Khách đi thuyền giục giã gấp gáp, Phùng Thiếu Mị chẳng bận để ý nghi dung, kéo vội tấm áo ngoài đi ra.
Lúc đỡ khách lên thuyền hoa, bất chợt bị sờ tay.
Nàng ngẩng đầu.
Gã kia thấy nàng bất động bèn vuốt ve mu bàn tay nhẵn mịn, tấm tắc bảo lạ: “Không ngờ trên thuyền cũng có hàng tốt nhường này, mười quan một chuyến đã đủ chưa?”
Phùng Thiếu Mị cụp mắt: “Khách quan hiểu lầm rồi.”
Thuyền hoa hưng thịnh nhất là ở hai bên bờ Tần Hoài, mấy năm trước, làn gió thuyền hoa thổi đến Giang Đô, khách đi thuyền ăn quen bén mùi, mùa ế ẩm, để mời chào làm ăn, gần như mỗi con thuyền hoa đều có một điếm thuyền. Điếm thuyền không thể quý giá bằng trong hoa lâu, không chỉ trơ trơ lộ mặt mà giá cả còn thấp, quá nửa là hàng câu lan ngũ đẳng cũng không cần. Điếm thuyền qua lại vội vàng, ngôn hành cử chỉ cũng khác với trong hoa lâu, một đêm quá dài nên khách làng chơi gọi là “một chuyến”.
Gã say lúc lắc cái đầu choáng váng, quan sát trên xuống. Cô ả xõa tóc phủ vai, tư thái yểu điệu, choàng một tấm áo mỏng thêu hoa đỗ quyên, con gái nhà lành ai lại rêu rao khắp chốn như vậy.
Gã cười xì một tiếng, vươn tay kéo đai lưng cô ả.
Phùng Thiếu Mị lùi lại một bước, gập ngón tay ấn mặt trong cùi chỏ của cánh tay vươn tới. Gã kia tê rần người, vốn đã túy lúy sẵn, hạ bàn không vững, thế là lăn kềnh xuống sàn thuyền. Đám đàn ông cả cười.
Phùng Thiếu Mị vén mảnh, đưa mắt cùng người đàn ông đứng trên mui thuyền nhìn nhau.
Đêm Giang Đô rất tối, không thấy rõ được vẻ mặt hắn, chỉ thấy con mắt duy nhất trắng bóc, con ngươi màu mực khảm chính giữa, đen đến bóng ngời.
Tiết A Ất giơ ngang sào trúc, chống lên tảng đá ven bờ nước đẩy một cái.
Thuyền chậm rãi xa bờ.
Phùng Thiếu Mị buông mành trúc xuống chắn mưa gió rít gào, sau lưng vọng tới tiếng đám đàn ông cười cợt ồn ào: “Yếu như sên ấy! Đến đàn bà cũng không bắt được.”
Nàng xoay người đi tới bàn, ngồi quỳ xuống.
Trên bàn xếp một chồng chén trà, ngón trỏ và ngón cái nhón mép chén, bày ba chiếc lên bàn dài, Phùng Thiếu Mị nhấc ấm trà rót đầy.
Trà lăn vào chén sứ thô, bốc lên hơi nóng.
Gã kia bò dậy, vừa hay va trúng góc bàn, trán tím bầm, tỉnh rượu được hơn nửa, tâm tư kiều diễm cũng mất theo.
Gã nhổ toẹt một bãi nước bọt, cười mắng: “Nhìn mà không biết lão tử nói đùa à!”
Xoay người định xin lỗi Phùng Thiểu Mị, chợt thấy ánh nến chập chờn, soi khuôn mặt cô ả khi mờ khi tỏ, đường nét thoáng biến đổi theo động tác rót trà. Trán đau nhói, lí trí trở về, gương mặt cô ả cũng rõ ràng hơn.
Phùng Thiếu Mị đặt ấm trà xuống, khom người: “Mời khách quan dùng trà, tôi xin cáo lui.”
“Đợi…”
Gã kia chợt cất tiếng, khuôn mặt ngăm đen hãy còn vương sắc rượu, song ánh mắt đã tỉnh hẳn. Gã híp mắt: “Ta từng thấy gương mặt này.”
Hai người còn lại ngả ngốn bên bàn, một trong số đó ợ rượu: “Ôi chao, chẳng lẽ là người tình trong mộng của đại ca?”
Gã kia nhìn chằm chằm Phùng Thiếu Mị, hưng phấn: “Tiểu Lục, tranh đâu?”
“Hả?”
Gã kia mất kiên nhẫn, thò tay kéo túi tay áo của huynh đệ, lôi ra một cuộn giấy lớn, chính là thông cáo treo thưởng của nhà họ Hoài, hiệu lệnh toàn võ lâm lùng bắt nữ tặc ám sát Hoài lão gia tử. Nữ tặc trên tranh không quá đẹp, mặt mày cân đối, giống điếm thuyền trước mắt sáu, bảy phần.
Gã nhìn qua nhìn lại ba lượt rồi ném tranh xuống, rút đao nhào tới.
Phùng Thiếu Mị lăn xuống sàn thuyền, tránh khỏi đao phong, gã say nằm cách ả nửa bước đánh ngáy, ngủ khì. Nàng tóm cổ gã say, kéo đến trước ngực, gập ngón tay bóp yết hầu hắn.
Gã tỉnh sa sầm mặt, quát to: “Tỉnh lại!”
Giọng hàm chứa nội lực, chấn động kẻ điếc.
Tiểu Lục run bắn toàn thân, ngồi bật dậy theo phản xạ, mắt say lờ đờ nhìn chung quanh.
Gã say chậm một nhịp, mắt mở được một nửa thì chợt thấy ngực lạnh toát.
Hắn từ từ cúi đầu xuống.
Ngực trái nhô ra một mũi dao, máu tong tỏng tuôn ra ngoài, tối qua, chính con dao này đã mổ cắt cá diếc.
Gã tỉnh biến sắc, hai tay cầm đao, thanh đao nặng trịch khua trên không nửa vòng, vung hướng Phùng Thiếu Mị. Phùng Thiếu Mị rút dao mổ cá, tóm thi thể hãy còn hơi ấm ném về phía gã đối diện, gã vô thức thu thế, đón lấy di hài của huynh đệ.
Tiểu Lục đã tỉnh rượu hơn nửa, nhất thời không lần được vũ khí, bèn nhặt ba chiếc chén sứ thô bày trên bàn lên, nhắm vào mặt Phùng Thiếu Mị ném.
Nước trà nóng bỏng hắt tới, Phùng Thiếu Mị bước một bước rộng về phía trước, ngón cái bấu chặt riềm bàn, hất mạnh bàn lên.
Chén trà đập vào mặt bàn, tiếng vỡ vụn giòn tan.
Giá cắm nến lăn vụt sang một bên, ánh lửa tắt ngóm.
Chung quanh chìm vào bóng tối, chỉ nghe thấy tiếng thở hào hển, giọt mưa nện lộp bộp trên lán nan trúc.
Khoang thuyền quá hẹp, không thi triển được, Phùng Thiếu Mị xoay người chạy ra cửa, vén mành lên, đập vào mắt là một cây sào trúc, nàng sững người. Sau lưng vọng lại tiếng động, Phùng Thiếu Mị không kịp suy nghĩ nhiều, chân nhảy ngang một bước sang bên trái.
Người ra ngoài đầu tiên là Tiểu Lục, trông thấy sào trúc cũng ngẩn ra.
Tiết A Ất vung sào trúc lên, quét ngang qua, một gậy hất Tiểu Lục xuống thuyền, rơi “tùm” xuống sông. Phùng Thiếu Mị xông đến mạn thuyền, sau mấy hơi thấy Tiểu Lục nhô đầu lên, nàng giơ dao mổ cá cắt đứt cổ họng hắn.
Tiểu Lục lại lần nữa chìm xuống, đèn đuốc bên bờ chiếu sáng mặt sông, sắc máu như mẫu đơn triệu phấn1, từ từ nở rộ trong nước.
1 Một loại mẫu đơn, cánh màu trắng ngả dần sang hồng từ ngoài vào trong.
Không thấy ai ra thêm, khoang thuyền lặng ngắt như tờ.
Chợt nghe “tùm” một tiếng, có người nhảy xuống sông.
Phùng Thiếu Mị cau mày: “Chạy?”
Tiết A Ất dỏng tai nghe chốc lát, siết chặt sào trúc: “Không giống.”
Tập trung cao độ chừng một nén nhang, cơ thể căng chặt không kìm được thả lỏng. Chợt thấy trời đất quay cuồng, thuyền hoa bị người ta đánh lật, úp ngược trên mặt nước, hai người thuận thế lăn xuống sông.
Phùng Thiếu Mị sặc nước, mũi cay xè, dao mổ cá rời tay. Nàng vươn tay mò mẫm, bỗng bị ai bịt miệng mũi.
Nàng bóp cổ tay người tới, duỗi chân vùng vẫy.
Ý thức dần mơ hồ, người tới thình lình rên một tiếng, lòng sông tóe ra một cụm máu tươi, bàn tay như kìm sắt buông lỏng. Phùng Thiếu Mị liều mạng giãy ra, tứ chi mềm nhũn, hai chân yếu ớt duỗi đạp, chìm xuống đáy nước.
Trong đờ đẫn, có người ôm lấy mình, đẩy lên mặt sông.
Ánh sáng mỗi lúc một gần.
Đột ngột tiếp xúc với không khí, Phùng Thiếu Mị thở dốc từng ngụm như cá gặp nước. Mưa gió trút vào miệng mũi như lưỡi dao, nàng sù sụ ho sặc.
Hoàn hồn rồi mới phát hiện ra mình đang nằm trên thuyền hoa lật úp, cách bờ rất gần, chênh chếch có cây đào mọc lệch ra ngoài, hoa đã tàn già nửa.
Dưới sông đỏ ngầu, không biết là máu của ai.
Sào trúc trôi nổi cách đó một trượng, Phùng Thiếu Mị kiễng chân bẻ một cành đào, quỳ xuống sàn thuyền, vươn người gạt sào trúc về. Vừa nắm được vào tay thì sau lưng vang lên động tĩnh, Tiết A Ất bám mạn thuyền leo lên, ném một món đồ tới.
Phùng Thiếu Mị đón lấy, thì ra là con dao mổ cá.
Trên mặt dao nổi một vệt máu chưa rửa sạch.
Nàng đưa mắt nhìn mặt nước còn đang gợn sóng: “Giết rồi?”
Tiết A Ất vắt vạt áo ướt đẫm, đáp ừ.
Bấy giờ Phùng Thiếu Mị mới có tâm tư xem xét chung quanh, phong cảnh rất xa lạ. Nàng đưa sào trúc qua: “Đây là đâu?”
Tiết A Ất không ngẩng đầu: “Gần phố Đông Quan.”
Phùng Thiếu Mị ngửa đầu trông sắc trời: “Về chứ?”
Mưa vẫn đang rơi, thuyền hoa đi chưa xa, chỉ mất một khắc là về được bến đò.
Tiết A Ất vẫn đang vắt quần áo. Áo ướt dính lên da hệt như một con rắn quấn lấy thân mình, lạnh lẽo mà nhớp nháp, vắt thế nào cũng không khô.
Giọt mưa gõ bộp bộp trên ván thuyền, ầm buốt óc hắn.
Tiết A Ất phiền não vứt ống tay áo sang một bên, day thái dương: “Nhà không có nước nóng, tìm quán trọ ở một đêm đi.” Hắn đứng dậy nhảy xuống sông, ngẩng đầu gọi Phùng Thiếu Mị: “Lại đây giúp một tay.”
Mặt sông vừa lắng xuống đã lại gợn sóng, lan từng vòng ra ngoài.
Phùng Thiếu Mị xuống nước phía đối diện, hai người hợp lực lật con thuyền hoa lên.
Khoang và ván thuyền bị thấm nước, nước ăn sâu ba thước, trước khi khô hẳn không thể xuống nước lần nữa.
Hai người đẩy thuyền hoa lên bờ, Tiết A Ất tìm cọc gỗ buộc lại, mắc sào trúc vào khoang thuyền, khó khăn lắm mới giấu được ra sau cây đào mọc lệch.
Phố Đông Quan ngược lại với Tiểu Tần Hoài, ban ngày huyên náo, ban đêm tĩnh mịch. Đã là cuối giờ Tuất, lần mò qua ba con phố mới tìm được một quán trọ chưa đóng cửa, trên cây trúc trước cửa treo lá cờ hiệu màu vàng tơ, bị gió thổi cho xoắn xuýt, lờ mờ nhìn ra một chữ “Phúc”. Quán trọ không lớn không nhỏ, sạch sẽ ngăn nắp, đầy đủ vật dụng, tốt hơn quán trọ tồi tàn ở trấn Bạch Thủy ngàn vạn lần.
Chưởng quỹ nom khá tuấn tú, dáng dấp tú tài, thấy khách tới bèn vội vàng gác bàn tính sang một bên, treo nụ cười tươi rói lên mặt: “Hai vị khách quan tới nghỉ chân hay ở trọ?”
Tiết A Ất đáp: “Ở trọ.”
Chưởng quỹ cười đáp dạ, lại hỏi: “Khách quan lấy mấy phòng?”
Phùng Thiếu Mị nói: “Hai phòng.”
Tiết A Ất nói: “Một phòng.”
Phùng Thiếu Mị liếc hắn: “Một gian phòng thường, chỉ trọ đêm nay thôi.”
Chưởng quỹ gảy bàn tính, hạt gỗ vang lách tách: “Ba trăm xu.”
Tiết A Ất mò trong túi tay áo ra một xâu tiền đồng, trả tiền phòng.
Đang giữa vụ mùa nên hiếm có thương nhân qua lại, trong phòng tắm không một bóng người. Hai người vào gian nhỏ sát nhau, ngăn giữa bằng một tấm ván mỏng, nước nóng vừa đun xong.
Tiết A Ất run lập cập nhảy vào thùng tắm, nước nóng hâm đau đớn khắp người, giá rét nhớp nháp nhanh chóng rút đi, tựa như phượng hoàng niết bàn, hồi sinh sống lại.
Hắn không nhịn được than một tiếng.
Hơi nước mù mịt trong phòng tắm, bụi nước mờ mờ, chỉ nghe thấy tiếng nước tung tóe lúc nhúng khăn chà người.
Cách vách truyền tới tiếng phụ nữ rất thấp: “Đa tạ.”
Đa tạ ơn cứu mạng của hắn.
Tiết A Ất không đáp, Phùng Thiếu Mị cũng chẳng muốn hắn đáp, chỉ đứng dậy khỏi nước, cầm vạt áo giũ giũ, duỗi tay xỏ vào ống tay áo.
Áo váy mở ra trong không trung, “xoạt” một tiếng.
Tiết A Ất dựa lưng vào ván gỗ, nhắm mắt.
Thân mình ngâm trong nước nóng, đầu óc nặng trĩu mơ màng.
Bên tai vọng lại tiếng loạt xoạt, hắn tưởng tượng lớp áo vải thô nhẹ nhàng mơn trớn cơ thể mảnh mai trắng trẻo của cô gái, bao lấy bầu ngực đầy đặn.
Hắn chợt nhớ lại cảnh Phùng Thiếu Mị bị bóp cổ, vùng vẫy dưới lòng sông. Nàng ngẩng đầu nhìn lên mặt sông, mặt mũi tái nhợt mà trong suốt, vạt váy thêu đỗ quyên lay động trong nước, đỏ chói lóa mắt. Giống một con chim sắp chết vẫn vỗ cánh muốn bay.
Tiết A Ất vẫn nhớ cái đêm ở trấn Bạch Thủy, làn da bóp trong tay mịn màng non nớt, làm hắn liên tưởng để đậu phụ hành lá bán trên phố Đông Quan, trắng nõn ngập nước. Giang Đô coi ốm yếu là đẹp, sản sinh rất nhiều ngựa còm, quá nửa các cô nương được mến mộ đông đảo đều mang tư thái liễu yếu đào tơ, ít có ai múa đao vung giáo.
Thứ đẹp đẽ mà nguy hiểm luôn có khả năng khiến đàn ông nảy lòng muốn chinh phục, chẳng hạn như lưỡi đao, chẳng hạn như máu tươi, chẳng hạn như cô ưng bay lượn trên đại mạc.
… Chẳng hạn như con chim hoàng yến biết mổ người trước mặt này.
Lúc hắn lột tấm áo chưa buộc chắc ra, Phùng Thiếu Mị không cự tuyệt.
Nàng nợ Tiết A Ất hai cái mạng. Một cái do hắn không giết, trong khi đáng ra nên giết nàng; một cái do hắn cứu giúp, trong khi vốn không cần cứu nàng.
Nước nóng hun khuôn mặt người con gái đỏ lựng.
Tiết A Ất cầm lòng không đậu vuốt ve môi nàng, nhưng không hôn.
Trên người Phùng Thiếu Mị còn vết thương do đao hắn để lại, một vết sẹo hẹp dài dữ tợn cắt phanh cơ thể trắng như tuyết, từ vai tới sườn, hệt con bọ tre chiếm đóng trên hoa trúc.
Khác với cô nương trong hoa lâu, eo nàng có sự dẻo dai săn chắc độc hữu của người tập võ.
Ngoài cửa sổ mưa như thác đổ, tí tách gõ lên mái hiên.
Hắn sờ sống lưng Phùng Thiếu Mị, như sờ sống đao.