Thiên Văn

Chương 5: Mèo vờn chuột




Phù! Mũi tua-vít vừa đâm sâu vào vài mi-li-mét, bức tường rêu xanh liền nứt thành từng vệt, sau những tiếng lách tách liên tục, những vệt nứt bao trùm toàn bộ diện tích khu vực chữ “Cốt”, giống như mạng nhện chằng chịt.

Sau khi trở về nhà bố mẹ, tôi nhốt mình trong phòng, thức trắng hai đêm đau khổ suy nghĩ, một lần nữa sắp xếp lại trong đầu toàn bộ tình tiết sự việc thành hệ thống, lập kế hoạch chu đáo cho hành động tiếp theo của tôi.

Tuy hoàn cảnh trước mắt rất khó khăn, Viện Kiểm sát thành phố và tên hung thủ giấu mặt đều đang dõi theo tôi, khiến hành động của tôi gặp nhiều hạn chế. Thế nhưng suy nghĩ một cách biện chứng thì đây có thể lại là ưu thế lớn nhất của tôi lúc này. Nếu biết tận dụng thời gian tại ngoại, khiến hai thế lực sáng tối tự khống chế nhau thì tôi hoàn toàn có thể tạo ra khe hở an toàn trong hoàn cảnh phức tạp và nguy hiểm hiện nay. Việc cần kíp bây giờ là tôi cần chọn đúng thời cơ để phá vòng vây, chui ra từ khe hở an toàn đó.

Hạ quyết tâm xong, tôi thấy mình cứng rắn hơn, lập tức bắt tay vào hành động. Trước hết cần làm rõ xem quanh tôi có tất cả bao nhiêu đôi mắt theo dõi. Bắt đầu từ ngày thứ ba, mỗi ngày ngoài việc đến bệnh viện thăm mẹ vào giờ cố định, toàn bộ thời gian còn lại tôi đi lang thang, len lỏi khắp các ngóc ngách trong thành phố.

Tôi từng tốt nghiệp trường Đại học Công an Nhân dân Trung Quốc, chuyên ngành trinh sát hình sự và khám nghiệm hiện trường; cộng thêm sau nhiều năm thực tiễn công tác, đã kinh qua rất nhiều vụ trọng án, tiếp xúc với vô số loại tội phạm, có thể được coi là chuyên gia chống phát hiện. Tôi sẽ phải tận dụng ưu thế trời cho này, chơi một ván mèo vờn chuột với những kẻ đang theo dõi tôi.

Nhiệm vụ đầu tiên của chống phát hiện chính là chống theo dõi, đây là kĩ năng vô cùng khó khăn và phức tạp, không những phải rèn luyện lâu dài mà còn phải kết hợp với một loạt các môn tự nhiên và xã hội khác như tâm lý học, hành vi học, lý luận học và đạo đức học. Người bị theo dõi cần tận dụng triệt để những điều kiện ngoại cảnh có sẵn như địa hình tự nhiên, kiến trúc xây dựng, đặc điểm con người, điều kiện khí hậu… kết hợp với khả năng quan sát tinh tế và óc phân tích tỉ mỉ để từ đó tìm được ra quy luật hành vi và trạng thái tâm lý của kẻ theo dõi. Một khi đã nắm rõ tình hình thì sẽ dễ dàng phát hiện ra sơ hở để chờ thời cơ trốn thoát.

Bước trên đường phố nhộn nhịp, tôi lợi dụng hình ảnh phản chiếu từ những tấm kính lấp lánh của các cửa hàng bên đường, tập trung phân tích đặc trưng hình dáng của tất cả những người trong phạm vi có thể quan sát được, sau đó chủ động điều chỉnh tốc độ và hướng đi của mình, đi hay dừng, nhanh hay chậm, thẳng hay rẽ, để quan sát phản ứng của họ. Vào không gian thời gian, điều kiện khí hậu và vị trí địa lý khác nhau, dựa vào trang phục, thần thái, đồ vật mang theo và bạn đồng hành của người theo dõi để phân tích động cơ xuất hành, cử chỉ, hành động của họ.

Sau khoảng một tuần, tôi đã cơ bản tìm hiểu được tình hình quanh mình, đối tượng theo dõi tôi gồm năm nhóm, mỗi nhóm không dưới ba người. Trong đó bốn nhóm có cả nam và nữ, thường xuyên đổi người thay thế nhau, nhóm còn lại toàn nam, từ đầu đến cuối đều là những gương mặt quen thuộc. Hơn nữa, tôi ngày càng cảm nhận thấy rõ ràng hai nhóm đối tượng này cũng dần dần nhận ra sự tồn tại của đối phương, và cố tình tránh né nhau; nhờ vậy sự chú ý của chúng bị phân tán một phần, và cũng giảm bớt độ tập trung trong việc theo dõi tôi.

Thấy mục tiêu trước mắt đã cơ bản đạt được, tôi mừng thầm trong bụng, quyết định thực hiện ngay bước thứ hai.

Tôi biết rõ đây là lúc phải tiến hành chiêu độc, biến ám phỏng thành minh sát, lợi dụng tâm lý phản nghịch thường thấy trong mỗi người để ra tay làm một mẻ lớn.

Việc thầy liệm trang Mã Trấn Quốc mất tích, cái chết oan nghiệt của La Viễn Chinh và Phùng Siêu, và cả chuyện hãm hại tôi, tất cả đều không nằm ngoài mục đích ngăn cản tôi tìm hiểu chân tướng sự việc. Nhưng chưa có lần nào bọn chúng trực tiếp giáp mặt với tôi, điều này khiến tôi khó hiểu. Đã có lần tôi đoán chúng không dám ra mặt vị sợ tôi là cảnh sát, nhưng Phùng Siêu cũng là cảnh sát, vì thế tôi ngay lập tức phủ nhận suy đoán này.

Có thể do giác quan thứ sáu nhạy cảm của phụ nữ, tôi luôn có cảm giác vì một lý do bí ẩn nào đó mà bọn chúng sẽ không ra tay mà chỉ liên tục gây trở ngại cho công việc điều tra của tôi mà thôi. Còn cảm giác này đúng hay sai thì tôi không thể đưa ra nhận định chính xác được.

Nếu phán đoán này là chính xác, cộng thêm quan hệ ràng buộc giữa bọn chúng và Viện Kiểm sát rất có thể sẽ đem lại cho tôi những kết quả không thể ngờ tới. Còn nếu phán đoán sai, bọn chúng muốn ra tay với tôi, vậy thì tất cả sẽ cùng quyết chiến một mẻ, nếu có chết tôi cũng phải kéo thêm vài kẻ đi cùng. Hơn nữa, tôi không nghĩ bọn chúng có thể giải quyết tôi một cách êm thấm trước vô số cặp mắt quan sát như vậy.

Tôi trở về nhà riêng, nhìn tổ ấm ngày trước giờ đây phủ đầy bụi, trống rỗng lạnh lẽo, nghĩ đến người đàn ông yêu thương tôi hết mực sẽ không bao giờ quay về nữa, âm dương cách biệt, tất cả niềm vui niềm hạnh phúc đều biến thành bọt bong bóng, lòng tôi đau như muốn phát điên.

Ngồi bên chiếc giường ngủ, tôi lặng nhìn bức ảnh cưới treo ở đầu giường, nước mắt lăn dài, khóc không thành tiếng.

Sau khi khóc vơi nỗi lòng, tôi lau khô nước mắt, nhẹ nhàng vuốt ve sinh linh bé nhỏ trong bụng, cố gắng cảm nhận từng cử động nhỏ của con. Tôi thở dài, cắn răng thầm thì: Con à, không phải mẹ nhẫn tâm, mà vì mẹ phải báo thù cho cha, báo thù cho chú Phùng Siêu của con. Con đừng trách mẹ, con nhé!

Tôi chụp lại bức tranh đã bị tháo tung, lái xe đến phòng tranh panorama tiến hành điều tra thực địa.

Hôm đó là buổi sáng thứ Bảy, người trong phòng tranh rất đông, rất giống với khung cảnh hôm La Viễn Chinh bị giết hại. Tôi len vào đám đông, tay cầm máy ảnh, đi vòng quanh lan can bảo vệ tìm kiếm khu vực tranh sáng tác của cậu tôi.

Sau khi quan sát tỉ mỉ, tôi phát hiện thấy nội dung hai bức tranh hoàn toàn giống nhau, chỉ có duy nhất một chi tiết khác biệt, đó là dưới chân Cổ Tháp, trước cổng chùa Đại Quảng Tế chỉ có ba chiến sĩ. Điều đó có nghĩa “cậu” là chiến sĩ dư.

Mặc dù xung quanh ồn ào náo nhiệt, nhưng trong đầu tôi lại rất tĩnh, trực giác mách bảo, La Viễn Chinh đã phát hiện thấy khác biệt này nên định gọi điện cho tôi chăng? Và có thể do sự kích động nhất thời nên anh chọn phương án bấm số một cách vô thức.

Nhưng sau khi phân tích kỹ hơn, tôi liền phủ nhận ngay suy đoán đó. Dáng vẻ của La Viễn Chinh rất hoảng hốt, theo những gì tôi biết về tính cách của chồng, một chút khác biệt này tuy đáng ngạc nhiên nhưng vẫn không đủ để anh biến đổi cảm xúc đột ngột như vậy. Vậy thì, rốt cuộc anh đã nhìn thấy gì cơ chứ?

Tôi cố gắng lục lọi trong trí nhớ hình ảnh đoạn bang gi hình, từ từ bước đến vị trí La Viễn Chinh đứng, thậm chí còn bắt chước theo tư thế của anh: Trước tiên đưa tay ra vịn lan can, sau đó lùi ra xa, nheo mắt lại, chăm chú ngắm nhìn.

Du khách cứ liên tục đi qua đi lại trước mặt tôi, nhưng do tập trung cao độ, điểm nhìn lại ở phía xa, nên họ đều bị kéo thành từng bóng đen quét rất nhanh qua mắt tôi, mờ mờ ảo ảo rồi biến mất.

Mặc dù tôi cố đứng yên, nhưng do phản xạ có tránh né, đầu tôi vẫn không tránh khỏi bị xoay chuyển, bức tranh phía xa bị những bóng người dài ngoằng cắt qua, giống như những hình ảnh slide lần lượt được trình chiếu, thể hiện rõ từng biến đổi ở mọi góc độ.

Đột nhiên, toàn thân tôi toát mồ hôi, ánh mắt tập trung vào một điểm, hình ảnh chợt hiện lên rõ mồn một.

Cuối cùng tôi cũng nhìn thấy “cậu”, và “cậu” cũng đang nhìn tôi!

Theo bố cục không gian trong bức tranh thì chùa Đại Quảng Tế nằm sát một con phố, theo phỏng đoán thì chính là phố Sĩ Anh ngày nay; đối diện là một dãy nhà mái bằng giống như cửa hàng, trước cửa một ngôi nhà quả là có một chiến sĩ đang đứng, tay cầm súng, mặt nhìn ra ngoài bức tranh, ngũ quan rõ ràng, trông y hệt cậu. Lúc đó, tôi vừa vặn đứng đúng vị trí đối diện với “cậu”, ánh nhìn hai bên gặp nhau, ánh mắt “cậu” vẫn mang vẻ hoang mang kinh ngạc như thế.

Tại sao? Tại sao? Tại sao?

Quá đỗi ngạc nhiên, tôi bất giác lùi về phía sau, hơi dịch chuyển sang trái sang phải, bỗng nhiên lại phát hiện ra thêm một điểm khác biệt nữa. Khi tôi dịch chuyển, ánh mắt của “cậu” không hề đi theo tôi, mà nhìn thẳng về phía trước, chứng tỏ hình ảnh ở đây không hề sử dụng kỹ thuật vẽ ánh nhìn đa chiều. Tại sao lại như vậy?

Trong lúc lui về phía sau, đột nhiên tôi cảm giác chân mình giẫm phải một thứ gì đấy, tiếp theo đó là tiếng hét của một phụ nữ lớn tuổi.

Tôi quay ngoắt lại, vội vàng xin lỗi. Người phụ nữ lớn tuổi mặt đầy tức giận, chỉ thẳng vào mặt tôi mắng nhiếc một hồi lâu rồi mới từ bỏ đi, mồm vẫn liên tục lẩm bẩm:

- Nhìn cái quái gì thế không biết, cứ dán mắt vào…

“Nhìn cái quái gì thế…” câu nói này chợt làm tôi ngẩn cả người, trong đầu như có tia sáng xoẹt qua, những sự việc dồn ứ trong đầu, quẩn quẩn quanh quanh, đan xen lẫn lộn, gợi cho tôi chút khái niệm mơ hồ. Tôi như thể sáng tỏ được điều gì đó, nhưng lại không thể phân tích mổ xẻ vấn đề để hình thành những đầu mối mạch lạc.

Tôi chợt nhớ đến La Viễn Chinh, mù mờ hiểu ra chắc cũng tại anh nhận ra một số điểm bất thường giữa hai bức tranh nên mới vội vàng gọi điện cho tôi.

Nghĩ vậy, tôi lập tức đưa ra quyết định, tuyệt đối không thể để cho tên sát thủ giấu mặt kia đoán ra được ý nghĩ của mình. Thế là, tôi chụp lại hình người chiến sĩ đó, rồi làm ra vẻ tức cảnh sinh tình đưa tay dụi dụi mắt, đứng ngay ra một lúc, sau đó mới chậm rãi rời khỏi phòng tranh.

Trên đường lái xe về, mắt tôi nhìn thẳng về phía trước, cố gắng giữ chắc vô-lăng nhưng trong đầu thì cứ mải miết suy nghĩ: Tại sao cậu lại vẽ bản thân thành người chiến sĩ? Tại sao phải thay đổi vị trí nhân vật? Tại sao phải sử dụng những kỹ thuật vẽ tranh khác nhau? La Viễn Chinh rốt cuộc đã phát hiện ra điều gì trong đó? Rốt cuộc anh định nói với tôi điều gì?

Mọi thắc mắc như những hạt đậu bị rang nóng, cứ nổ lách tách lách tách trong đầu, tôi nghĩ đến nát óc nhưng vẫn không giải thích được điều gì.

Khi đi qua nhà ga, vừa đúng lúc gặp đèn đỏ. Trong lúc chờ đợi tôi tắt điều hoà, mở cửa kính xe, thò đầu ra hít bầu khôn khí trong lành bên ngoài, mong có thể giải toả được trạng thái não thiếu ô-xy do phải tập trung suy nghĩ cao độ.

Phải thừa nhận rằng, mọi chuyện trên đời vô cùng thú vị, những hành động vô tình lại đem đến những phát hiện ngoài sức tưởng tượng cho con người ta. Có thể nói, số phận của tôi lại một lần nữa chuyển ngoặt tại đay. Khách sạn nằm đối diện nhà ga, ngăn cách nhau bởi con phố, cao tới hai mươi tầng, bên ngoài treo những bức pano quảng cáo cực lớn. Trong đó có bức pano quảng cáo máy tính Lenovo nổi bật nhất, cô người mẫu xinh đẹp với gương mặt tươi cười rạng rỡ, một tay ôm chiếc máy tính một tay chỉ về phía trước.

Do khách sạn có kiến trúc hình bán nguyệt, rất giống với kết cấu bên trong phòng tranh panorama, nên tôi để ý khá kỹ. Đột nhiên tôi phát hiện, ngón tay cô người mẫu cũng dùng kỹ xảo đa chiều đó.

Hoá ra kỹ thuật này cũng khá phổ biến trong thực tế, tôi liền quan sát hướng ngón tay rốt cuộc là chỉ hướng nào rồi quay đầu nhìn theo.

Đối diện với bức pano cô người mẫu là toà nhà chính của nhà ga màu vàng nhạt. Không hiểu lúc đó tôi nghĩ gì mà quay sang hạ ngay kính ghế phụ xuống để ngắm thật kỹ, ngón tay cô người mẫu hình như chỉ về chiếc đòng hồ hình vuông rất to trên đỉnh toà nhà chính. Lúc đó vừa đúng mười một giờ trưa, chuông đồng hồ chậm rãi điểm từng tiếng từng tiếng, âm thanh vang xa kéo dài lấn át hoàn toàn tiếng ồn ào trên đường phố. Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn, trong đầu không biết nghĩ gì mà quên cả đèn xanh đã bật sáng. Những chiếc xe phía sau bực tức bấm còi thúc giục ầm ĩ, nhưng tôi chẳng nghe thấy gì.

Bỗng một đồng chí cảnh sát giao thông trên đường bước đến, gõ mạnh vào kính xe, lớn giọng nhắc nhở:

- Chị nhìn gì thế, còn chưa chịu đi đi!

Tôi giật mình, như chợt bừng tỉnh sau cơn mơ, giây phút đan xen giữa mơ hồ và tỉnh táo trong đầu khiến tôi chợt hiểu ra được một số điều.

Tôi từ từ ngẩng mặt lên nhìn đồng chí cảnh sát, nhẹ nhàng nói:

- Anh nhìn gì thế?

Thấy anh cảnh sát nghệt mặt ra, tôi cũng chẳng buồn giải thích, chỉ cười cười rồi nhấn ga, lái xe thẳng một mạch về nhà.

Dạo này liên tục xảy ra những chuyện không hay nên tôi chẳng buồn dọn dẹp nhà cửa, phòng ốc bừa bãi lộn xộn, bức tranh của cậu bị tháo rời, nằm yên trên sàn phòng khách.

Tôi day mạnh hai bên huyệt thái dương, đợi đầu óc hoàn toàn minh mẫn rồi mới tỉ mỉ ngồi ghép lại bức tranh, dựng vào lưng ghế sô-pha. Tôi tìm đúng vị trí trong phòng tranh lúc đó, khuỵu gối xuống, nheo mắt lại quan sát. Trước cửa hàng bên đường quả đúng thiếu một người. Tôi mở máy ảnh ra, tìm bức ảnh chụp người chiến sĩ, đặt màn hình hướng ra ngoài rồi từ từ quay về vị trí cũ quan sát. Lúc này, người chiến sĩ nhìn thẳng vào tôi, hoàn toàn trùng khớp với khung cảnh trong phòng tranh panorama.

Tôi lần tìm lại cảm giác kỳ lạ lúc trước đo, nín thở, từ từ nghiêng người, theo ánh mắt của người chiến sĩ quay đầu nhìn lại phía sau, chỗ đó chính là bức tường treo ti-vi trong phòng khách.

Lúc La Viễn Chinh phát hiện ra điều bất thường của bức tranh trong phòng tranh panorama, đầu óc bỗng nhiên bị xáo trộn, hoàn toàn giống với trạng thái mà tôi vừa trải qua, đây chính là cảm xúc thông thường của con người cũng chính là mấu chốt vấn đề mà tôi đã nghĩ đến.

Cậu vẽ mình thành người chiến sĩ, chắc chắn có dụng ý sâu xa nào đó, có thể chính cậu đã dựa vào hiệu ứng cảm xúc thông thường này để sáng tác bức tranh chăng. Nếu người chiến sĩ này là cậu, vậy lúc này nếu ở nhà cậu ánh mắt người chiến sĩ sẽ chỉ đến đâu?

Tôi cố gắng nhớ lại cách bài trí trong nhà cậu, vị trí này cũng đặt chiếc ti-vi, nhưng phía trên đó lại treo một bức thư pháp nằm ngang, có viết bảy chữ thảo lớn “Hoạ long hổ nan hoạ cốt”, nét chữ rồng bay phượng múa, thế nhưng bây giờ nó đã bị đốt mất. Bức thư pháp ấy không rõ được treo từ bao giờ, chỉ biết rằng khi tôi bắt đầu có trí nhớ thì đã thấy nó được treo ở đó, nghe nói là của một nhà thư pháp nổi tiếng tặng cho cậu.

Còn nhớ hồi nhỏ tôi đã từng hỏi cậu, có phải bức thư pháp đó có nghĩa là xương khó vẽ nhất đúng không. Cậu xoa đầu tôi cười lớn, không trả lời câu hỏi mà chỉ nói cậu thích câu nói này, nó luôn nhắc nhở bản thân rằng nghệ thuật không có điểm dừng, đừng bao giờ kiêu căng tự mãn. Mãi đến sau này lớn lên, tôi mới hiểu được hàm ý của câu nói đó không hề đơn giản như mình nghĩ, và tôi cũng biết được sau nó còn có vế câu“Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Thế nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy cậu kể tại sao lại chỉ chọn vế đầu mà không làm thành câu đối hoàn chỉnh.

Tôi nhìn chăm chú, trong óc như có một cỗ xe đang phóng với tốc độ cao cùng đủ mọi âm thanh hỗn loạn, tôi cứ quỳ mãi cho đến khi hai đầu gối tê dại mới chuyển sang ngồi bệt xuống sàn.

Tôi cố tĩnh tâm sắp xếp mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu. Không biết mất bao lâu, tôi mới từ từ ngẩng đầu lên, nhìn hình ảnh cậu trong máy ảnh, bất giác nhoẻn miệng cười.

Tôi nghĩ mình đã tìm ra bí mật cậu để lại! (Để tiện phân biệt, tạm thời tôi sẽ gọi bức tranh trong phòng tranh panorama là tranh lớn, bức tranh cậu sao chép lại là tranh nhỏ).

Thực ra cậu đã ra một câu đố vô cùng phức tạp cho chúng tôi. Người chiến sĩ trong bức tranh nhỏ sử dụng kỹ thuật vẽ tranh đặc biệt, ánh mắt di động, không rõ định hướng, khiến người ta khó bề nắm bắt. Còn chiến sĩ trong bức tranh lớn mắt cố định, khiến người xem nhìn thấy ngay. Hai nhân vật tuy đều là hình ảnh cậu, nhưng vị trí đứng không giống nhau, chính là để ám chỉ sự thay thế giữa không gian và nhân vật.

Lấy người chiến sĩ trong bức tranh lớn thay vào bức tranh nhỏ ở nhà câu, thì ánh mắt sẽ nhìn thẳng vào bức thư pháp trên bức tường đối diện. Còn câu “Hoạ long hổ nan hoạ cốt” ngầm ám chỉ một điều, bí mật thực sự không nên thể hiện ra ngoài mà nên cất giấu phía trong.

Khi đốt tranh, tôi đã ngắm khá kỹ bức thư pháp đó, nó được đóng khung cẩn thận, nhưng không có gì đặc biệt, điều đó chứng tỏ: Bí mật mà cậu muốn cất giấu, có lẽ đã được ẩn mình trong vách tường phía sau bức thư pháp. Lần này, tôi có thể khẳng định bí mật đó vẫn sẽ liên quan đến mảnh da người.

Nghĩ vậy, tôi thở dài một tiếng, chợt cảm thấy nhẹ nhõm dễ chịu vô cùng. Với nhận định này, tuy trước khi nhắm mắt cậu đã trăn trối yêu cầu chúng tôi hoả thiêu cả thi thể và bộ sưu tập tranh, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim, cậu vẫn hi vọng ai đó sẽ hiểu được ẩn ý của cậu và giải được bí mật đó. Thế nhưng, tại sao cậu phải dốc hết tâm can, sử dụng ám hiệu phức tạp như vậy chứ? Nếu không phải do cơ duyên trùng hợp, tôi sẽ không bao giờ phát hiện được ra. Còn nữa, La Viễn Chinh chắc chắn cũng đã nghĩ đến những điều này nên mới có phản ứng mạnh mẽ thế. Thế nhưng kỳ lạ ở chỗ, nếu nói La Viễn Chinh cũng đã giải được câu đố này, tại sao anh không gọi điện cho tôi trước mà lại gọi cho người khác, điều này vô cùng khó lý giải.

Nghĩ rằng việc không thể chần chừ, tôi quyết định tạm thời gác những nghi vấn đó lại, lập tức đến nhà cậu để kiểm chứng những suy đoán của mình. Nhưng vừa định đứng dậy, tôi lại chợt băn khoăn không biết nên đánh lạc hướng những con mắt xung quanh như thế nào?

Tôi ngồi trên sàn nhà, vắt óc suy nghĩ, cuối cùng cũng ra được một kế.

Cậu tôi không vợ không con, quyền thừa kế tài sản nghiễm nhiên thuộc về mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi hiện giờ đang bị tai biến, mỗi ngày riêng tiền thuốc đã mất hàng nghìn tệ, sắp tới còn phải làm phẫu thuật, tiền bạc trong nhà cũng đã gần cạn kiệt. Tôi thì còn trẻ chưa tích luỹ được gì, hiện giờ không những mất chồng lại còn mất việc, như vậy hoàn toàn có thể lợi dụng điểm này để tung hoả mù.

Quyết định xong, tôi cảm thấy hơi có lỗi với cậu, nhưng nghĩ đi lại, chẳng phải cậu cũng hi vọng sẽ có người giải được bí mật đó hay sao, thế là tôi lại thấy nhẹ lòng.

Ngày hôm sau, tôi đi đến nhà họ hàng thân thích, báo với họ rằng sẽ bán tài sản và căn nhà của cậu để gom tiền chữa bệnh cho mẹ, còn dặn mọi người tìm giúp người mua, giá cả không quan trọng, chỉ cần hợp lý là được. Hầu hết mọi người nghe vậy đều tỏ ra thông cảm, mấy tháng nay liên tục xảy ra những chuyện không hay, quả thực đã gây quá nhiều khó khăn cho gia đình tôi.

Sau nhiều lần giao dịch, cuối cùng tôi cũng liên hệ được với một người mua, giá cả cũng được thoả thuận nhanh chóng. Buổi sáng hôm đó, tôi thuê mấy cửu vạn ở chợ người về, bắt đầu cho chuyển bàn ghế và đồ đạc trong nhà cậu.

Nhà cậu rộng, phải tới hơn 170 mét vuông, là căn nhà do Uỷ ban Chính hiệp thành phố phân cho vào năm 1998. Đồ đạc trong nhà rất nhiều, chỉ riêng bộ bàn ghế đã tới hơn hai mươi món, rồi còn vô số các loại đồ cổ, đồ sưu tầm nữa. Đội cửu vạn phải mất trọn ba ngày vừa dỡ vừa đóng, chở đi chở về mới chuyển xong đồ đạc trong nhà cậu.

Ba ngày này, tôi cũng không được thảnh thơi, liên tục phải giám sát bên cạnh, chỉ huy công việc, mắt không rời khỏi vị trí treo bức thư pháp. Tôi nhận thấy các bức tường được dán giấy in hoa vàng nhạt, đã quăn mép và phai màu, trong khi đó. Vị trí chỗ tường được bức thư pháp che phủ sạch sẽ hơn nhiều so với những vị trí xung quanh, để lộ một khoảnh hình chữ nhật nhàn nhạt.

Trưa ngày thứ ba, tranh thủ lúc đội cửu vạn ra ngoài ăn cơm, tôi quyết định ra tay.

Tuy ở trên tầng hai, nhưng phòng khách có một cửa sổ khá lớn, thoáng mát, nhìn được ra khoảng không phía xa. Ban ngày không tiện kéo rèm, để tránh có người nhòm ngó, tôi cố tình bảo cửu vạn chất đống vỏ thùng các-tông, sách vở và những đồ đạc linh tinh ở đó để che bớt tầm nhìn phía ngoài cửa sổ.

Sau khi đóng cửa, căn phòng trở nên yên tĩnh lạ thường, tim tôi bắt đầu đập thình thịch, hai tay toát mồ hôi, một cảm giác hồi hộp chưa từng có xuất hiện tựa hồ như bí mật đó đã ở ngay trước mắt.

Tôi đứng trước bức tường ngắm nghía một lúc, sau đó vào kho tìm búa và tua-vít rồi trở lại phòng khách, kéo chiếc ghế gấp cũ kỹ lại, trèo lên, bắt dùng tua-vít cạo lớp giấy dán tường phía ngoài khu vực treo thư pháp, bên trong lộ ra bức tường đá rêu xanh.

Lo sợ có người nghe lén ngoài tường, tôi không dám gõ mạnh tay mà quay đầu búa, dùng cán gỗ gõ nhè nhẹ vào tường, vừa gõ vừa ghé sát tai lắng nghe, cố gắng phân biệt âm thanh ở từng chỗ khác nhau.

Do đồ đạc trong phòng đã dọn gần hết, nên cứ mỗi nhát búa lại nghe thấy tiếng vọng từ tứ phía. Thấy không ổn, tôi lấy tay trái giữ chặt đầu búa, tránh trường hợp do quá run mà lực gõ không đều.

Cuối cùng, khi cán búa chạm vào chỗ mà trước đó là vị trí của chữ “Cốt” trong bức thư pháp, người tôi chợt run bắn, suýt chút nữa kêu lên thành tiếng. Âm thanh chỗ này không còn trầm trầm chắc nịch nữa, mà là tiếng coong coong trống rỗng.

Quả đúng như tôi dự đoán, sau bức thư pháp đúng là có bức tường kép.

Tôi mừng thầm trong bụng, gõ tiếp vài nhát để định vị, tìm đúng khe nối ngoài rìa, cắm chặt mũi tua-vít vào rồi dùng búa gõ mạnh.

Phù! Mũi tua-vít vừa đâm sâu vào vài mi-li-mét, bức tường rêu xanh liền nứt thành từng vệt, sau những tiếng lách tách liên tục, những vệt nứt bao trùm toàn bộ diện tích khu vực chữ “Cốt”, giống như mạng nhện chằng chịt.

Tôi cắn chặt môi, nắm chặt tua-vít trong tay, vặn từ từ, từng mảnh vỡ to nhỏ thi nhau rơi lộp bộp xuống đất.

Tôi cố dặn mình không được nôn nóng, rút tua-vít ra, nhẹ nhàng cạo những mảng tường nứt, phía trong dần lộ ra một lớp thạch cao màu xám nhạt, không hề nhìn thấy tường gạch. Tôi thò tay chạm thử, thấy phẳng và cứng giống bột bả tường, trên bề mặt chằng chịt những vết hoa văn, không biết nó đã được đặt ở đây bao nhiêu năm rồi.

Tôi dắt chiếc búa vào sau lưng, hai tay nắm chặt tua-vít, bẩy mạnh đám bột bả lên. Lớp bột bả ăn sâu vào tường chừng năm sáu cen-tin-mét, do bị kết lại từ lâu nên rất khó cậy. Tôi lại không dám quá mạnh tay, sợ bị người khác nghe thấy.

Sau khi cậy được hết đám bột bả, trên tường tro lại một cái hõm vuông vức, trên dưới trái phải đều là gạch đỏ. Tôi nhòm vào trong, dưới đáy hõm hình như có một tấm gỗ hồng mộc, xung quanh không thấy khe hở nào, có vẻ như nó là tấm gỗ chắn.

Gỗ hồng mộc vừa cứng vừa chắc, khó bị mục ruỗng, lại được bảo quản khá nguyên vẹn, phản chiếu ánh sáng mờ mờ. Tôi hơi sốt ruột, nếu gõ mạnh hơn sẽ dễ gây tiếng vang, thế nhưng thời gian cấp bách, nếu tôi không nhanh chóng quay ra sẽ khiến người khác nghi ngờ.

Tôi suy nghĩ thật nhanh, quyết định không quay ra ngay mà sẽ đục tấm gỗ ra. Nhưng khi vừa giơ chiếc búa lên tôi chợt dừng lại.

Bề mặt tấm gỗ không hoàn toàn nhẵn bóng, có vẻ như nó được khắc hoa văn mờ mờ thì phải. Tôi vừa mừng vừa lo, vội đưa tay sờ thử, đồng thời rọi chiếc đèn pin mini rồi thò đầu vào bên trong.

Những hình hoa văn đó hơi đậm so với màu gỗ, lấy đầu ngón tay miết thử thì thấy ram ráp những lỗ li ti dày đặc giống như được khắc bằng kim, tạo thành những đường uốn lượn theo phương nằm ngang ở vị trí trung tâm tấm gỗ, hai đầu kéo dài ẩn vào thân tường. Tôi gật gù, xem ra bí mật chính là đây rồi. Nếu ngu ngốc dùng búa phá hỏng nó thì có lẽ bây giờ tôi hối hận chết mất.

Tôi thò cán búa vào trong, gõ nhẹ vài nhát, âm thanh phát ra thật lạ, cảm giác giống như tiếng kim loại. Mối nghi ngờ trỗi dậy, rõ ràng là gỗ sao lại gõ nghe có tiếng kim loại chứ? Quá đỗi tò mò, tôi tiếp tục dùng tua-vít cắm vào đầu không khắc hoa văn của tấm gỗ, vặn siết mấy vòng, phát ra tiếng cót ca cót két ghê tai. Nhưng quan sát tấm gỗ, tuyệt nhiên không thấy để lại vết tích gì.

Khỉ thật! Đây là lại gỗ quỷ quái gì chứ, sao mà cứng thế không biết, tôi bực mình lẩm bẩm chửi thầm.

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy không thể chần chừ được nữa, nếu bây giờ bỏ đi, căn nhà sau này sẽ thuộc quyền sở hữu của người khác, như vậy mọi công sức của tôi từ trước đến giờ đều đổ sông đổ biển hết.

Tôi quyết định dùng tua-vít cắm vào khe nối giữa gỗ và tường, tay trái giữ cố định, lấy cán gỗ làm điểm tỳ, tay phải ấn xuống, dùng hết sức bình sinh bẩy mạnh lên, làm bật cả một viên gạch ở bên cạnh. Thấy viên gạch sắp rơi xuống, tôi vội đưa tay ra đỡ lấy rồi nhẹ nhàng đặt xuống đất.

Thấy đã sắp thành công, tôi không dám để lỡ thời gian, liền cậy nốt ba viên gạch còn lại, cả tấm gỗ được chôn sâu vào trong. Tôi hít một hơi, từ từ thò hai tay vào nhẹ nhàng nhấc tấm gỗ ra.

Tấm gỗ không nhỏ, dài khoảng 20 cen-ti-mét, rộng khoảng 3 cen-ti-mét, hình chữ nhật vuông vức, bề mặt không đánh véc-ni nên vẫn còn giữ những vân gỗ tự nhiên, các đầu góc tròn trịa, nhẵn bóng, nặng khoảng 3,5 - 4 ki-lô-gam.

Tôi lật tấm gỗ lại, phát hiện những hoa văn đó quấn xung quanh thân gỗ, hai đầu gặp nhau ở mặt sau, chính là hai đầu rồng đối nhau. Mặc dù được tạo thành từ chuỗi lỗ nhỏ li ti nhìn có vẻ đơn giản nhưng lại cực kỳ tinh xảo, có thần thái. Đôi rồng nhe nanh giơ vuốt, vẩy rồng sắc nét, ở thế chuẩn bị gào thét bay lên. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, đây lại là con rồng một thân hai đầu không có đuôi. Sợ ở trong phòng quá lâu, tôi không tiện ngắm kỹ, nhanh tay ghép những viên gạch vào chỗ cũ, lấy bột bả nhét đầy chỗ trống, rồi dùng loại keo cực dính dán lại tấm dán tường cẩn thận.

Tôi đứng ngắm nghía cẩn thận, trông hoàn toàn nguyên vẹn, chắc sẽ không bị ai phát hiện ra, sau đó tôi gập chiếc ghế gấp lại, kéo ra xa. Nhìn tấm gỗ dưới nền nhà, tôi không biết tính thế nào, hôm nay quên không mang túi xách, lại mặc ít quần áo, làm thế nào mang ra ngoài bây giờ.

Rất nhiều suy nghĩ ập đến, nhưng mãi vẫn không nghĩ ra cách gì ổn thoả, tôi sốt ruột đi lòng vòng trong phòng, toát cả mồ hôi trán. Lúc nghiêng đầu lau mồ hôi, tôi chợt nhìn thấy mấy thùng sách xếp trước cửa sổ, một ý nghĩ loé lên trong đầu. Đã có cách!

Tôi vội chạy lại, chọn một cuốn to nhất, dày nhất, bìa màu xanh đậm, hình như là cuốn lý thuyết tranh sơn dầu gì gì đó. Đặt cuốn sách xuống sàn nhà, tôi lật trang bìa cứng ra, rồi sau đó bắt chước nhân vật chính trong phim Nhà tù Shawshank, cầm tua-vít đâm mạnh nhiều nhát vào những trang sách bên trong. Vụn giấy bay tả tơi, ruột sách bị khoét thành một hình chữ nhật. Tôi nhét tấm gỗ vào trong, gập bìa sách lại, vừa khít, không thấy gì bất thường.

Tôi nhanh chóng vơ gọn chỗ vụn giấy bỏ vào bồn rửa mặt, bật lửa đốt sạch, sau đó vặn vò xả sạch tro tàn. Quay trở ra, cầm cuốn sách lên, suy nghĩ một lát, tôi liền đặt nó lên phía trên cùng đống sách. Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất, điều này đương nhiên tôi hiểu. Tiếp đó, tôi khom người đi ra ban công, vơ lấy một nắm đất, quay lại cửa phòng khách, rắc đều quanh diện tích khoảng chừng một mét vuông. Khi khoá cửa, tôi còn dứt một sợi tóc nhét vào khe cửa rồi nhanh chóng bước xuống lầu.

Nhà cậu tôi ở cạnh trường Đảng cũ Thạch Kiều Tử, ngay sát trường Đại học Công nghiệp Liêu Ninh, cũng rất gần với khu tập thể công ty Thạch Hoá, là khu đông dân cư, rất nhiều cửa hàng cửa hiệu lớn nhỏ được xây dựng dọc hai bên đường. Tôi đút hai tay vào túi quần, nhìn quanh quất xung quanh, rồi bước vào một quán ăn nhỏ ven đường, gọi món bánh cảo thịt bò và một đĩa dưa chuột dầm ăn lót dạ.

Lúc đó vừa đúng giờ cơm trưa, trong quán chật kín chỗ, tiếng người cười nói ồn ào, hầu hết đều là sinh viên trường đại học quanh đó. Việc ăn trưa tại đây cũng đã được tôi tính toán trước. Những kẻ theo dõi chắc chắn không muốn bị tôi nghi ngờ, nên sẽ đợi ngoài cửa, tạo cơ hội để tôi có thời gian tính toán đem tấm gỗ ra bằng cách nào.

Tôi nhai trệu trạo, trong đầu cứ nghĩ mãi tại sao cậu lại chôn tấm gỗ vào trong tường, tại sao chất gỗ lại cứng đến thế, lẽ nào cậu phát hiện ra loại vật chất mới?

Tôi thầm nghĩ: Khỉ thật! Cứ như chuyện khoa học viễn tưởng vậy, chả khác gì Vệ Tư Lý[1]. Thế nhưng bây giờ đã tìm được tấm gỗ, đồng thời cũng đã nguỵ trang cẩn thận rồi, việc cần làm lúc này là tìm đưa nó ra ngoài một cách hợp tình hợp lý. Nhưng tấm gỗ quá lớn, không thể giấu bên người được, kể cả chờ đến chiều tối mới cắp cuốn sách đi ra cũng không phải là thượng sách.

[1] Tên nhân vật trong seri truyện Hệ Tư Lý hệ liệt cuả nhà văn Hồng Kông nổi tiếng Nghê Khuông.

Đang lúc suy nghĩ miên man, phía sau chợt vang lên tiếng cười nói của mấy nam sinh viên, có người còn gõ bàn đập ghế phụ hoạ nữa, chẳng biết có chuyện gì mà họ lại vui như vậy.

Đang sẵn bực bội, tôi định quay lại nhắc nhở, nhưng mấy câu nói tiếp theo của các cậu sinh viên đã khiến tôi lập tức dừng ngay ý nghĩ đó. Tội dựng tai nghe ngóng thông tin, phân tích trong đầu, rồi ngay lập tức nghĩ ra một sáng kiến, có thể nói là vô cùng tuyệt vời.

Tôi vội vàng ăn sạch cơm canh, đứng dậy đi sang bàn bên cạnh bắt chuyện. Khi biết các em đều là sinh viên khoa thiết kế nghệ thuật trường Đại học Công nghiệp Liêu Ninh, tôi liền nói dối là hôm nay chuyển nhà, hỏi họ có muốn mua một số sách lý luận giá rẻ không.

Trí nhớ của tôi rất tốt, để gợi thêm sự tò mò của họ, tôi kể ra cài tên sách đã xem qua ở nhà cậu. Bọn họ quả nhiên rất hứng thú, nhất là khi nghe đến giá cả, liền lập tức tỏ ý muốn mua.

Lúc này, trưởng nhóm cửu vạn gọi điện cho tôi, nói họ đã ăn cơm xong, buổi chiều khi nào có thể tiếp tục làm. Tôi vội vàng thanh toán, kéo theo mấy sinh viên đó về nhà cậu, bảo họ đợi dưới tầng.

Lúc mở cửa, tôi che người chắn tầm nhìn của mấy tay cửu vạn đứng phía sau, cố tình thực hiện các động tác thật chậm, quan sát tỉ mỉ lỗ khoá thấy không phát hiện điều gì bất thường, nhưng sợi tóc ở khe cửa thì không thấy đâu nữa.

Tôi cắn răng cười khẩy một tiếng, cũng khá nhanh đây, trong lúc tôi đi ăn cơm đã có kẻ chui vào rồi. Đây được coi là nghệ thuật mở khoá điển hình, sử dụng công cụ đặc biệt kết hợp thủ pháp điêu luyện để mở lõi khoá trong khi vẫn giữ nguyên bề ngoài khoá. Xem ra bọn chúng không những là hắc thủ mà còn là cao thủ.

Bước vào phòng, tôi nhìn thấy lớp đất trên mặt sàn xuất hiện những vết chân mới, kích thước khá to, có lẽ là của đàn ông, hướng về cả trước và sau. Liếc nhìn cuốn sách, lạy trời lạy đất nó vẫn còn nguyên.

Tôi mừng thầm trong bụng, biết chúng không phát hiện ra điều gì, liền yêu cầu đội cửu vạn khiêng mấy thùng sách đó xuống chỗ khô ráo dưới tầng, xếp chật kín một khoảng.

Tôi nhấc quyển sách lên, thấy nặng tay biết là tấm gỗ vẫn còn đó, liền tiện tay kê xuống dưới mông, ngồi chào mời sinh viên đến xem sách.

Do giá tôi đưa ra rất rẻ nên các bạn sinh viên mua khá nhiều, còn gọi thêm các bạn bè đến xem. Chỉ trong một buổi trưa, sách đã bán gần hết, chỉ còn lại hai quyển, tôi đem tặng nốt cho cô bé đeo kính.

Nhìn cô bé ôm sách mừng rỡ bước đi, tôi bề ngoài vừa giả vờ như đang hóng mát đếm số tiền lẻ trong tay, nhưng trong lòng căng thẳng vô cùng. Nếu lúc này bọn chúng thừa cơ đến tấn công, chỉ cần lật giở bìa sách thì mọi chuyện sẽ bị lộ tẩy hết.

Ít phút sau, mấy tay cửu vạn hò nhau khuân đồ cuối cùng xuống, tôi mới thở phào nhẹ nhõm, nhặt cuốn sách lên, rồi cùng họ lên chiếc xe chở hàng đã thuê từ trước đó.

Sau khi vận chuyển đến tận nơi người nhận, thanh toán nốt số tiền còn lại, chúng tôi tiếp tục lái xe trở về. Đến cổng khu chung cư nơi tôi ở, trước khi xuống xe, tôi đem mấy món đồ thủ công mỹ nghệ đã chọn trước đó và cả cuốn sách xếp vào trong chiếc thùng các-tông khá to, nhẹ nhàng ôm trước ngực, thong thả bước về nhà.

Mấy bước đường ngắn ngủi, nhưng trên quãng đường hơn năm mươi mét ấy, tôi tuy vẻ ngoài thong dong nhưng trong lòng hồi hộp căng thẳng tột cùng.

Tôi đi rất chậm, nhìn dáo dác xung quanh, miệng lẩm nhẩm huýt sáo, thậm chí ngay cả lúc cúi xuống thắt dây giầy tôi còn cố tình đạt chiếc thùng xuống bên cạnh, mục đích là để cho những “con mắt” kia nhìn thấy ngay bên trong toàn những đồ linh tinh.

Vừa bước qua cửa nhà, tôi lập tức quay người lại nín thở, áp sát tai vào cánh cửa, cố gắng nghe ngóng động tĩnh phía ngoài. Khoảng năm phút, xác định không có người theo dõi, tôi mới nhón chân bước vào phòng khách, đặt chiếc thùng xuống đất, lấy tấm gỗ ra, ngồi trên ghế sô-pha bắt đầu quan sát cẩn thận.

Tôi lấy tay áo lau qua bụi trên bề mặt, tấm gỗ trở nên bóng đỏ, thậm chí còn có cảm giác trong suốt như pha lê, bốn cạnh được đánh ráp cẩn thận, ngoài hình chạm rồng ra, không chỗ nào có dấu hiệu bị sứt mẻ hay mục ruỗng.

Hình rồng được chạm trổ hết sức kỳ quặc, không phải là chạm trổ thông thường mà được tạo thành bởi những lỗ nhỏ li ti nối liền với nhau, mỗi lỗ chỉ nhỏ bằng đầu tóc, đâm sâu vào thân gỗ, ngoài rìa được sơn bằng loại sơn dầu màu đỏ sẫm, thấm sâu vào thân gỗ, lan toả đều các lỗ, khiến ta có cảm giác như màu sắc tự nhiên. Đưa tấm gỗ lên mũi ngửi, thấy có mùi thơm nhẹ đặc trưng của gỗ.

Tôi lật đi lật lại tấm gỗ, quan sát tới hơn chục phút, ngoài cảm giác nặng tay, tôi chẳng nhận ra thêm điều gì. Cong tay gõ vài nhát, thấy có tiếng vang dứt khoát, giống y hệt âm thanh của kim loại.

Mất cả một buổi chiều chẳng làm gì, chỉ ôm tấm gỗ hồng mộc xem xét, đến tối, tôi ăn vội mấy miếng mì gói, kéo rèm cửa sổ phòng ngủ lại, đặt tấm gỗ phía dưới đèn bàn quan sát, nhưng dù ở góc độ nào, nguồn sáng nào thì tầm gỗ vẫn chẳng có gì khác thường.

Không hề nản chí, tôi tiếp tục bê chậu nước ra, nhẹ nhàng đặt tấm gỗ xuống, gợn nước từ từ lan ra, những lỗ li ti của hình chạm rồng tạo ra vô số bọt nước bé xíu trên mặt nước rồi lần lượt vỡ tan biến. Rất lâu, tôi vẫn chẳng thấy phản ứng gì.

Tôi lấy khăn mặt lau khô tấm gỗ, đặt lên bàn, khoanh chân ngồi trên chiếc giường đối diện, tay chống cằm, lặng lẽ quan sát, tuyệt nhiên không thấy dấu vết gì. Cậu tôi đã mất công cất giấu kỹ như vậy, rốt cuộc tấm gỗ hồng mộc chết tiệt này ẩn chứa bí mật gì đây? Lúc này tôi không thể giao nó cho đơn vị để tiến hành giám định kỹ thuật, cũng không thể mạo hiểm dùng ngoại lực tháo rời, thế nhưng nếu chỉ ngồi suy luận lung tung cũng không phải cách hay. Nghĩ vậy, tôi quyết định tạm thời gác những thứ đó lại, tiếp tục lên kế hoạch các bước tiếp theo.