Thường Hà cũng vì thành tích này mà được Lý Mật trọng thưởng, không chỉ được hơn mười nghìn xấp lụa mà còn được Lý Mật đem đao và ngựa chiến của Trương Tu Đà thưởng cho y. Nhưng sau đó không lâu, vì mối bất hòa giữa Lý Mật và Địch Nhượng, Thường Hà thường qua lại với Địch Nhượng nên cũng bị loại trừ.
Y rời khỏi quân của Ngõa Cương, không lâu sau đó lại đầu hàng triều Đường. Vì một muội muội của y được Lý Kiến Thành sủng ái và được phong làm Trắc Phi, cho nên Thường Hà trở thành đại tướng quân thân tín của Lý Kiến Thành,hết sức được trọng dụng.
Dưới ánh đèn, Thường Hà ngồi xuống chiếc giường nhỏ nhìn chăm chú vào thanh đao trên bàn, lòng nặng trĩu nỗi buồn, đây là thanh đao gia tộc của Trương Tu Đà, được gọi là Thất Linh Lãnh Nguyệt đao, vô cùng sắc bén.
Trước đây khi y nhận được thanh đao này đã vô cùng phấn khởi, nhưng Đơn Hùng Tín nhìn thấy thanh đao này lại lạnh lùng cảnh báo y, Thường Hà y chắc chắn sẽ chết bởi chính thanh đao này.
Không lâu sau, Thường Hà mới hiểu rõ lời cảnh báo thâm sâu của Đơn Hùng Tín, vì y đã phát hiện ngoài dòng chữ “đao của Trương Tu Đàn” khắc trên thanh đao, còn khắc bốn chữ nhỏ: “ truyền đồ Nguyên Khánh”.
Điều này làm cho Thường Hà vô cùng kinh sợ, người tên Nguyên Khánh đương nhiên y biết đó là ai, y có mối thâm thù với Dương Nguyên Khánh, cả đời này y đừng hòng mà sống yên ổn. Cho dù Thái Tử Kiến Thành không ngừng an ủi y, nhưng trong lòng y hiểu rõ, tới một ngày nào đó, sợ rằng Lý Kiến Thành cũng khó lòng bảo toàn tính mạng mình.
Dưới ngọn đèn, Thường Hà từ từ rút chiến đao ra, lưỡi kiếm uy nghiêm đáng sợ như vầng trăng lạnh lùng trên cao, trên chuôi đao có khảm nạm bảy viên bảo thạch, rạng rỡ chiếu dưới ánh đèn, sáng bóng và mỹ lệ, nhưng cũng chính dưới bảy viên bảo thạch đó là bốn chữ được chạm khắc vô cùng tỉ mỉ rõ ràng “truyền đồ Nguyên Khánh”.
Thường Hà thở dài một tiếng, thu đao vào trong bao, chắp tay đi ra lều. Ánh trăng bên ngoài lạnh lùng, trăng hôm nay cũng sắp tròn rồi, qua mấy ngày nữa là đến tết Trung Nguyên rằm tháng bảy, đó là ngày lễ tế cho các vong hồn, là ngày không mấy tốt đẹp, Thường Hà trong lòng có chút phiền não, chắp tay sau lưng đi qua mấy lều, rồi dần dần tiến tới ngôi lều của Tề vương Lý Nguyên Cát.
Bốn mặt của lều trại đều có thân binh canh gác, y không tiến vào được, nhưng y lại nghe đâu đó có tiếng con gái khóc, Thường Hà nhíu đôi lông mày lại, vừa nãy có binh lính báo cáo với y, thân binh của Tề Vương bắt được mấy người phụ nữ, y còn có chút không tin, bây giờ xem ra đúng là như vậy.
Thường Hà lắc đầu, Tề vương thực sự không biết tốt xấu là gì, còn mang nữ nhân vào trong doanh trại, sẽ gây ra nhiều phản cảm đối với các tướng lĩnh khác, có lẽ y là thân vương, y có đặc quyền chơi đùa với nữ nhi, nên mọi người không dám lên tiếng.
Nhưng vì mấy người phụ nữ mà đóng quân bên cạnh trấn Trù Tang, thì không phải là một vị chủ tướng sáng suốt rồi, địa thế vùng này trống trải mênh mông, rất có lợi cho kị binh tấn công, mà hướng về mười mấy dặm nữa là dốc chặn ngựa, đó là khu địa hình nhấp nhô, hoàn toàn bất lợi cho kị binh, Tề vương lại không đóng quân tại chính chỗ đó.
Mặc dù Thường Hà hiểu rõ điểm này, nhưng y lại không dám khuyên bảo Tề vương, con mắt nham hiểm của Tề vương làm y cảm thấy sợ, Thường Hà chỉ thở dài một tiếng rồi quay đầu trở về, đúng lúc đó gặp phải đại tướng tuần tra Trương Thanh.
- Tình hình bên ngoài thế nào?
Thường Hà hỏi.
- Bẩm Thường tướng quân, bên ngoài không có động tĩnh gì, cũng chưa có dấu hiệu gì khác thường.
- Ừ!
Thường Hà như trút được gánh nặng, dặn dò binh sĩ:
- Phải tăng cường phòng bị, không được để xảy ra bất cứ sơ suất gì.
Đúng lúc này, phía sau trong doanh trại có tiếng một người khàn khàn kêu la:
- Điện hạ, người không thể hoang dâm như vậy, việc này sẽ hủy hoại người!
Thường Hà quay đầu lại, y nghe thấy tiếng Trưởng sử phủ Tề vương Vũ Văn Hâm, cuối cùng cũng có người lên tiếng khuyên ngăn Lý Nguyên Cát, Thường Hà không muốn chuốc họa vào thân, bèn vội vã trở về lều của mình.
Trong lều của Tề vương Lý Nguyên Cát, mấy thân binh đang ngăn cản Trưởng sử Vũ Văn Hâm, không cho ông ta tiến gần tới lều của Tề vương, Vũ Văn Hâm quỳ sụp xuống đất, ông ta giận đến nỗi cả người run lên.
Khi Lý Nguyên Cát còn trấn thủ Thái Nguyên, Vũ Văn Hâm lúc đó là Lục Sự Tham Quân dưới trướng của Tề vương, sau này bị quân Tùy bắt làm tù binh, khi Tùy Đường kí kết hiệp định hòa giải nên đã được thả về Trường An, Lý Uyên thấy ông ta trung thành, liền phong cho ông làm Trưởng sử phủ Tề Vương, có trách nhiệm tiếp tục dạy dỗ Tề vương.
Vũ Văn Hâm năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, nhưng râu tóc đã bạc trắng, thoạt nhìn trông lão rất già nua, giống như ông lão sáu mươi tuổi. Lão vừa nghe nói Tề vương bắt nữ giới để mua vui, khiến lão sợ hãi vội vàng tới ngăn cản.
Vũ Văn Hâm nghe tiếng khóc nỉ non của mấy người con gái kia, mà lão cũng kêu lên như thế, Tề Vương dĩ nhiên ngoảnh mặt làm ngơ, trong lòng lão vô cùng tức giận, không thể chịu đựng được nữa, đành phải ra đòn sát thủ này, lão lớn tiếng nói to:
- Tề Vương người còn dám làm điều hoang dâm đó, lão thần sẽ bẩm báo lên Hoàng Thượng!
Câu nói này có hiệu quả tức thì, chỉ trong chốc lát, màn trướng vén lên, mùi rượu nồng nặc khắp người, Lý Nguyên Cát cởi trần từ trong lều rảo bước đi ra, trong tay cầm bảo kiếm, y nghe thấy Vũ Văn Hâm định tâu lên phụ hoàng, không khỏi giận tím mặt, vung thanh bảo kiếm lên, chỉ vào Vũ Văn Hâm nói:
- Lão tặc, ngươi dám uy hiếp ta!
Vũ Văn Hâm giận điên lên, Lý Nguyên Cát lại gọi lão là lão tặc, lão liền gân cổ lên nói:
- Người giết thần đi! Thần thà chết chứ không muốn hầu hạ một tên hoang dâm như người.
Trong mắt của Lý Nguyên Cát đằng đằng sát khí, vung kiếm lên nhậ vào cổ của Vũ Văn Hâm. Vũ Văn Hâm thấy y thật sự muốn giết mình, trong lòng đầy ngao ngán, nhắm mắt lại chờ chết. Nhìn thấy trường kiếm sắp chạm vào cổ của Vũ Văn Hâm, mấy tên thân binh thấy vậy sợ hãi quỳ xuống, kéo tay ngăn Lý Nguyên Cát lại:
- Điện hạ, không thể giết Trưởng sử được, nếu giết ông ta Điện hạ không biết phải ăn nói thế nào với Hoàng Thượng.
Lý Nguyên Cát dần dần bình tĩnh lại, thu kiếm về, nổi giận hét lên một tiếng:
- Cút, ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa.
Một tiếng “cút” cũng khiến Vũ Văn Hâm như rơi xuống hố hàn băng, lão từ từ đứng lên, run lẩy bẩy nói:
- Được! Thần đi, điện hạ bảo trọng.
Lão tập tễnh bước về phía cửa doanh trại. Đi được mười mấy bước đột nhiên lão quay đầu lại chỉ vào Lý Nguyên Cát hét to:
- Người cứ việc hoang dâm vô đạo, chuyện sống chết của người không can hệ gì đến ta nữa.
Nói xong lão xoay người quay đi, Lý Nguyên Cát nhìn theo bóng lão với con mắt lạnh lùng, đợi cho lão đi xa một chút ra lệnh cho mấy tên lính:
- Theo lão ra đến ngoài doanh trại, ra đến ngoài thì giết lão cho ta.
....
Cách đại bản doanh của quân Đường năm dặm, hơn hai mươi ngàn quân Tùy đã phục kích xung quanh trấn Trù Tang, đang dần dần áp sát mục tiêu. Bọn chúng trốn trong một khu rừng, không tiếp tục tiến về phía trước nữa, bởi phía trước có quân Đường tuần tra. Hai đội quân khoảng trăm người thám báo đang tìm cách tiến lên, chuẩn bị ra tay giết sạch quân tuần tra của quân Đường để mở đường cho quân Tùy xông lên.
Dương Nguyên Khánh đang hướng tầm nhìn về phía đại bản doanh phía xa, cách đó khoảng năm dặm. Dưới ánh trăng sáng rõ, hắn lờ mờ nhìn thấy doanh trại đen thui ở phía xa kia, quân Đường vậy mà lại dựng lều trại ở ngay đồng cỏ rộng bao la, địa hình vô cùng bằng phẳng, đây quả thật nằm ngoài dự đoán của Dương Nguyên Khánh, đây chẳng phải là mời chào kị binh của hắn đến giết sao?
Lúc này, La Sĩ Tín cũng đã nhận thấy sự bất hợp lý trong cách đóng quân của địch, vội thấp giọng bẩm báo:
- Tổng quản, quân Đường đóng quân ở một bãi cỏ hoang vu, đó có phải là kế dụ binh của bọn chúng?
Dương Nguyên Khánh chậm rãi lắc đầu nói:
- Một quân vương ngay cả trong lúc chiến tranh cũng không thể không nghĩ tới phụ nữ, thì y còn có thể nghĩ được kế gì?
La Sĩ Tín ngoảnh đầu lại nhìn chăm chú vào đại bản doanh của quân Đường. Giọng y dần dần trầm xuống:
- Sư huynh biết Thường Hà không?
Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Tại sao bây giờ lại gọi mình là sư huynh, rồi vội nghĩ tới chuyện khác, hắn liền hiểu ngay, gật đầu:
- Người này ta biết, y đã từng là đại tướng của Lý Mật, trong trận chiến ở chùa Đại Hải y cũng có mặt.
Ban đầu khi nghe tin sư phụ tử trận, Dương Nguyên Khánh hận y thấu xương như hận Lý Mật vậy, thậm chí Dương Nguyên Khánh còn xin thề sẽ nghiền nát y ra thành tro bụi, nhưng thời gian trôi qua đã dần dần làm phai nhạt mối thù trong lòng hắn.
Dẫu sao sư phụ cũng đã tử trận, cuối đời Tùy anh hùng khắp nơi, hào kiệt nhiều vô số, có thể chết trên sa trường, lưu danh muôn đời, chẳng phải cũng là vinh quang hay sao?
Giống như lời khuyên nhủ của hòa thượng Phổ Tịnh với Quan Vũ:
- Nếu muốn báo thù, thế thì Nhan Lương, Văn Sú phải tìm ai mà báo thù đây?
Một người lúc nào cũng mang trong lòng mối hận thù, thì nội tâm thế nào cũng sẽ hẹp hòi, nếu trong lòng hẹp hòi như thế, thì làm sao có thể nắm được cả thiên hạ.
Dương Nguyên Khánh nếu khắc sâu mối thù của sư phụ, thì làm sao có thể kí hiệp ước đồng minh với Lý Mật được, nếu không ký hiệp ước đồng minh với Lý Mật, thì Lý Mật làm sao có thể đem Trung Nguyên cung kính dâng hai tay lên cho hắn, bằng không Lý Mật chắc chắn đã góp một phần sức lực giúp quân Đường trong trận Toánh Xuyên rồi, lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa biết được.
Đúng lúc này, phía sau trong doanh trại có tiếng một người khàn khàn kêu la:
- Điện hạ, người không thể hoang dâm như vậy, việc này sẽ hủy hoại người!
Thường Hà quay đầu lại, y nghe thấy tiếng Trưởng sử phủ Tề vương Vũ Văn Hâm, cuối cùng cũng có người lên tiếng khuyên ngăn Lý Nguyên Cát, Thường Hà không muốn chuốc họa vào thân, bèn vội vã trở về lều của mình.
Trong lều của Tề vương Lý Nguyên Cát, mấy thân binh đang ngăn cản Trưởng sử Vũ Văn Hâm, không cho ông ta tiến gần tới lều của Tề vương, Vũ Văn Hâm quỳ sụp xuống đất, ông ta giận đến nỗi cả người run lên.
Khi Lý Nguyên Cát còn trấn thủ Thái Nguyên, Vũ Văn Hâm lúc đó là Lục Sự Tham Quân dưới trướng của Tề vương, sau này bị quân Tùy bắt làm tù binh, khi Tùy Đường kí kết hiệp định hòa giải nên đã được thả về Trường An, Lý Uyên thấy ông ta trung thành, liền phong cho ông làm Trưởng sử phủ Tề Vương, có trách nhiệm tiếp tục dạy dỗ Tề vương.
Vũ Văn Hâm năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, nhưng râu tóc đã bạc trắng, thoạt nhìn trông lão rất già nua, giống như ông lão sáu mươi tuổi. Lão vừa nghe nói Tề vương bắt nữ giới để mua vui, khiến lão sợ hãi vội vàng tới ngăn cản.
Vũ Văn Hâm nghe tiếng khóc nỉ non của mấy người con gái kia, mà lão cũng kêu lên như thế, Tề Vương dĩ nhiên ngoảnh mặt làm ngơ, trong lòng lão vô cùng tức giận, không thể chịu đựng được nữa, đành phải ra đòn sát thủ này, lão lớn tiếng nói to:
- Tề Vương người còn dám làm điều hoang dâm đó, lão thần sẽ bẩm báo lên Hoàng Thượng!
Câu nói này có hiệu quả tức thì, chỉ trong chốc lát, màn trướng vén lên, mùi rượu nồng nặc khắp người, Lý Nguyên Cát cởi trần từ trong lều rảo bước đi ra, trong tay cầm bảo kiếm, y nghe thấy Vũ Văn Hâm định tâu lên phụ hoàng, không khỏi giận tím mặt, vung thanh bảo kiếm lên, chỉ vào Vũ Văn Hâm nói:
- Lão tặc, ngươi dám uy hiếp ta!
Vũ Văn Hâm giận điên lên, Lý Nguyên Cát lại gọi lão là lão tặc, lão liền gân cổ lên nói:
- Người giết thần đi! Thần thà chết chứ không muốn hầu hạ một tên hoang dâm như người.
Trong mắt của Lý Nguyên Cát đằng đằng sát khí, vung kiếm lên nhằm vào cổ của Vũ Văn Hâm. Vũ Văn Hâm thấy y thật sự muốn giết mình, trong lòng đầy ngao ngán, nhắm mắt lại chờ chết. Nhìn thấy trường kiếm sắp chạm vào cổ của Vũ Văn Hâm, mấy tên thân binh thấy vậy sợ hãi quỳ xuống, kéo tay ngăn Lý Nguyên Cát lại:
- Điện hạ, không thể giết Trưởng sử được, nếu giết ông ta Điện hạ không biết phải ăn nói thế nào với Hoàng Thượng.
Lý Nguyên Cát dần dần bình tĩnh lại, thu kiếm về, nổi giận hét lên một tiếng:
- Cút, ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa.
Một tiếng “cút” cũng khiến Vũ Văn Hâm như rơi xuống hố hàn băng, lão từ từ đứng lên, run lẩy bẩy nói:
- Được! Thần đi, điện hạ bảo trọng.
Lão tập tễnh bước về phía cửa doanh trại. Đi được mười mấy bước đột nhiên lão quay đầu lại chỉ vào Lý Nguyên Cát hét to:
- Người cứ việc hoang dâm vô đạo, chuyện sống chết của người không can hệ gì đến ta nữa.
Nói xong lão xoay người quay đi, Lý Nguyên Cát nhìn theo bóng lão với con mắt lạnh lùng, đợi cho lão đi xa một chút ra lệnh cho mấy tên lính:
- Theo lão ra đến ngoài doanh trại, ra đến ngoài thì giết lão cho ta.
....
Cách đại bản doanh của quân Đường năm dặm, hơn hai mươi ngàn quân Tùy đã phục kích xung quanh trấn Trù Tang, đang dần dần áp sát mục tiêu. Bọn chúng trốn trong một khu rừng, không tiếp tục tiến về phía trước nữa, bởi phía trước có quân Đường tuần tra. Hai đội quân khoảng trăm người thám báo đang tìm cách tiến lên, chuẩn bị ra tay giết sạch quân tuần tra của quân Đường để mở đường cho quân Tùy xông lên.
Dương Nguyên Khánh đang hướng tầm nhìn về phía đại bản doanh phía xa, cách đó khoảng năm dặm. Dưới ánh trăng sáng rõ, hắn lờ mờ nhìn thấy doanh trại đen thui ở phía xa kia, quân Đường vậy mà lại dựng lều trại ở ngay đồng cỏ rộng bao la, địa hình vô cùng bằng phẳng, đây quả thật nằm ngoài dự đoán của Dương Nguyên Khánh, đây chẳng phải là mời chào kị binh của hắn đến giết sao?
Lúc này, La Sĩ Tín cũng đã nhận thấy sự bất hợp lý trong cách đóng quân của địch, vội thấp giọng bẩm báo:
- Tổng quản, quân Đường đóng quân ở một bãi cỏ hoang vu, đó có phải là kế dụ binh của bọn chúng?
Dương Nguyên Khánh chậm rãi lắc đầu nói:
- Một quân vương ngay cả trong lúc chiến tranh cũng không thể không nghĩ tới phụ nữ, thì y còn có thể nghĩ được kế gì?
La Sĩ Tín ngoảnh đầu lại nhìn chăm chú vào đại bản doanh của quân Đường. Giọng y dần dần trầm xuống:
- Sư huynh biết Thường Hà không?
Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Tại sao bây giờ lại gọi mình là sư huynh, rồi vội nghĩ tới chuyện khác, hắn liền hiểu ngay, gật đầu:
- Người này ta biết, y đã từng là đại tướng của Lý Mật, trong trận chiến ở chùa Đại Hải y cũng có mặt.
Ban đầu khi nghe tin sư phụ tử trận, Dương Nguyên Khánh hận y thấu xương như hận Lý Mật vậy, thậm chí Dương Nguyên Khánh còn xin thề sẽ nghiền nát y ra thành tro bụi, nhưng thời gian trôi qua đã dần dần làm phai nhạt mối thù trong lòng hắn.
Dẫu sao sư phụ cũng đã tử trận, cuối đời Tùy anh hùng khắp nơi, hào kiệt nhiều vô số, có thể chết trên sa trường, lưu danh muôn đời, chẳng phải cũng là vinh quang hay sao?
Giống như lời khuyên nhủ của hòa thượng Phổ Tịnh với Quan Vũ:
- Nếu muốn báo thù, thế thì Nhan Lương, Văn Sú phải tìm ai mà báo thù đây?
Một người lúc nào cũng mang trong lòng mối hận thù, thì nội tâm thế nào cũng sẽ hẹp hòi, nếu trong lòng hẹp hòi như thế, thì làm sao có thể nắm được cả thiên hạ.
Dương Nguyên Khánh nếu khắc sâu mối thù của sư phụ, thì làm sao có thể kí hiệp ước đồng minh với Lý Mật được, nếu không ký hiệp ước đồng minh với Lý Mật, thì Lý Mật làm sao có thể đem Trung Nguyên cung kính dâng hai tay lên cho hắn, bằng không Lý Mật chắc chắn đã góp một phần sức lực giúp quân Đường trong trận Toánh Xuyên rồi, lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa biết được.
La Sĩ Tín cảm thấy sự bình tĩnh trong lời nói của Dương Nguyên Khánh, y cũng không nói thêm gì nữa, y biết trong lòng sư huynh chỉ có thiên hạ, sẽ không quá chú tâm vào cái chết của sư phụ.
Còn y sẽ không quên, cảnh khốn cùng khi sư phụ bị bao vây, y không kịp trở về, khi y liều mạng quay trở về, đầu của sư phụ đã bị Thường Hà mang đi rồi, người này có mối thù không đội trời chung với y, không giết được Thường Hà, La Sĩ Tín y thề không làm người.
Vào đúng lúc này, đại bản doanh của quân Đường đột nhiên truyền đi một tiếng cảnh báo gấp rút
- Keng! Keng! Keng...
Doanh trại của quân Đường mặc dù cách đây khoảng năm dặm, nhưng đêm khuya tĩnh mịch, bọn họ vẫn nghe thấy rõ, Dương Nguyên Khánh ngẩn người ra, làm sao lại bị phát hiện vậy?
Một đội thám báo vội chạy về, bọn chúng dẫn theo một gã quan văn, khắp người đầy máu, đã rơi vào trạng thái nửa hôn mê. Giáo Úy thám báo dẫn đầu vẻ mặt lo sợ, tiến lên phía trước, chắp tay bẩm báo với Dương Nguyên Khánh:
- Khởi bẩm Tổng quản, chúng tôi phát hiện ra có mười mấy binh sĩ quân Đường đang truy sát người này, chúng tôi cũng thấy đám người đó chạy về hướng mình bèn ra tay chặn lại, không ngờ mười mấy tên địch võ nghệ cao cường đã bị quân chúng ta chết mười ba người, hai người còn lại chạy thoát, đã về cảnh báo quân Đường, là do ty chức bất tài, xin Tổng quản xử phạt!
Dương Nguyên Khánh nhận ra vị quan văn người đẫm máu kia chính là Trưởng sử phủ Tề vương Vũ Văn Hâm, lão từng bị bắt trong trận đánh ở Thái Nguyên, từ đầu tới cuối không chịu khuất phục, lão ta làm sao lại bị truy sát vậy?
Vũ Văn Hâm lúc này vẫn chưa hoàn toàn hôn mê, trong lòng lão biết rõ ai, thì thào nói:
- Đa tạ Sở vương điện hạ... đã cứu ta, là tên nghiệp chướng Tề vương… muốn giết ta.
Dương Nguyên Khánh thấy lão chảy quá nhiều máu, vô cùng suy kiệt, vội ra lệnh:
- Nhanh đưa lão đến quân y điều trị.
Binh sĩ liền dẫn Vũ Văn Hâm lui đi, lúc này, mấy vị tướng quân như La Sĩ Tín, Trình Giảo Kim và Tạ Ánh Đăng lần lượt vây tới xin đánh:
- Tổng quản, xin cho mạt tướng dẫn binh đột phá doanh trại quân địch.
Dương Nguyên Khánh vốn dự định đánh úp bản doanh trại của quân Đường, nhưng lại bị quân địch phát hiện, xem ra kế đánh úp bất ngờ không thực hiện được rồi, hắn trầm ngâm một lúc nói:
- Lệnh cho đội mạch đao lên, mở một con đường tiến!
Trong số hai nghìn kị binh, Dương Nguyên Khánh cùng lúc dẫn theo một nghìn bộ binh mang theo mạch đao và áo giáp, bọn họ còn được trang bị thêm hai ngựa, một ngựa tự cưỡi, con ngựa còn lại vận chuyển mạch đao và áo giáp. Kế hoạch bị bại lộ, quân Tùy cũng không cần phải ngụy trang nữa, cứ thế xuyên qua rừng cây tấn công về phía đại bản doanh của quân Đường.
Khi chỉ cách doanh trại của quân Đường một dặm, bèn hạ lệnh cho cả đội quân dừng lại, lúc này một nghìn bộ binh mang mạch đao đã lập tức xuống ngựa mặc áo giáp vào. Trong tay cầm mạch đao, cả đội quân xếp thành hàng ngay ngắn.
Trận chiến đêm nay cũng giống như trận chiến đêm năm ngoái ở quận Hà Đông Giáng của Lý Thúc Lương, nhưng cũng có điểm khác biệt, chủ tướng quân Đường năm ngoái là tôn thất Lý Thúc Lương, còn năm nay là Tề vương Lý Nguyên Cát.
Năm ngoái tỷ lệ đối chọi giữa lực lượng quân Tùy và quân Đường là ba mươi nghìn và hai mươi nghìn quân, nhưng tối nay tỷ lệ đó là hai nghìn và ba nghìn quân. Năm ngoái quân Đường có hai mươi nghìn quân tinh nhuệ, còn tối nay chỉ là ba mươi nghìn tân binh, mùa thu năm ngoái quân Đường vừa mới chiêu mộ, cũng chưa từng tham gia trận chiến nào.
Lính gác của quân Đường phát hiện ra dưới ánh trăng một đoàn kị binh đông nghìn nghịt đang tiến tới, bọn chúng vội đánh chuông cảnh báo
- Keng! keng! Keng!...
Tiếng chuông cảnh báo inh tai nhức óc vang vọng khắp doanh trại.
Lúc này trong doanh trại quân Đường đã rối loạn hết lên, bọn lính lần lượt giật mình tỉnh giấc, vội vàng mặc giáp trụ, đội mũ giáp, tay cầm binh khí chạy nhanh ra ngoài lều.
Quân Đường đã sớm bắt đầu huấn luyện quân đội chiến đấu ban đêm, các nhánh quân này đều là tân binh, cũng đã thực hành đánh trận đêm nhiều lần.
Tiêu chuẩn tân binh của quân Đường chính là chưa từng tòng quân, nếu là binh lính trong phủ triều Tùy trước đây thì lập tức được đứng trong hàng ngũ quân đội chính quy, nếu chưa từng tham gia chiến đấu thì đó chính là tân binh, phải tham gia huấn luyện một năm.
Ba mươi nghìn tân binh này mặc dù đã trải qua thời gian huấn luyện một năm, bất kể là trong đóng quân hay hành quân đều đã nhuần nhuyễn rồi. Nhưng suy cho cùng họ vẫn chưa có kinh nghiệm thực tế chiến đấu, trận chiến đầu tiên của họ dĩ nhiên là giữa đêm, hơn nữa đối phương là hai mươi nghìn kị binh quân Tùy, nỗi sợ hãi trong lòng khiến họ nhốn nháo cả lên.
Trong lòng của Lý Nguyên Cát cũng có nỗi căng thẳng như thế, tập kích ban đêm của quân Tùy làm cho kế sách của y rối loạn cả lên. Việc đầu tiên y làm là từng đao từng đao một giết chết bốn nữ nhân kia, bây giờ là thời điểm đòi hỏi các binh sĩ vì y mà hi sinh, y không muốn vì bốn mụ đàn bà kia mà làm suy yếu lòng tận hiến của quân sĩ.
Lý Nguyên Cát đầu đội kim khôi, thân mặc ngân giáp, ên ngựa phi về phía đông doanh trại, quân Tùy từ phía đông đánh tới, phía đông trước đại bản doanh đã tập hợp đủ tám nghìn quân Đường với cung nỏ trong tay.
Phó tướng Thường Hà đang phóng ngựa đi qua đi lại, ra lệnh cho đội quân cung tiễn chỉnh đốn lại hàng ngũ. Y xuất thân từ đội quân Ngõa Cương, đã tham gia trăm trận rồi nên cũng dễ để chỉ đạo binh sĩ.
Lý Nguyên Cát ở giữa được bao bọc bởi hơn một trăm thân binh, đi tới vùng biên đại bản doanh, vùng biên của đại bản doanh được bao vây dày đặc bởi các trường giáo và các cỗ xe ngựa, công việc duy nhất của họ lúc này là phòng ngự, nhưng cũng làm không kiên cố, thì rất dễ bị quân địch công phá.
Lý Nguyên Cát quan sát chăm chú đội kị binh quân Tùy ở phía xa, tim y bắt đầu đập loạn lên, tuyến phòng ngự bên ngoài doanh trại có thể chống đỡ được sự tấn công của quân Tùy hay không?
Cùng lúc này, Thường Hà thúc ngựa đi tới bên cạnh y, hạ giọng nói:
- Điện hạ, chủ tướng quân Tùy đêm nay rất có thể là Dương Nguyên Khánh.
Lý Nguyên Cát giật nảy mình:
- Làm sao ngươi biết?
- Lính gác của chúng ta phát hiện ra trên cờ của quân Tùy có viền vàng xung quanh, đây chính là kí hiệu của quân Tùy khi vua ngự giá thân chinh, chỉ có thể là Dương Nguyên Khánh có tham gia trận đánh này.
- Nếu cờ của đối phương là cờ giả thì sao?
Lý Nguyên Cát hồi hộp hỏi.
- Không thể có khả năng đó được!
Thường Hà lắc đầu:
- Quân Tùy quân kỷ nghiêm minh, việc này là việc phạm thượng không thể làm được, hơn nữa Dương Nguyên Khánh vốn dĩ ở đại bản doanh đóng tại huyện Nghi Dương, hắn có thể đích thân dẫn binh đến truy kích chúng ta, hoàn toàn là có thể.
Lý Nguyên Cát bắt đầu thấy sợ hãi, nếu Dương Nguyên Cát đích thân dẫn binh, thì trận chiến này mình lành ít dữ nhiều, y không thể ở lại để quân Tùy bắt được.
Tại Thái Nguyên, Lý Nguyên Cát đã tránh được một lần, y tuyệt đối sẽ không để cho mình rơi vào vòng nguy hiểm thêm nữa. Lần trước ở Thái Nguyên chạy trốn, phụ hoàng cũng chưa trách phạt y, khiến y nghĩ rằng người quân tử sẽ không đứng dưới bức tường nguy hiểm.
Hơn nữa khi bị bắt giữ, sẽ tạo thế bị động lớn cho phụ hoàng và cho Đại Đường, y là con cháu thân thích của quân vương, bảo vệ tính mạng của y đối với Đại Đường mà nói là điều quan trọng nhất.
Nghĩ vậy, y lấy kim bài chủ soái trong người đưa cho Thường Hà:
- Từ bây giờ trở đi, ba mươi nghìn quân sĩ sẽ do ngươi toàn quyền chỉ huy.
Thường Hà gượng cười một tiếng, y biết rõ Tề vương đang muốn chạy trốn, bất đắc dĩ y đành nhận lấy kim bài:
- Đa tạ Điện hạ đã tín nhiệm, ty chức nhất định sẽ bảo vệ đại bản doanh.
Dĩ nhiên, những lời nói hào hùng này không có ý nghĩa thực tế gì, Thường Hà thấp giọng nói:
- Điện hạ thân là vạn kim, bảo vệ long thể là điều quan trọng, nhưng ty chức khuyên Điện hạ lúc này không nên rời đi.
- Tại sao?
Lý Nguyên Cát sửng sốt hỏi.
- Điện hạ, nếu ty chức đoán không nhầm, thì quân Tùy nhất định sẽ bố trí quân mai phục ở phía sau, nếu Điện hạ bây giờ rời đi, nhất định sẽ sa lưới của quân Tùy, chi bằng nhân lúc quân lính hỗn loạn, quân Tùy không phân biệt rõ, Điện hạ hãy chạy trốn.
Lý Nguyên Cát trong trận đánh ở Thái Nguyên cũng đã tháo chạy một lần, y cũng rất có kinh nghiệm cho việc này, Thường Hà nói cũng rất có lý, nhưng ai lại nói trắng ra như thế được.
Lý Nguyên cát mặt trầm xuống nói:
- Ta vốn là thân vương, làm sao lúc lâm trận lại có thể chạy trốn được, ngươi không nên nói năng hồ đồ như vậy.
Thường Hà sợ đến nỗi vội vã khom người nói:
- Vâng! Ty chức không dám nói hồ đồ nữa.
Lý Nguyên Cát hừ một tiếng, quay ngựa đi. Thường Hà nhìn thấy dáng y khuất xa, mới cười nhạt một cái, nếu Lý Nguyên Cát tháo chạy quá sớm, thì đến khi ba quân nhốn nháo, y sẽ trở thành mục tiêu chú ý của quân Tùy, y cũng không ngu đến mức như thế.
Đúng lúc này, tiếng trống khai trận của quân Tùy nổi lên:
- Tùng! Tùng!
Đây là tiếng trống tấn công, vang động khắp trời, một nghìn bộ binh hàng ngũ chỉnh tề tiến về phía đại bản doanh của quân Đường.
Từng bước từng bước, mỗi bước đi đều rất chậm, nhưng nặng tựa như núi, hơn một nghìn bộ binh này dường như có thể bao phủ cả núi Thái Sơn.
Mỗi người trong tay đều có một chiến đao dài, tay còn lại thì cầm tấm lá chắn, mặc giáp trụ. Sát khí ngút trời, chẳng khác gì những binh sĩ được đúc ra từ sắt thép, khí thế của họ áp đảo tâm lý của quân Đường, khiến quân Đường thở không ra hơi.