Thiếu Nữ Đánh Cờ Vây

Chương 2




Mười ngày sau, tôi nhận được một bức thư của anh Lữ. Anh cho biết đã xin được hộ chiếu của Trung Hoa nội địa và lúc tôi đọc thư của anh thì anh đã đi Bắc Kinh.

Tôi cảm thấy một nỗi buồn là lạ. Tôi ra quảng trường Thiên Phong, nơi những người chơi cờ vây vẫn thản nhiên đắm chìm trong niềm say mê của họ.

Hồi còn nhỏ, tôi thường đi theo anh Lữ khắp nơi anh chơi cờ. Một lần anh bị sốt và gục ngã trên bàn cờ. Tôi đánh thay aắng trận ấy. Chiến thắng này khiến tôi trở thành cô gái duy nhất được chấp nhận trong giới mê cờ.

Năm tháng qua đi và tôi khắc khoải nhìn hoàng hôn của tuổi thơ trôi qua không bao giờ trở lại.

Anh Lữ không hiểu tôi. Anh muốn tôi đi theo anh trong thế giới của người lớn mà chẳng biết rằng cái thế giới đầy huênh hoang và buồn chán đó khiến tôi khiếp sợ.

12.

Có lệnh mới chuyển xuống. Để ngăn không cho bọn khủng bố được tiếp tế, chúng tôi phải đốt tất cả các kho thóc trong làng chúng tôi đi qua.

Sau cơn tàn phá, làng mạc trông tăm tối như một nấm mồ. Tiếng gió gào lẫn vào tiếng khóc của nông dân, họ gục xuống đờ đẫn trước những giàn lửa đỏ rùng rùng khói đen.

Từ ba tháng nay, rừng ngập tuyết ngăn cách chúng tôi với thế giới bên ngoài. Bạo lực ngày càng gia tăng trong binh lính. Họ nốc rượu và hục hặc lẫn nhau. Màu trắng, màu xám, ánh tuyết hắt lên, các cuộc hành quân vô tận khiến chúng tôi trượt dần vào điên loạn. Hôm kia, một viên cai đã cởi phăng quần áo và bỏ chạy. Chúng tôi tìm thấy anh ta ngất xỉu trong một khe núi và buộc phải quấn dây vào cổ để lôi anh ta về. Tôi như mê đi trong tiếng chửi rủa, những tiếng cười xói lói của anh ta và nhận thấy những ý tưởng ấy cũng quay cuồng trong đầu óc mình như một điệp khúc không dứt.

Trong khi chờ đợi sự điên rồ đến gặm nhấm dần dần, chúng tôi vẫn tiếp tục tiến lên trong tuyết để đi về phía tuyết.

13.

Tôi buồn chán trong trường trung học nữ sinh.

Nền giáo dục quốc gia nhào nặn ra các cô gái cầu kỳ rởm và các bạn tôi ngày nào đó sẽ trở thành các bậc nữ lưu thời thượng. Đứa xinh nhất trong bọn là Hương, có đôi lông mày tỉa kỹ tới mức trông như hai nửa vầng trăng trên đôi mắt. Nó nhăn lông mày, nó nhíu lông mày, nó dãn lông mày. Niềm vui giả tạo của nó, tiếng cười điệu đà của nó cũng chẳng che đậy được nỗi bất ổn của tuổi dậy thì.

Châu, đứa xấu nhất trong bọn, lại có mái tóc dài nhất lớp. Nét mặt không đều của nó chỉ cho phép nó diễn đạt mọi việc với vẻ khinh miệt và đanh đá. Ấy thế mà lại thành cái duyên riêng. Mọi người kể rằng mẹ nó là cháu của một thống chế, khỏe như một đô vật Mông Cổ, dân thủ đô cũng phải e ngại sức mạnh của bà.

Giờ ra chơi, cả bọn bàn về nào là tài tử điện ảnh, nào là váy xống, đồ trang sức, hôn nhân, rồi các cuộc tình bí mật của hoàng hậu. Chẳng ai đọc văn học mới và những lời phê bình độc địa về một xã hội thối rữa. Chẳng ai nhắc nhở gì tới thời sự chính trị đang càng ngày càng xuống dốc. Chúng tôi chuyền tay nhau các tiểu thuyết tình sướt mướt. Xứ Mãn Châu độc lập ngăn cách chúng tôi với phần còn lại của nước Trung Quốc. Đây quả là một nhà máy ngọt ngào, nơi các con tằm dệt nên các ổ kén mỏng manh trước khi chết trong một nồi nước sôi sùng sục.

Sau buổi học, tôi ra quảng trường Thiên Phong. Cờ vây đưa tôi vào thế giới hành động. Các nước cờ luôn thay đổi khiến tôi quên đi sự tẻ nhạt thường ngày.

Ở trường, bọn bạn tôi gọi tôi là đồ ngoại đạo. Chúng coi việc tôi mê cờ vây như một bệnh điên ngoại nhập. Còn các tay chơi cờ tỏ ra rất độ lượng và chấp nhận trò ngông cuồng của một cô bé con là tôi.

Cách đây hai mươi năm, sau khi kết hôn, cha tôi đã thuyết phục được ông nội cho cha đi học bên Anh. Một năm sau, khi đi du học về, cha trở nên Âu hóa và dám thách thức cả truyền thống. Cha giao Nguyệt Châu chị tôi cho bà nội và đưa mẹ tôi đi theo mình trong các chuyến đi sang tây. Tai tiếng đồn tới tận Bắc Kinh nơi hai gia đình sinh sống. Ông ngoại là một viên quan đã về hưu, bèn cắt đứt quan hệ với ông nội vốn vẫn còn đang tại chức ở một vị trí cao trong triều. Tôi sinh ra trong sương mù thành Luân Đôn. Nỗi khó chịu về việc sinh ra không đúng chỗ này thể hiện trong tính đỏng đảnh của tâm hồn bị quấy đảo của tôi. Tiếc thay là tôi chẳng còn nhớ gì về thời còn bé tí xíu ấy nữa. Sau khi đế chế tan rã, hai cụ ông lại làm lành với nhau do cùng căm ghét phe cộng hòa. Họ gần như chết đồng thời. Cha mẹ tôi về nước chịu tang và tuân theo lời bà nội rời Bắc Kinh về thành phố này, nơi tổ tiên tôi đã xây nhà nghỉ đi săn.

Bà nội cứ ao ước được thấy hòa bình, bà chết sau ngày khởi chiến 18 tháng chín năm 1931. Năm ngày sau khi thấy trận, binh lính Trung Quốc rút chạy về thành phố chúng tôi. Họ phá cửa, chiếm nhà và đưa lính bị thương vào nhà.

Lính Nhật vây hãm thành phố. Đạn pháo nổ như giã giò kéo dài tới ba ngày. Một quả bom rơi trúng nhà chúng tôi và phần lớn đồ gỗ quý giá được đem đốt trong đống lửa ăn mừng. Quân đội Trung Quốc đầu hàng và chúng tôi không nhìn thấy binh lính nữa. Có tin đồn rằng ba nghìn người đã bị xả súng giết hết phía bên ngòai thành phố.

Sau khi bà mất, cuộc sống trở lại nhịp xưa. Người Nhật lập nên một thị trưởng mới. Các chiến lũy trong thành phố mất dần. Cờ của kẻ thù phấp phới trên các nóc nhà. Cửa hàng của người Nhật mở khắp nơi và trong các quán ăn, tấm che cửa truyền thống bằng vải trắng được thay bằng các tấm cải in chữ Nhật. Từng tốp phụ nữ Nhật tóc chải sáp bới cao sau gáy dạo chơi trong phố. Khổ váy kimônô chật khiến họ phải bước từng bước ngắn, tiếng guốc lọc cọc trên hè.

Chúng tôi phải xây lại nhà mới. Lạm phát làm chúng tôi nghèo đi. Mẹ cho các cô hầu nghỉ việc bớt và chỉ giữ lại một người làm bếp cùng một người giúp việc nhà. Giới quý tộc sa sút nhường chỗ cho đám giàu mới nổi và niềm vui ồn ào huênh hoang của họ. Khách sạn, cửa hàng sang trọng, nhà hàng lịch sự thi nhau mở. Chưa bao giờ phố xá chúng tôi lại sầm uất đến thế.

Cha mạ tôi mều tìm ra cách để trốn tránh thực tế. Cha dốc sức soạn thảo một cuốn tổng luận về thi ca Anh còn mẹ làm lại bản thảo của cha, nắn nót từng nét chép lại những từ ngoáy vội.

Mẹ khóa kỹ các kỷ vật ngoại quốc trong một chiếc hộp. Tôi tranh thủ lúc mẹ đi vắng để lấy trộm chiếc chìa khóa giấu trong một chiếc lọ. Ảnh, quần áo, thư từ, các mảnh vải in hình kỳ lạ tỏa một mùi hương ngây ngất. Chẳng phải mùi xạ, mùi trầm, cũng chẳng phải mùi hoa, mùi cây quen thuộc của xứ chúng tôi, mùi hương lạ đưa tôi vào một thế giới khác.

Mơ mộng khiến tôi càng thêm ưu sầu.

14.

Thế là cuối cùng cũng xong! Sau một tháng miệt mài săn đuổi trong núi rừng, chúng tôi đã xua được quân khủng bố vào rọ. Bị bao vây bên bờ một vực thẳm, có họa mọc cánh chúng mới có thể thoát.

Chúng tôi đã dùng hết phần lớn lương thực dự trữ từ lâu. Trong khi chờ tiếp viện, chúng tôi chia xẻ phần ăn. Mỗi người từ nay có thể đếm được trên đầu ngón tay số bánh lương khô được chia, để rồi sẽ nuốt dần, chiêu bằng tuyết.

Trưa hôm qua, chúng tôi hết đạn, chúng tôi bèn quyết định cắm lưỡi lê lao vào bọn Trung Quốc.

Sáng nay, bình yên lạ thường bao phủ khắp núi rừng. Gió ngừng không thổi. Trong yên tĩnh, có tiếng gà gô kêu. Tôi ngồi viết di chúc, những lời vĩnh biệt làm thần kinh tôi dịu lại.

Tôi chậm rãi rút gươm ra khỏi vỏ và dùng khăn mùi soa lau lưỡi gươm. Chưa bao giờ tôi thấy lưỡi thép tôi từ đầu thế kỷ 16 này lấp lánh đến thế. Xưa kia nó đã chặt biết bao đầu kẻ địch để phục vụ cho tổ tiên tôi. Nay nó là chiếc gương phản chiếu sự trong sạch đầy đe dọa của cái chết.

Đột nhiên, có tiếng kèn xung trận. Chỉ một bước tôi đã nhảy ra khỏi chiến hào và lao về phía kể thù trong tiếng kêu chiến đấu. Trên đỉnh núi lao về phía kẻ thù trong tiếng kêu chiến đấu. Trên đỉnh núi vẫn im lìm. Không một bóng người, một người lính ra hiệu chỉ xuống: cách khoảng trăm mét về phía dưới, các xác chết nằm rải rác trong tuyết trắng. Trước khi lao xuống vực, họ phỉ còn ném tất cả vũ khí, xác chết, người bị thương xuống đó.

Tôi chợt hiểu vì sao khoảng trưa hôm qua, sau một hồi đọ súng dữ dội, phe địch chợt im tiếng.

Đạn dược cả hai phe cùng cạn kiệt một lúc, và cả hai phe đều không biết rằng bên kia cũng hết đạn như mình. Tất cả chúng tôi đều mấp mé gần kề sự suy kiệt.

Người Nhật đã chọn vinh quang trong hành động còn người Trung Quốc chọn vinh quang trong cái chết. Hành động anh hùng lẫm liệt với việc tự sát tập thể của họ bị vẩn lên như một lời chế diễu của số phận. Tự sát sớm là một sự đầu hàng đáng xấu hổ. Nền văn minh Trung Hoa qua nhiều thiên niên kỷ đã sản sinh ra vô vàn triết gia, nhà tư tưởng, nhà thơ. Nhưng chẳng ai trong số họ hiểu được sức sống không gì thay thế được của cái chết.

Chỉ có nền văn minh của chúng tôi, dù khiêm tốn hơn; là đã đạt tới điều cốt lõi: hành động cũng là chết cũng là hành động.

15.

Tết Năm mới; thể theo phong tục mới du nhập từ phương tây, sẽ là buổi mở màn của mùa vũ hội.

Chị tôi lấy một trong các bộ đầm kiểu Âu của chị để mặc cho tôi. Sau khi rẽ ngôi lệch, chị lấy sáp vuốt tóc tôi. Rồi chị mở hộp đồ trang điểm. Chỉ trong một tiếng đồng hồ, tôi chẳng còn nhận ra mình nữa. Mặt tôi trắng như đồ lót mới tẩy. Mi mắt tôi sẫm hơn cánh bướm đêm. Lông mi giả rung rinh khiến tôi nom như sắp khóc.

Trên quảng trường tòa thị chính, các dây hoa lấp lánh tựa sao. Xe ngựa, xe hơi lướt đi trên tuyết rồi từ đó tuôn ra các nhà quý phái chống can bịt vàng, các phu nhân và tiểu thư quấn lông thú, tóc uốn, môi hờ hững ngậm chiếc tẩu lọc thuốc lá bằng ngà.

Một khu rừng thông ngăn cách khách sạn Hoàng gia với thế giới dân thường. Từ chập tối; người ta đã quét tuyết trên một lối đi nhỏ ngoằn ngoèo giữa bóng tối và ánh sáng run rẩy của các ngọn đuốc. Tuyết ánh trên ngọn cây. Bóng những người phục vụ mặc áo choàng đỏ nổi bật trên nền sáng lạnh lẽo của cửa kính.

Cánh cửa xoay đẩy tôi vào một gian sảnh rộng mênh mông. Các cột sơn son đỏ vút lên tới vòm trần, từ đó rủ xuống biết bao chùm đèn pha lê, nom tựa như những ngọn lửa pháo hoa. Trên tường, núi rừng, biển uốn lượn, mặt trời ngắm mặt trăng trong khi lũ hạc cất cánh bay lên hòa vào mây.

Chị tôi lôi tôi tới một chiếc bàn và gọi cho tôi ly cà phê sữa, thức uống thời thượng mà ta phải dùng trong những nơi như thế này. Dàn nhạc đang đệm cho một nữ ca sĩ váy lấp lánh kim tuyến. Thân hình cô ta uốn éo như một con rắn đang bị thôi miên. Từ cái cổ trắng nõn nà vang lên giọng ca rên rỉ.

Rồi anh rể tôi mời chị tôi, cả hai bước lên sàn nhảy. Tay trong tay, mắt nhìn vào mắt, họ đẹp và thanh lịch biết bao. Họ tiến lên, lùi lại, xoay tròn và xoay tròn. Nhạc dồn dập hơn. Chị tôi cười, má đỏ, và để mình cuốn trôi đi trong vòng xoay. Điệu van kết thúc trong tiếng vỗ tay. Anh rể tôi âu yếm hôn lên vai chị. Trái tim tôi se lại. Ai mà biết được rằng anh ta đã làm khổ chị biết bao nhiêu?

Tôi đưa mắt qua các dãy bàn và bắt gặp Hương đang quan sát tôi từ nãy giờ. Cô bạn cùng lớp khẽ gật đầu ra hiệu. Tôi chỉ những muốn độn thổ để giấu cái bộ mặt hóa trang kinh dị của mình. Liệu ngày mai nó sẽ kể chuyện này ra sao ở lớp đây? Khéo mà cả lũ chúng nó sẽ tha hồ nhạo tôi.

Tôi càng lúng túng hơn khi Hương ra hiệu mời tôi tới bàn nó. Tôi từ từ đứng dậy. Khi tới gần; tôi nhận ra mớ phấn dầy phủ trên má nó. Nó mặc chiếc áo đầm để hở toàn bộ lưng. Kiểu ăn mặc này khiến tôi yên tâm, ít ra mình không phải là tên hề duy nhất ở đây.

Một anh chàng nhường chỗ cho tôi và đi tìm thêm ghế. Hương giới thiệu các bạn nhưng nom bạn nào cũng lớn tuổi quá. Nó nhiệt thành nói chuyện với tôi và lần đầu tiên tôi thấy cái lối ăn nói kiểu cách của n duyên. Tôi thấy không ghét nó nữa và thổ lộ với nó nỗi chán ngán của tôi với cái đám người giả dối và điệu đà này.

Nó nhìn tôi một lúc rồi chìa li cho tôi.

- Uống đi, nếu không cậu vẫn sẽ chỉ là kẻ ngoại đạo.

Rượu sâm banh bốc trong cổ và làm tôi phát ho. Tôi vui lên. Được Hương khuyến khích, tôi dám ngước mắt lên và nhìn lại khi đàn ông nhìn tôi. Một người mời tôi nhảy, trong tay anh ta, tôi bước đi như một con gấu. Tôi quay về chỗ Hương và bị lây ngay bởi tiếng cười lăn lóc của nó. Cái con bé này trước đây tôi không ưa nay đã trở thành đồng lõa.

Ra khỏi khách sạn tôi vẫn còn say và đòi phải được đi bộ ra xe. Chị tôi mắng nhưng rồi thấy ý này cũng hay. Phải cho tôi hết say trước khi về tới nhà chứ.

Một cái bóng nổi lên từ trong chiều sâu của khu rừng thông. Một cái xác trần truồng, tay đặt trên bụng đang chằm chằm nhìn trời.

Hè vừa rồi, liên đoàn kháng chiến đã tấn công các đoàn tàu địch. Người Nhật bèn cho đốt các cánh đồng dọc theo đường sắt. Từ đó, từng đàn nông dân kiệt quệ lang thang trong thành phố chúng tôi để xin vài hạt gạo. Kẻ bất hạnh này là một trong số họ, chắc chắn đã chết đói. Xác chết thì làm sao bảo vệ được mình. Những kẻ ăn mày khác chắc đã lột hết quần áo anh ta.

16.

Mừng biết bao khi nhận được lá thư đầu tiên. Mẹ kính yêu kể tỉ mỉ cho tôi về lễ đón mừng năm mới. Em gái cho tôi biết một việc mà mẹ không kể. Từ khi tôi ra đi, ngày nào mẹ cũng ra đền và cầu nguyện hàng tiếng đồng hồ. Còn em tôi, nó mơ rằng Phật sẽ phù hộ độ trì cho tôi.

Thư của em trai tôi thì mang đầy ẩn ý. Cái tay tiến sĩ về văn học cổ điển này vẫn kiệm lời kiệm ý như xưa. Nó thừa nhận rằng trong thời buổi này, tổ quốc cần nhiều lính hơn nhà văn.

Nước mắt tôi trào ra khi đọc những dòng này. Ý em tôi rất rõ, nó xin lỗi tôi vì đã không hiểu anh mình quá lâu.

Sau cái chết của cha tôi, tôi vẫn còn niên thiếu và cảm thấy một tình yêu khắc khoải đối với em trai. Tôi quyết định cư xử với em như cha đối với con, như huấn luyện viên đối với vận động viên, như sĩ quan đối với lính. Để nó đáp ứng được những yêu cầu của tôi, tôi bắt nó phải học những trò tôi chơi rất giỏi. Em trai tôi giả bộ như nghe lời tôi nhưng kiên nhẫn chờ đợi lúc nổi dậy.

Và ngày đó đã đến. Trời đã định rằng tới một lúc nào đó, kẻ lớn sẽ bị mất ưu thế với kẻ bé hơn. Ở tuổi mười sáu, em trai tôi đã cao bằng tôi. Nó trở thành một chàng trai bắp thịt cuồn cuộn, xương cứng rắn. Một hôm, tại câu lạc bộ võ kenđo, nó trang trọng thách tôi đấu. Chỉ nháy mắt tôi đã bị một cú kiếm gỗ chém ngang mũ bảo vệ. Cú đánh mạnh tới mức tôi lảo đảo. Khi tôi lấy lại được thăng bằng, người thắng trận nghiêng mình cảm ơn tôi đã chấp nhận đấu. Nó bỏ mũ mặt đẫm mồ hôi và tràn một niềm vui thầm lặng. Sau khi kính cẩn cúi chào tôi, nó rời sàn đấu trong trang phục võ sĩ.

Về sau, trở thành nhà văn và theo học tại Đại học Tokyo. Từ đó, đường đi của chúng tôi xa dần nhau. Nó chơi với nhiều sinh viên cánh tả nên trở nên hung hăng và khinh thị mọi việc. Do đọc quá nhiều các tác giả vô chính phủ, nó dần có thái độ căm ghét đối với các quân nhân, lên án họ can thiệp quá sâu vào công việc của chính phủ và gọi họ là kẻ tàn sát nền tự do.

Tôi chẳng có thời gian và lòng kiên nhẫn để chấn chỉnh em tôi. Hơn nữa, nó tránh về nhà khi tôi có nhà. Đối với tôi, em trai tôi đã bị làn sóng đỏ cuốn đi mất rồi.

Vậy sao giờ đây nó đổi hướng? Cãi nhau với bạn chăng? Ai đã cho nó biết sự phù phiếm và lố bịch trong tính không tưởng của các bạn nó?

Tôi trả lời em tôi bằng một lá thư ngắn gọn như thư nó:

“Em ạ, sau trận chiến đầu tiên, anh chỉ còn tôn thờ mặt trời. Tinh tú đó thể hiện sự vĩnh hằng của cái chết. Em chớ nên tin vào mặt trăng, nó chỉ là tấm gương phản chiếu thế giới đẹp đẽ này. Nó đầy lên rồi lại khuyết đi, một cách phản trắc và vô thường. Tất cả chúng ta đều rồi sẽ chết. Chỉ đất nước là còn tồn tại. Hàng nghìn thế hệ những người yêu nước sẽ làm nên sự vĩ đại mãi mãi của đất nước Nhật Bản.”

17.

Ở tuổi tôi, tình bạn này xóa đi tình bạn khác, bùng lên, tắt đi, chẳng bao giờ vĩnh cửu, nhưng lúc nào cũng hăng hái như nhau.

Tôi mời Hương đến nhà ăn tối và cho nó nhìn thấy thế giới riêng của tôi. Nó mặc một chiếc áo dài kiểu Trung Hoa màu xanh lơ chần bông. Tóc tết đuôi sam, cô bé học sinh trung học ngoan ngoãn và hiền lành khiến cha mẹ tôi rất thích. Sau bữa cơm, tôi mời nó uống trà và rủ nó về phòng minh. Nó rụt rè bước qua cửa phòng như bước vào một giấc mơ.

Để cho Hương thấy được vẻ diệu kỳ của căn phòng ngày xưa, một trong số các phòng đã thoát được trận bom, tôi tắt hết đèn và thắp nến. Nhiều cuộn giấy vẽ thư pháp và tranh hiện lên từ bóng tối để dần dàn hòa quyện với các tấm tranh tường nhiều màu sắc. Một chiếc giá đầy sách oai phong ngự trong phòng. Trên chiếc bàn sơn mài của tôi, các con chim vẽ rúc rích trong đám lá. Hai hộp đựng quân cờ vây chễm chệ trên nóc một chiếc tủ trạm trổ và canh chừng cho giấc ngủ hàng đêm của tôi.

Hương vớ lấy một quyển sách dậy đánh cờ và lật giở vài trang. Nó cầm lên một chiếc ghim cài búi tóc bằng bạc trạm có đính lông vũ mà tôi sưu tầm. Nó nghịch các viên ngọc trai trên đó. Im lặng mất một lúc.

Ngồi vắt vẻo trên mép giường, nó trút bầu tâm sự với tôi.

Sinh ra ở nông thôn, Hương bị mất mẹ lúc tám tuổi. Cha nó tục huyền và bị lép vế trước bà vợ mới vạm vỡ, sáng nào cũng ngậm tẩu ra đồng chỉ huy công việc. Bà mẹ kế ghét nó. Rồi sau đó hai cậu em sinh đôi khác mẹ ra đời khiến cha không còn thương yêu nó như trước nữa. Nó chỉ còn là một con bé lọ lem. Bọn con trai càng lớn càng nhiễm thói bắt nạt nó. Chúng hành hạ Hương như hai con mèo hành hạ một con chim sẻ yếu. Mẹ kế có vốn từ vựng chửi rủa phong phú thường xuyên chửi bớ nó. Nó ngủ phòng dành cho người ở và đêm đêm đếm giọt mưa rơi trên mái nhà. Mưa rơi không dứt, như những nỗi khổ của nó.

Nhà nó cho nó vào trường trung học năm mười hai tuổi. Mẹ kế thoát khỏi cái gai trước mắt và Hương tìm thấy tự do.

Đầy nhiệt tình và quả quyết, nó tập bỏ cho kỳ được giọng nhà quê và tự biến thành cô gái thị thành. Chẳng mấy nỗi mà nó đã hiểu được cái gì sai khiến được người thành thị và tranh thủ lợi dụng điều này. Thỉnh thoảng nó dúi vào tay bà gác cổng ký túc xá vài đồng tiền, biếu vài ba chai rượu cuối năm và được bà cho phép ra vào thoải mái. Nó ở chung phòng với tụi lớp lớn và quen dần với rượu sâm panh, với sô cô la và các điệu van. Nó bắt chước họ, học trang điểm, nói dối tuổi để được mời đi dự vũ hội. Đàn ông đến đón nó bằng xe hơi, thì thầm những lời âu yếm vào tai nó và khen ngợi sắc đẹp của nó.

Từ đó, nghỉ hè trở thành cực hình. Nhà cửa quê mùa ẩm ướt, tăm tối, mùi gia súc làm đồng khiến phát buồn nôn. Cha khạc nhổ lung tung, mẹ kế suốt ngày cứ rít lên. Hai ông em trai đáng lẽ ngồi bàn ăn cho tử tế, lại cứ co chân lên ghế để nốc cho tiện.

Đêm khuya dần, tôi rủ Hương đi ngủ. Nó nằm sát vào tường và còn kể chuyện mãi đến khi lời lẽ lủng củng và giọng nói lịm dần.

Tôi trằn trọc mãi. Bạn tôi năm nay mười bảy tuổi. Cha nó đang tìm chồng cho nó và thế là kết thúc cuộc vui kéo dài mới ba năm. Liệu nó có gặp được người làm thay đổi số phận nó hay không?

18.

Có những ngày lòng tràn đầy quyết tâm mới mẻ, tôi nhìn thẳng vào cái chết với niềm vui và sự bình thản. Theo tiếng gọi của đất nước, tôi không do dự tuân theo số phận một người lính của hoàng đế. Tuy nhiên con đường trở thành anh hùng không thẳng tắp như ta tưởng, nó còn ngoằn ngoèo mãi trong núi đồi khúc khuỷu của sự hi sinh.

Sớm nay tôi tỉnh giấc lúc còn nằm sấp trên một mô đất đã khô vì nắng. Hơi ấm toát lên từ sâu trong lòng đất làm tôi thiu thiu ngủ. Mãi tôi mới mở được đôi mắt trĩu xuống vì cơn ngủ và nhận thấy có một tấm bia mộ dựng cách mặt mình có vài centimet. Tôi đang nằm trên mộ mẹ tôi.

Cố nén tiếng kêu thảm thiết, tôi tỉnh giấc hẳn. Mặt trời mùa đông còn chưa nhô lên. Căn phòng trưng dụng của nông dân giống như một căn nhà hầm. Trong bóng tối, binh lính của tôi ngáy khò khò. Ai giải được hộ tôi giấc mộng này? Làm sao biết được giấc mơ này có phải là điềm báo hay không? Phải chăng đó là lời nhắn mẹ muốn gửi tôi trước khi từ giã cõi đời? Có ai làm ơn cho tôi biết ngay bây giờ, ngay tại nơi đây, cách xa Tokyo hàng ngàn kilomet, rằng mẹ vẫn còn sống và khỏe mạnh hay không?

Từ nhiều năm nay, tôi suy nghĩ rất nhiều đến cái chết của mình, đến độ nó trở nên nhẹ tựa lông hồng với tôi. Nhưng chưa bao giờ tôi chuẩn bị tư tưởng về cái chết của mẹ nên không thể nào chịu đựng được ý nghĩ đó.

Nhưng biết làm sao để hài hòa được tổ quốc và gia đình?

Người lính sẽ l kẻ hủy hoại hạnh phúc của những người thân. Nếu cuộc sống của tôi là có ích, chắc tổ quốc phải chịu ơn sự hi sinh của một người đàn bà.

Tôi mò mẫm trong bóng tối tìm được một mẩu giấy và một khúc bút chì. Tôi chẳng nhìn rõ chữ tôi viết nhưng vẫn viết một bức thư ngắn gửi mẹ. Tôi nói với mẹ rằng tôi ân hận, đã biết bao nhiêu lâu rồi tôi không quan tâm đến mẹ.

Tôi gập bức thư và nhét xuống dưới gối. Còn phải chịu đựng biết bao ngày nữa mới gặp lại thế giới bên ngoài đây?

19.

Hương thổ lộ với tôi điều lạ thường.

-Bố tớ rất giàu nhưng ở nhà tớ chỉ như một con ăn mày. Mỗi khi xin tiền là ông ấy cáu và bao giờ cũng vứt ra chỉ phân nửa số tiền tớ xin.

Nó lại bảo:

- Tớ sẽ lấy một lão chồng giàu biết chiều tớ.

Vài hôm sau, nó hé cho tôi biết là nó đang mê một người:

- Một người đàn ông thực sự khác xa cái bọn thanh nien mới mọc râu lượn quanh trường mình. Anh ấy đoán được điều cậu nghĩ, biết trước được điều cậu thích. Bên anh, cậu không phải là một cô gái mà là tiên, là nhà thông thái, là linh hồn đã sống qua mọi thời đại và anh ngắm nhìn cậu với ánh mắt tò mò háo hức như trẻ sơ sinh.

Dù Hương nay đã là bạn thân của tôi, tôi vẫn không tài gì hiểu hết được ý nghĩa các câu nói của nó. Tâm hồn gai góc của nó tựa như chia ra thành bóng tối và ánh sáng. Vừa ồn ĩ vừa kín đáo, cuộc sống của nó đầy bí ẩn mặc dù nó có tâm sự với tôi.

Như sáng hôm ngay thứ hai chẳng hạn, nó đến lớp có vẻ kiệt sức và xúc động. Đuôi sam của nó còn mang vết của mớ tóc được uốn rồi lại được là thẳng ra. Chìm đắm trong niềm vui mà chỉ có nó mới biết duyên cớ, nó bảo:

- Bằng chứng duy nhất về tình yêu của một người đàn ông là lòng kiên nhẫn của chàng khi chiêm ngưỡng một người con gái còn trinh đang dần chín.

Tôi đỏ mặt mà chẳng xen vào được câu gì. Nói những chuyện quá thầm kín như vậy mà nó chẳng ngại mảy may. Tuy nhiên tôi thấy cái kiểu thổ lộ trơ tráo của nó lại có cái vẻ oai oai. Tôi như một con bé mù không nhìn thấy ánh sáng mặt trời.

Tôi bèn hỏi Hương:

-Làm thế nào để ra khỏi bóng tối đang bao trùm ta?

Nó giả bộ không hiểu.

- Làm thế nào để trở thành đàn bà?

Nó trố mắt ra:

- Cậu điên à? Làm đàn bà càng muộn càng tốt chứ sao ?

20

Quay về với thế giới văn minh.

Thành phố Cáp Nhĩ Tân nằm tít tút phía bắc xứ Mãn Châu và là một điểm nóng trong tranh chấp giữa Nga và Trung Quốc. Trên dòng sông Amua rộng hàng kilomet, các tàu chiến của chúng tôi đang đương đầu với hạm đội Xô Viết.

Khi hoàng hôn xuống trên thành phố ồn ào này, mái vòm của các nhà thờ Hồi giáo, thập tự và các tượng Đức bà đồng trinh của nhà thờ Thiên chúa, mái cong nghiêng của các khu đền chùa Phật giáo nổi bật trên nền trời đỏ sậm màu máu. Người Nga, người Do thái, người Nhật , Triều Tiên, Trung Hoa, Anh, Đức, Mỹ đều chung sống trong cái đô thị hổ lốn này. Mỗi loại người đều biết tái tạo lại quang cảnh và sống với văn hóa của mình.

Mới hôm qua đây, tôi còn ngủ trong ổ rơm, trong tiếng hú của chó sói và tiếng rền rĩ của gió. Tôi còn phải uống tuyết tan thay nước, phải mặc quân phục thủng cháy lỗ chỗ, ướt nhẹp mồ hôi và bùn. Bây giờ thì có giường, chăn len, phòng có lò sưởi, quân phục mới tinh. Tôi cùng vài sĩ quan khác lao đi tìm gái. Tôi chơi xa xỉ, đốt hết cả món tiền dể dành để gọi cho mình một ả điếm người Nhật.

Maysaô, một cô gái điếm trẻ gốc vùng Tôyanma, mời rượu tôi. Trang điểm tầm thường, nước hoa thì tẻ nhạt, áo kimônô loè loẹt, cách cầm rượu thì vụng về, thế mà cô ta vẫn làm tôi mê mẩn. Tôi túm lấy tay cô ả. Chỉ chạm vào da thịt đàn bà cũng khiến tôi như có điện giật. Tôi giật người cô ta và cô ả ngã nhào vào lòng tôi. Tôi vạch chiếc áo kimônô đã hé mở và giằng mớ đồ lót. Hai bầu vú bật ra.

Màu núm vú hồng hồng khiến tôi phát rồ. Sau nhiều tháng cô độc, tôi muốn rửa thân trong một thân xác đàn bà. Tôi vầy vò.

Tôi cưỡi lên người ả mặc cô ả van xin. dương v*t tôi xọc vào thân cô ta và chỉ mới chạm vào đã khiến một niềm đau đớn khoái lạc xâm chiếm người tôi và khiến tôi mê cuồng.

Tôi vui vẻ đi trong phố, toàn thân vừa như trống rỗng vừa như tràn đầy sinh lực mới. Ả gái điếm đã bơm cho tôi hơi nóng của con người mà tôi đã để mất trong nhiều tháng qua.