thành viết một phong thư đưa vào Ngõa Cương trại, chỉ nói lúc này đất Quan Trung là quan trọng nhất, tạm thời không có sức đánh chiếm Lạc Dương, sau còn nói vài ba câu tỏ lòng áy náy, kế đó liền dẫn đại quân nhổ trại rút lui.

Nhưng đi được hơm trăm dặm lại thấy thành Lạc Dương mở cổng, một đội nhân mã đuổi theo phía sau. Lý Kiến Thành cười nhạt: “Lúc đầu đóng cửa không ra, giờ lại muốn đánh úp sau lưng, vọng tưởng thừa cơ chúng ta trở tay không kịp sao?” Liền lệnh cho Lý Thế Dân dẫn quân tinh nhuệ nghênh chiến, đánh nửa ngày quân địch đã chạy trối chết, trong lúc đó đại quân của Lý Kiến Thành cũng tiện đường đánh hạ hai tòa thành nhỏ không chút khách khí.

Cho đến khi trở lại Trường An đã là đầu tháng năm. Lý Uyên nghe báo tình hình, cũng không một lời trách tội, trái lại chầm chậm gật đầu: “Đất Lạc Dương hãy cứ để Lý Mật hãm chân Vương Thế Sung đi, chúng ta không cần nóng vội.”

Đại quân trở về được ba ngày, Lý Uyên thuận theo lời thỉnh cầu của quần thần, tuyên bố thụ thiện từ Dương Hựu, lên ngôi thiên tử, đặt quốc hiệu là “Đường”, sửa niên hiệu Vũ Đức.

Hiện giờ thiên hạ này, ít ra là đất Quan Trung này, cuối cùng cũng đường đường chính chính mang họ “Lý”.

Ba ngày sau, Lý Uyên hạ chiếu thư phân phong vương thần. Trên đại điển phong thiện, Lý Thế Dân đứng đầu một hàng, nghe tiếng thông tri trầm bổng bên tai, trong mắt lại chỉ có một người.

Lý Kiến Thành một thân cổn miện, trên huyền y huân thường nổi lên hoa văn cửu chương rực rỡ như sao, phú quý uy nghi, khí vũ hiên ngang, khiến người ta không nỡ rời mắt. Dường như hoa phục “Vai gánh nhật nguyệt, lưng vác muôn sao” này chế ra chỉ dành cho anh. (1)

Mà vẻ mặt Lý Kiến Thành vừa nghiêm trang lại vừa bình thản, khiến người ta nhìn không ra suy nghĩ trong lòng. Lát sau anh chầm chậm bước lên đài, phủ phục bái tạ, tiếp nhận phong thiện.

Ánh mắt Lý Thế Dân cứ dõi theo bóng hình anh mãi, một tấc không rời.

Từ ngày hôm nay, mình đã là Tần vương, Nguyên Cát là Tề vương, mà đại ca…… hiển nhiên trở thành trừ quân (*) một nước, hoàng thái tử Lý Kiến Thành.

(*) Người được chỉ định kế thừa ngai vàng, có thể là hoàng thái tử, hoàng thái đệ hay hoàng tôn hoàng chất đều gọi chung là hoàng trừ/ trừ quân.

Nghĩ đoạn, trong ***g ngực Lý Thế Dân kích động không thôi, cho đến lúc bản thân mình tiếp nhận phân phong thì hồn vía cũng đã lơ lửng tận đâu đâu.

Đến khi lui về hàng, vừa hay bắt gặp ánh mắt đối phương liếc qua. Ngay cả ý cười cực nhạt nơi đáy mắt anh cũng đủ khiến đáy lòng hắn thoáng chốc đã ấm áp như xuân về.

Ngày hôm đó Lý Uyên thiết yến quần thần, đến khi tiệc tàn đã là ban đêm.

Lý Kiến Thành ngà ngà men say trở về phòng, rót trà nhấp vài ngụm rồi đứng lên mở cửa. Gió lạnh lướt qua, đầu óc cũng tỉnh táo thêm vài phần.

Xoay người lại, liếc mắt nhìn cổn miện mình vừa thay ra đang treo ngay ngắn trong phòng. Anh bước qua đó, vươn tay chầm chậm vuốt ve, cuối cùng từ từ nắm chặt triều phục hoa mỹ kia.

Giờ này khắc này, mặt trời lẫn trăng sao, núi sông đồng bể, vạn vật và muôn dân đều đã nắm trong tay.

Sống lại một kiếp, đến hôm nay mới coi như quay về khởi điểm.

Mà kiếp này, anh sẽ không để kẻ khác cướp đi những thứ mình đã nắm trong tay thêm một lần nữa.

Đúng lúc này, sau lưng mơ truyền đến tiếng bước chân.

Lý Kiến Thành quay lại, thấy người đến thì khẽ nhướn mày: “Nguyên Cát đấy à?”

Lý Nguyên Cát vốn mắt to mày rậm, qua một năm xa cách, vóc người đã phổng phao tráng kiện hơn rất nhiều. Giờ này gặp lại, dù vẫn chưa qua tuổi vũ tượng (*), cũng đã coi như uy vũ phi phàm.

(*) Vũ tượng chi niên là độ tuổi 15-20 đối với nam và 15 đối với nữ, người xưa coi đây là lứa tuổi chập chững trưởng thành, nam có thể ra chiến trường, nữ có thể gả chồng. Lúc này em Cát 15 tuổi, vừa đúng tuổi vũ tượng.

Lúc này hắn đã bước vào phòng, cười nói: “Sau khi trở về từ Thái Nguyên vẫn chưa có dịp gặp riêng đại ca, biết hôm nay đại ca sẽ không đi ngủ sớm nên không nhịn nổi phải đến thăm ngay.”

“Nguyên Cát đúng là rất hiểu vi huynh,” Lý Kiến Thành cũng ngồi xuống, cười nói, “Nguyên Cát trở về đã được mấy ngày, chỉ vì công việc bận rộn mà chưa tranh thủ thời gian qua thăm đệ, thật sự không phải.”

“Đại ca đừng nói vậy,” Lý Nguyên Cát mỉm cười thành thật, “Sau ngày hôm nay, đại ca đã là trừ quân một nước. Quân quốc đại sự đều phải hao công tốn sức, đương nhiên không thể so với lúc trước.”

Lý Kiến Thành cười cười, hỏi: “Bao giờ Nguyên Cát lên đường trở về Thái Nguyên?”

Lý Nguyên Cát đáp: “Ngày mai.”

“Ngày mai?” Lý Kiến Thành nhíu mày, nhưng cũng nhanh chóng hiểu ra, cười nói, “Đột Quyết như hổ rình mồi, đúng là một khắc cũng không thể sơ sẩy.” Dừng một chút, lại đưa mắt nhìn sang Lý Nguyên Cát, “Sau khi Đốt Bật trở về Đột Quyết, không biết tình hình bên đó thế nào?”

“Vẫn như bình thường, chúng ta không ngừng cấp lương thảo, đối phương lại vẫn thường xuyên cướp phá vùng biên cảnh, không thể chấm dứt hoàn toàn.” Lý Nguyên Cát đáp, vẻ mặt rõ ràng không cam tâm, “Nếu không phải còn có minh ước, chỉ hận không thể dẫn quân san bằng doanh trại đám người Hồ kia!”

Lý Kiến Thành nghe vậy, lập tức hiểu ra sau khi trở về Đốt Bật quả thực đã giữ lời, ém đi chuyện mình từng bị bắt, cũng ra sức ngăn cản chiến tranh.

Nhưng nhớ lại thần sắc hoàn toàn khác xưa trong mắt gã trước lúc rời đi, anh lại mơ hồ cảm thấy bất an. Có lẽ mọi chuyện sẽ không chấm dứt đơn giản như vậy.

Chỉ là nếu mình đã thả người đi, ngày sau bất luận Đột Quyết có hành động gì, anh đều phải dốc hết sức lực bản thân mà gánh vác trách nhiệm.

Dù là với danh nghĩa Lý Kiến Thành, hay là với thân phận thái tử Đại Đường.

Im lặng giây lát, thấy lời lẽ của Lý Nguyên Cát vẫn mang theo nét kích động của trẻ con, lại bất giác mỉm cười: “Kẻ làm đại sự nhất định phải nhẫn được những chuyện người thường không thể nhẫn. Năm đó sở dĩ phụ thân ra sức kết minh với chúng, thậm chí không ngại uốn gối khom lưng, tôn chúng lên trên cũng chỉ vì muốn chờ thời cơ tốt nhất. Đợi cho đến khi bốn bể đã bình, quốc lực giàu mạnh, tất sẽ có một ngày giống như lời Nguyên Cát nói.”

Lý Nguyên Cát nhìn anh, lặng lẽ gật đầu, ánh mắt rực sáng. Từ nhỏ hắn đã nhìn theo bóng lưng của Lý Kiến Thành mà lớn lên, đối với anh vô cùng kính trọng, cũng vô cùng bội phục. Dừng một chút lại cười nói: “Chỉ mong nếu có một ngày đại ca giao chiến với Đột Quyết, xin hãy nhớ mang Nguyên Cát đi cùng.”

“Đương nhiên rồi.” Lý Kiến Thành nghe vậy mỉm cười, nói, “Chỉ e ngày sau Nguyên Cát mới là chủ tướng.”

Hai người chuyện phiếm một lát, Lý Nguyên Cát chợt nói: “Đại ca, hôm qua đệ đến chỗ nhị ca, tình cờ nhìn thấy trong phòng có treo “Lan Đình tập tự”. Còn nhớ khi đại ca mới lấy được bảo bối này, người khác muốn liếc một cái cũng không được, sao bây giờ lại chắp tay đem tặng người ta rồi?”

Lý Kiến Thành đang cúi đầu nhấp trà trong chén, nghe thế động tác trên tay hơi khựng lại, sau đó cười nói: “Sinh nhật mười tám tuổi của Thế Dân, ta đương nhiên phải tặng đại lễ rồi. Đến sinh nhật mười tám tuổi của Nguyên Cát, đệ thích cái gì đại ca cũng không tiếc.”

Lý Nguyên Cát nhìn anh đăm đăm một hồi, ngập ngừng giây lát, cuối cùng cũng mở miệng: “Không dám giấu đại ca, khi chúng ta còn ở Lạc Dương, một hôm đệ uống rượu với nhị ca đến đêm, nhị ca say khướt, miệng cũng lảm nhảm, câu nào câu nấy…… đều nhắc đến đại ca.”

Lý Kiến Thành nghe vậy, dĩ nhiên hiểu ra ẩn ý trong lời hắn nói. Anh chậm rãi buông chén trà, rũ mắt, không đáp lời.

“Khi đó Nguyên Cát đã biết, nhị ca sớm mang tâm tư khác với đại ca.” Lý Nguyên Cát thấy anh không nói gì, lại tiếp, “Cho đến hôm qua, thấy đại ca tặng tranh chữ này cho nhị ca, đệ mới chợt nhận ra…… Đại ca đối với nhị ca, chung quy vẫn khác người thường phải không?”

Đến lúc này Lý Kiến Thành mới ngước mắt lên, không nhận không chối, chỉ cười đáp: “Nguyên Cát…… quả nhiên đã trưởng thành rồi.”

Lý Nguyên Cát nghe vậy, trong lòng đã sáng tỏ. Hắn cũng không truy hỏi, chỉ cười nói: “Nguyên Cát nói vậy, chẳng qua chỉ mong đại ca hiểu Nguyên Cát không giấu diếm huynh điều gì. Chỉ mong sau này huynh cũng có thể đối đãi với Nguyên Cát như thế.” Hắn nhìn Lý Kiến Thành, tuy không nói rõ nhưng ánh mắt lại vô cùng khẩn thiết. Ngập ngừng giây lát rồi đứng dậy, chắp tay nói: “Đêm đã khuya rồi, ngày mai Nguyên Cát còn phải trở về Thái Nguyên, không tiện quấy rầy nữa. Đại ca cũng mau đi nghỉ thôi.”

Lý Kiến Thành cũng đứng dậy, tiễn hắn ra cửa. Cho đến khi hắn đã đi xa, anh vẫn tựa cửa, lặng lẽ nhìn vào mông lung.

Dựa vào hiểu biết của mình với Lý Nguyên Cát, Lý Kiến Thành cũng không hoài nghi hắn có lòng ỷ lại vào mình. Nhưng những lời hắn vừa nói lại đột ngột khiến anh phát hiện, có một số việc, thì ra đúng là ngoài cuộc tỉnh táo trong cuộc u mê.

Những chuyện mình cứ ngỡ vẫn điều khiển được, phải chăng trong lúc vô ý, đã sớm thoát cương?

Rốt cuộc đã thoát cương đến bực nào?

Từ từ khép mắt, Lý Kiến Thành khẽ thở ra một hơi, bình ổn những gợn sóng nổi lên trong lòng.

Nhưng đúng lúc này, anh lại nghe tiếng bước chân.

Mở mắt ra, đã thấy Lý Thế Dân ôm một vò rượu, đứng dưới ánh trăng thanh lãnh trước thềm. Bắt gặp ánh mắt anh, hắn cười cười, giơ vò rượu trong tay: “Đại ca.”

Lý Kiến Thành nhìn hắn, hỏi: “Tiệc rượu vừa tan, sao đã vội mang thêm rượu đến?”

Lý Thế Dân đứng nguyên tại chỗ, cười đáp: “Ban nãy đông người, không kịp kính riêng đại ca một chén.”

Lý Kiến Thành rũ mắt, nhìn sương đêm thấm ướt bờ vai hắn mà hỏi: “Đến từ bao giờ vậy?”

Lý Thế Dân đã dần dần áp sát, đáp: “Đã đến đây từ sớm, nào ngờ lại bị Nguyên Cát giành vào phòng đại ca trước, đành chờ ở bên ngoài.”

Lý Kiến Thành khẽ cười, hỏi: “Nguyên Cát không phải người dưng, sao không vào cùng?”

Lý Thế Dân đã đứng ngay trước mặt anh, hắn cúp mắt, nhìn anh ở khoảng cách cực gần, đáp: “Thế Dân…… chỉ muốn ở riêng với đại ca, không muốn có thêm ai khác.”

Lời này tuy ngang ngược, nhưng ngữ điệu lại đặc biệt ôn tồn. Lý Kiến Thành cảm thấy hơi thở của đối phương phả vào mặt mình theo từng câu từng chữ, mang theo trùng trùng ấm áp, dần dần tiếp cận.

“Vậy…… hãy vào đi.” Anh rũ mắt, xoay người bước vào phòng.

Nhưng còn chưa đi nổi một bước, ống tay áo đã bị đối phương giữ chặt. Lý Thế Dân một tay đè anh vào cạnh cửa, cúi mặt, gấp gáp hôn xuống.

Lời tác giả: Nụ hôn vừa dứt.

Đại ca: Sao hôm nay Thế Dân vội vàng thế?

Nhị ngốc: Đại ca…… Hôm nay là tiết Thần Côn mà!

——————————————-

(1) Huyền y huân thường là cái này, hông giống cái bộ lão Khoan mặc trên phim đâu, dù mình thích bộ của lão Khoan hơn hẳn nhưng theo Thông điển thì triều phục của hoàng thái tử dưới triều Tùy là cái này cơ. Giải nghĩa cụ thể thì huyền y là áo đen, thường là cái… ờm, giống như váy trong trang phục nam giới thời xưa, huân là màu đỏ nhạt và hơi pha vàng, nôm na là màu đỏ gạch. “Cửu chương” bao gồm năm hoa văn núi, rồng, chim trĩ, lửa, tông di (một loài khỉ) trên áo và bốn hoa văn tảo, hạt gạo, búa, phất (mình cũng không biết diễn tả thế nào, các bạn cứ nhìn xuống hình, nó là hoa văn gấp khúc màu đen nằm dưới hình cái búa) trên “thường” (hêm dám dịch từ này ra ó.ó) Ngoài ra còn một đống quy tắc về màu sắc và kích thước hoa văn, rồi quy định mặc triều phục vào những dịp nào, đi kèm phục sức gì nữa… Nói chung triều phục thái tử không khác nhiều lắm so với hoàng bào, Lý Uyên mới lên ngôi nên mấy quy chế này vẫn theo nhà Tùy, về sau đến thời Lý Thế Dân mới sửa lại vài chỗ. Còn “vai gánh nhật nguyệt, lưng vác muôn sao” thì nhìn hình là rõ, có điều chỗ này tác giả nhầm lẫn vì nhật, nguyệt, tinh là hoa văn chỉ có trên hoàng bào, hoàng bào có thêm 3 hoa văn này cộng với “cửu chương” trên triều phục thái tử mới thành “thập nhị chương”, chứ anh Thành mới là thái tử mà dám mặc áo thêu nhật nguyệt tinh thì thành khi quân phạm thượng mất rồi =))