Thê Tử Của Bề Tôi Trung Thành

Chương 110: Sinh mệnh mới




Triệu Uân ngồi trên bảo tọa, nhìn xuống chúng triều thần đang tranh cãi tới mức mặt đỏ tía tai, ta một câu ngươi một câu, không ai thuyết phục được ai.

“Từ xưa tới nay, khi hai quân giao chiến mà giết tướng đầu hàng là bất nhân bất nghĩa, làm trái với đạo lý lấy nhân nghĩa trị thiên hạ của bệ hạ. Vì thế, hành động lần này của Trình Thiệu Đường thật sự khiến người ta không dám gật bừa.”

“Chúng ta không thể định luận khi chưa biết thực hư thế nào, các vị đại nhân mở miệng ra là đòi kết tội của Trình tướng quân, điều này thật sự khiến các tướng sĩ vào sinh ra tử nơi tiền tuyến lạnh lòng!”

“Trình Thiệu Đường lòng dạ độc ác, năm diệt phỉ ở quân Tây nam đó đã từng có hành vi như vậy. Hiện giờ, những tin đồn về sự tàn ác của hắn sớm đã gây xôn xao khắp nơi, lần này hắn lại giết các binh sĩ đầu hàng cũng chẳng phải chuyện bất ngờ.”

“Ninh Quốc công đã nhiều lần giải thích rằng chuyện năm đó là mệnh lệnh của ông, không liên quan tới Trình tướng quân, sao Tôn đại nhân vẫn khăng khăng đổ chuyện này lên đầu Trình tướng quân vậy, ngài rốt cuộc rắp tâm gì?”

“Ai mà không biết Ninh Quốc công là người có tấm lòng nhân hậu, yêu quý người tài, hơn nữa ông ấy còn rất tán thưởng Trình Thiệu Đường, để bảo vệ hắn nên ông ấy chủ động đứng ra gánh tội danh này cũng không phải chuyện gì kỳ lạ.”

“Đúng là hoang đường, nếu như lời ông nói, Ninh Quốc công là người có tấm lòng nhân hậu, nếu ônga áy thật sự yêu mến nhân tài như Trình Thiệu Đường thì làm sao có thể để hắn làm ra chuyện bất nhân bất nghĩa như thế.”

………

Cuộc tranh cãi của các quan viên càng lúc càng gay gắt, nhưng Triệu Uân vẫn trầm mặc không nói từ đầu tới cuối, mãi tới khi cuộc cãi vã dần dần lắng xuống, hắn mới từ tốn nói: “Mọi người đều biết mức độ nghiêm trọng của nạn thổ phỉ ở quận Hồ Châu, bọn chúng vô cùng hung tàn, đốt phá, giết chóc, cướp bóc, c**ng hi3p,…không chuyện xấu nào không làm, so với nạn thổ phỉ ở Tây Nam năm đó chỉ có hơn chứ không có kém. Hiện giờ, chúng chỉ vì đánh không lại đại quân triều đình, nên mới dựng cờ đầu hàng để bảo toàn tính mạng.”

“Gì mà khi hai quân giao chiến không giết lính đầu hàng, hạng cướp hung hãn tàn bạo như vậy, vì giữ mạng sống mới buộc phải đầu hàng, giờ lại xin triều đình tha cho chúng chỉ vì chúng đã khoác lên mình lớp hộ giáp ‘lính đầu hàng’. Nếu trẫm bỏ qua cho chúng, ai sẽ đòi lại công đạo cho những dân chúng vô tội đã chết thảm trong tay chúng? Sao trẫm phải lãng phí tâm tư, tiêu tốn sức người, sức của và tài lực để an trí cho bọn chúng?”

“Các ngươi mở mồm ra là nói nhân nghĩa đạo đức, nhưng theo trẫm thấy, các ngươi chẳng có quyền gì để phán đám lính đầu hàng có đáng chết hay không, chỉ có những người chịu đủ mọi tổn hại như dân chúng địa phương mới là có quyền nói điều đó!”

“Hành động lần này của Trình Thiệu Đường chính là phụng theo ý chỉ của trẫm! Phàm là những kẻ trên tay đã dính máu của người dân vô tội, cho dù chúng có liều chết chống cự, hay giơ tay đầu hàng, tất cả đều sẽ bị giết để hả nỗi căm phẫn của dân chúng!”

Khắp điện rơi vào khoảng tĩnh lặng, trong lòng chúng triều thần đều trào dâng một cảm giác kinh hãi, không ai có thể ngờ rằng hành động lần này của Trình Thiệu Đường chỉ là phụng mệnh hành sự.

Vẻ mặt Triệu Uân trở nên nham hiểm: “Thủ đoạn hữu hiệu nhất để đối phó với những kẻ tàn bạo là tàn nhẫn hơn chúng, ác hơn chúng, chứ không phải là nói với chúng đạo lý nhân nghĩa gì đó!”

“Ai trong số các ngươi dám cam đoan rằng, những kẻ gọi là lính đầu hàng kia sau khi đầu hàng có thể thật sự thay hồn đổi xác, từ nay về sau an phận thủ thường? Chúng là phỉ, là cướp, là những tên ác nhân trên tay dính máu tươi của những người vô tội. Thế nên, trẫm không chỉ muốn giết bọn chúng mà còn muốn chém đầu thị chúng những quan viên địa phương đã cấu kết, thông đồng với chúng, đối với những kẻ như vậy, trẫm quyết không buông tha!”

Các quan viên bị giọng nói hùng hổ, nhuốm đầy sát khí của hắn dọa sợ, ai cũng không tự chủ được mà rùng mình ớn lạnh, nhưng chẳng ai dám nói thêm gì nữa mà đồng loạt cúi đầu.

Triệu Uân thấy họ đã trở nên yên tĩnh hơn thì cười lạnh một tiếng, từ tốn nói: “Các khanh còn có chuyện quan trọng khác muốn  tấu không?”

Các quan viên bị hắn dọa sợ, mặc dù vốn dĩ có chuyện muốn bẩm tấu, nhưng giờ đây bọn họ đã không còn lòng dạ này nữa.

Triệu Uân cũng chẳng quan tâm, thong dong nói: “Năm ngoái do phân tranh khắp nơi chưa được bình được nên rất nhiều học sinh các nơi bị trì hoãn trên đường, dẫn tới việc không kịp lên kinh tham gia thi cử. Năm sau trẫm muốn mở thêm khoa thi, không biết các khanh nghĩ thế nào?”

“Bệ hạ sáng suất!” Chúng quần thần đồng thanh trả lời.

Triệu Uân hài lòng gật đầu.

Thức thời như thế này mới tốt, hắn đỡ phải tốn nước bọt.

Sau khi tan triều, các quan viên đều thầm thở dài nhẹ nhõm khi nhìn thấy bóng lưng vàng chói nhanh chóng biến mất ở trong điện, mọi người giơ tay lên lau mồ hôi trên trán, bây giờ mới chợt nhận ra lưng mình đã đẫm mồ hôi vì bị dọa sợ.

Tiên đế dốc lòng tu đạo không màng chính sự, tuy họ sống rất thoải mái nhưng khi đối mặt với chính sự lại khó mà phát huy hết khả năng của mình; bây giờ vị này lên ngôi, hắn còn cần cù siêng năng hơn tiên đế gấp nhiều lần, không bao giờ xử lí việc triều chính một cách qua loa, vì vậy mà mỗi lần lên triều bọn họ đều rất lo lắng, sau khi tan triều ngồi kiệu về nhà đều nảy sinh một cảm giác mình thoát chết trong gang tấc.

Lại bộ thượng thư lau mồ hôi lạnh, bỗng cảm thấy thật ra giờ mà bệ hạ hạ chỉ để mình cáo lão hoàn hương cũng không phải chuyện gì tồi tệ, chí ít mỗi ngày ông sẽ không còn sống trong lo lắng hãi hùng, biết đâu còn có thể sống được thêm mấy năm nữa. Dẫu sao mình cũng đã từng này tuổi rồi, không chịu được kinh hoàng như vậy nữa.

Trong nha môn Hồ Châu, Trình Thiệu Đường ngồi trong công đường, lật xem khẩu cung của tri phủ Hồ Châu mà Lý phó tướng dâng lên, chàng cau mày hỏi: ” Đã thẩm vấn kĩ càng chưa?”

“Đã thẩm vấn kĩ rồi.” Lý phó tướng đáp.

Trình Thiệu Đường gật đầu, gấp khẩu cung lại: “Chắc Bàng đại nhân cũng sắp tới rồi, chuyện khắc phục hậu quả sẽ giao cho ngài ấy giải quyết. Truyền lệnh xuống, để các tướng sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức, ba ngày nữa sẽ xuất phát tới Bình Châu!”

“Vâng!” Lý phó tướng nhận lệnh rời đi.

“Tướng quân, chúng ta giết nhiều lính đầu hàng trong một lúc như thế, e rằng trong triều sẽ có những…..” Tiểu Mục đứng cạnh giúp chàng xếp gọn những hồ sơ trên bàn, lo lắng nói.

“Không sao đâu.” Trình Thiệu Đường phất ống tay áo, hỏi ngược lại: “Chẳng lẽ đệ không thấy những kẻ kia đáng chết sao?”

Tiểu Mục ngẩn người, nhớ tới cảnh tượng dân chúng Hồ châu quỳ trước ngựa của tướng quân, cầu xin tướng quân làm chủ cho người nhà đã phải chết thảm của họ ngày hôm đó, hắn lập tức phỉ nhổ, nghiến răng nghiến lợi nói: “Chúng đều là đám súc sinh, đáng bị giết!! Không giết thì không trút được nỗi căm phẫn của dân chúng!”

“Nếu đã không thẹn với lòng, cần gì phải sợ bọn họ cư xử với mình thế nào.” Trình Thiệu Đường bĩnh tĩnh nói.

“Đúng, tướng quân nói đúng lắm! Đại trượng phu chỉ cần làm điều không thẹn với lòng, người khác muốn nói gì thì nói.” Tiểu Mục ưỡn thẳng lưng, cất cao giọng nói.

Trình Thiệu Đường khẽ cười, vỗ lên vai hắn: “Về nghỉ ngơi cho tốt, còn không biết bao nhiêu trận chiến đang chờ chúng ta kìa!”

Sau khi dẹp loạn ở Hồ Châu bọn họ sẽ xuôi nam xuống Bình Giang, sau đó sẽ là Bình Châu, Ung Châu, Nghi Châu, nhưng thời gian của chàng chỉ còn chưa đầy ba năm nữa, sau khi Bình Giang ở phía nam hoàn toàn bình định bọn họ sẽ phải tiếp tục xuôi năm, dẹp yên loạn lạc dọc đường cho đến ngày – rời đảo.

Tấn Nguyên, chỉ còn chưa đầy ba năm nữa là ta và đệ sẽ gặp lại nhau. Đến lúc đó, ai sống ai chết, ân ân oán oán cũng nên đến hồi kết thúc.

………… Có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chia, sống chết có nhau, không rời không bỏ, tấm lòng này có trời và đất chứng giám.

Lời thề kết nghĩa của huynh đệ trong tiêu cục vẫn còn văng vẳng bên tai, ánh mắt chàng trở nên tĩnh mịch, cũng không biết bao lâu trôi qua mới cùi đầu thở dài.

Đạo bất đồng, nán dĩ vi mưu, tình nghĩa ngày xưa, khó ngang bằng các chủ.

(*) Đạo bất đồng, nán dĩ vi mưu: Ý nói người không cùng quan điểm, chí hướng thì không thể nói chuyện, thương lượng hay đàm đạo được.

Ba ngày sau, đại quân dỡ trại, Trình Thiệu Đường mặc quân phục, cưỡi ngựa chiến dẫn các tướng sĩ rời khỏi thành, hàng chục đầu người tóc dài che mặt treo trên cổng thành là minh chính cho ​​cảnh tượng thảm họa mà thành trì vừa phải chịu đựng.

Mười dặm ngoài thành, hai bên đường đứng đầy dân chúng quần áo rách rưới, sau khi đại quân tới gần thì họ đồng loạt quỳ xuống.

Trình Thiệu Đường nhìn thấy cảnh này thì cổ họng tắc nghẹn, đôi môi mấp máy muốn nói gì đó, nhưng lại phát hiện ra mình chẳng thể nói nên lời.

Trên đường cái chỉ có tiếng vó ngựa ‘lộc cộc’, tiếng bước chân nhịp nhàng của binh sĩ, kèm theo màn cát bụi từ từ cuộn lên che đi những đôi mắt đẫm lệ vì đã báo được thù và sống sót sau tai nạn của vô số dân chúng.

Một năm này, dưới sự thống lĩnh của Trình Thiệu Đường, đại quân triều đình thế như chẻ tre, lần lượt bình định Hồ châu, Bình Châu và lấy lại được Ung Châu. Những nơi đại quân đi qua đều máu chảy thành sông, dù là lính đầu hàng hay không, những kẻ nên giết đều bị Trình Thiệu Đường thẳng tay trừng trị. Đến đầu mùa xuân năm sau đó, sáu tri huyện của tám huyện Ung Châu đều rơi đầu, đại quân triều định lại bình định được thêm một thành nữa.

Kể từ đó, thống soái đại quân Trình Thiệu Đường còn được mệnh danh là ‘Sát thần’, những câu chuyện về việc giết người như ngóe của chàng  nhanh chóng được lan truyền trong dân chúng.

Khải Nguyên năm thứ hai, hoàng hậu hạ sinh một đích tử, bấy giờ tin chiến thằng từ Ung Châu được truyền về, Khải Nguyên đế Triệu Uân vui mừng hớn hở, đích tử chưa tròn trăm ngày đã ban tên ‘Thụy’, ý là điềm lành, đủ để nhìn ra hắn rất coi trọng đích tử này.

Hoàng hậu cầm tờ giấy viết hai chữ ‘Triệu Thụy’ do chính tay hắn ngự bút, chần chừ hồi lâu mới nói: “Con vẫn còn nhỏ, bệ hạ cưng chiều như thế, chỉ sợ con nhận không nổi phúc phần này.”

Triệu Uân cười đắc ý: “Đích tử của trẫm cũng là con cưng của trời, sao lại không nhận nổi phúc phần này chứ? Về phần đám yêu ma quỷ quái gì kia, nếu chúng dám phạm con ta, trẫm nhất định sẽ khiến chúng có đi mà không có về, tiêu diệt hoàn toàn bọn chúng!”

Nghe hắn nói vậy hoàng hậu vừa cảm động vừa cảm thán, nhưng cuối cùng vẫn không nói thêm gì nữa. Nàng thầm cầu khấn thập phương tam thế chư thần ở trong lòng, khẩn cầu thần linh phù hộ độ trì cho nhi tử của bọn họ.

Khải Nguyên đế mở thêm khoa thi, những thí sinh bỏ lỡ khoa trước lũ lượt kéo về kinh thành để chờ đợi kỳ thi mùa xuân sắp tới.

Tuy đã sắp tới ngày lâm bồn, nhưng Lăng Ngọc vẫn ưỡn cái bụng to mỉm cười lắng nghe Châu Thị mày mày hớn hở kể đủ chuyện thú vị của cháu trai, nghe đến đoạn Dương Tố Vấn luống cuống tay chân do lần đầu làm mẹ mà nàng không khỏi bật cười.

Thật sự không ngờ rằng con bé ngốc nghếch ngay thẳng trước đây, nay cũng đã làm vợ, làm mẹ.

“Được thấy nàng dâu sinh hạ trưởng tôn, giờ ta có nhắm mắt xuôi tay cũng không còn gì tiếc nuối nữa.” Nói xong lời cuối cùng, Châu Thị thở dài thườn thượt.

Không thể sinh cho Lăng gia một người con trai để truyền thừa hương hỏa là tiếc nuối lớn nhất của Châu Thị, cho dù tướng công chưa từng trách bà vì chuyện này, vẫn đối xử với bà trước sau như một, nhưng bà vẫn không cách nào tha thứ được cho mình.

Bây giờ bà cuối cùng cũng có thể buông bỏ được gánh nặng trong lòng, sau này xuống cửu tuyền cũng có thể thản nhiên đối diện với liệt tổ liệt tông nhà họ Lăng.

Lăng Ngọc nghe xong nhíu mày: “Mẹ nói lung tung cái gì thế, đang yên đang lành mà nói những điều này, nếu để cha nghe được kiểu gì cũng sẽ cằn nhằn cho một trận.”

Châu Thị vỗ vào miệng mình: “Đúng đúng đúng, là mẹ không tốt, đang vui vẻ nói mấy điều này làm gì không biết.”

Dù Châu Thị chưa bao giờ nói ra, nhưng Lăng Ngọc vẫn biết được phần nào tâm sự của bà. Trước đây nàng từng rất giận cha mình vì tính tình độc đoán của ông, ông luôn dồn mọi việc trong nhà lên người mẹ, nhưng nay nàng đã trưởng thành hơn, suy nghĩ của nàng cũng dần thay đổi.

Dù cha của nàng đầy tật xấu, nhưng chỉ với một điều là ông chưa bao giờ chấp nhất chuyện con nối dõi và một mình gánh chịu tội danh vô hậu này thôi, đã đủ để khiến ông đánh bại vô số đại trượng phu ngạo nghễ, vĩ đại trên đời.

“Nếu lần này tỷ phu của con có thể đỗ cao, tỷ tỷ con coi như cũng đỡ khổ.” Nhớ tới con rể Lương Hoài Thăng đang ở tạm trong nhà mình hiện giờ, Câu Thị lại không nhịn được mà nói với vẻ mong chờ.

Lăng Ngọc mỉm cười, trả lời lấy lệ: “Đúng thế, lúc đó tìm một công việc tốt, tỷ tỷ chính thức trở thành phu nhân nhà quan….. Ai ui!”

“Sao thế sao thế?” Thấy giọng nói của con thay đổi bất ngờ, Châu Thị quýnh cả lên, vội hỏi,

Lăng Ngọc cố nặn ra một nụ cười: “Mẹ ơi, chắc là con sắp chuyển dạ rồi….”

***

Bé Đá, Triệu Tuần, Thành ca nhi, Xương ca nhi và mấy đứa trẻ khác vây quanh chiếc nôi, chăm chú nhìn em bé được bọc trong tã lót, rôm rả bàn tán.

“Tại sao mặt em bé không đỏ nhỉ?”

“Tại sao em bé ngủ nhiều thế nhỉ? Em không đói sao?”

“Em bé bị quấn tay chân như thế, sẽ không thấy khó chịu chứ?”

……..

Hoàng hậu mỉm cười nghe bọn trẻ hồn nhiên trò chuyện, sau đó nàng liếc nhìn Triệu Uân, người rõ ràng bày ra khuôn mặt nghiêm túc, nhưng đôi mắt lại sáng lên lạ thường.

Nàng không ngờ bệ lại thảnh thơi đến mức dẫn đám trẻ con tới thăm nhi tử mới ra đời chưa lâu của mình.

Một lát sau, nàng thấy hắn đắc ý vểnh khóe môi, che miệng ho khan một tiếng, trịnh trọng nói: “Được rồi, đã đến lúc mấy đứa phải quay về đọc sách rồi, đừng có vây quanh nhi tử của trẫm nói bô bô cái mồm nữa. Nếu làm ôn tới nhi tử của trẫm, trẫn sẽ không tha cho mấy đứa đâu!”

Nói xong, đám trẻ lập tức im bặt, xếp thành một hàng thẳng tắp và đồng thanh nói nhỏ: “Tuân lệnh bệ hạ!”

Triệu Uân thấy chúng nghe lời như thế thì gật đầu đầy hài lòng. Sau đó lại nhìn bọn trẻ nối đuôi nhau ra ngoài, vừa ra khỏi cửa là chạy loạn lên như ong vỡ tổ.

“Hôm nay tới lượt ta vung song chùy, các ngươi không được tranh với ta đâu đó!”

“Ai thèm tranh với ngươi chứ, với cái thân thể nhỏ bé của ngươi có thể nâng nổi song chùy sao?”

“Không được coi người khác, bé Đá còn vung được, sao ta lại không thể chứ!”

“Vì đệ ấy có thể đè ngươi xuống đánh!”

“Ha ha ha, nói đúng lắm nói đúng lắm!”

“Đó là trước đây, trước đây trước đây trước đây!!” Giờ là giọng nói nhớn nhác của Thành ca nhi.

“Hay ngươi và đệ ấy tỷ thí xem lần này có giống như vậy không?” Xương ca nhi cười xấu xa.

“Được đó được đó! Ai thua không được khóc nhè đâu đấy!” Bé Đá vui vẻ tiếp lời.

“Thi thì thi, ai sợ ai chứ!”

………

Tiếng cười đùa dần dần vang xa, Triệu Uân giần giật khóe miệng, như thể đang nói một mình: “Sao trẫm lại cảm thấy đám ranh con này càng ngày càng hư không tưởng nổi thê….”

Hoàng hậu bật cười ra tiếng, khi nhìn thấy ánh mắt không vui của hắn thì vội vàng nhịn cười, cúi người xuống bế tiểu hoàng tử không biết đã thức dậy tự lúc nào lên.

Triệu Uân vươn cổ nhìn nhi tử trong lòng hoàng hậu, ấn đường sắp dính lấy nhau.

“Tiểu điện hạ thức dậy cũng không quấy không khóc, chứng tỏ là một người biết yêu thương, sau này nhất định sẽ là một người con hiếu thuận.” Thải Vân thấy Triệu Uân đến gần thì vội vàng lui sang một bên, lén liếc nhìn biểu cảm của hắn, cân nhắc rồi nói.

“Giờ ngoan thì ngoan thật, nhưng lúc quấy cũng chẳng ai bằng.” Hoàng hậu trìu mến nói.

Triệu Uân tiếp tục nhìn chăm chú vào khuôn mặt nhỏ xíu đã trắng trẻo hơn nhiều.

Thằng nhóc cũng mở to đôi mắt đen láy nhìn hắn, một lát sau, cái miệng bé xíu chề ra, bật khóc oa oa.

“Nó nó nó, sao nó, sao thế này, sao bỗng nhiên lại khóc vậy?” Triệu Uân ngẩn tò te, lắp bắp hỏi.

“Chắc là con đói rồi.” Hoàng hậu dịu dàng dỗ nhi tử, trả lời hắn cho có lệ. Sau đó nhanh chóng có nhũ mẫu vội vã đi vào, bế tiểu hoàng tử xuống uống sữa.

Tiếng khóc đột nhiên ngừng lại, Triệu Uân cũng nhẹ nhàng thở ra, hắn nói với vẻ đắc ý: “Đích tử của trẫm làm sao có thể là đồ nhút nhát bị trẫm trừng mắt vài cái là khóc vì sợ được chứ.”

Hoàng hậu im lặng một lát, sau đó lắc đầu  chán nản.

“Bẩm nương nương, Trần ma ma sai người tới báo rằng Trình phu nhân vừa sinh được một tiểu thiên kim, mẹ con bình an.” Vào đúng lúc này, Minh Nguyệt vào phòng bẩm báo.

“Tiểu thiên kim?” Hoàng hậu thoạt tiên là giật mình, sau đó cười nói: “Như vậy xem ra phu thê Trình tướng quân cũng có một đôi nhi nữ rồi.”

Triệu Uân lại cau mày, lẩm bẩm nói: “Tiểu nha đầu chỉ biết làm đỏm có ích gì chứ, thà sinh mấy đứa con trai, sau này hai cha con cùng lên chiến trường còn hơn!”

Hoàng hậu: “…”

***

Lăng Ngọc không ngờ lần này minh sinh nở lại thuận lợi như thế, lúc nàng ôm tiểu nữ nhi mới sinh vào lòng, không khỏi nở một nụ cười hạnh phúc.

Vương Thị vui đến nỗi không khép được miệng, không ngừng xoa xoa lòng bàn tay: “Vợ thằng cả, cho mẹ bế với, cho mẹ bế với….”

Bà có cháu gái rồi, kiếp này bà chưa từng nuôi một tiểu cô nương nào yểu điệu mềm mại như vậy!

Lăng Ngọc thấy bà vui như thế thì cẩn thận đặt nữ nhi vào lòng bà.

Đám thị nữ Thanh Đại, Phục Linh ở trong phòng thấy Vương Thị vui như thế thì cũng  cảm thấy vui mừng, có thấy thấy bà ấy thật sự thích cháu gái, hai người đưa mắt nhìn nhau, đều trông thấy sự thư thái trong mắt đối phương.

“Mẹ, đại tẩu, bế cháu gái ra đây cho con nhìn với!” Trình Thiệu An ở ngoài phòng gấp đến độ dậm chân.

Vương Thị vờ như không nghe thấym ôm cháu gái không chịu buông tay: “Con bé này trông rất giống mẹ nó, còn tính thì giống hệt cha nó lúc nhỏ, vừa ngoan ngoãn vừa hiền lành.”

Lăng Ngọc lần đầu tiên nghe bà nhắc đến chuyện lúc bé của Trình Thiệu Đường, nàng nhất thời không thể tưởng tưởng được cách bà dùng bỗn chữ ‘ngoan ngoãn hiền lành’ để hình dung một ‘Sát thần’ trong lời đồn của dân chúng.

Chỉ là, nhớ tới người nọ, nàng không khỏi thất thần.

Giờ chàng sao rồi? Chàng sẽ thích nữ nhi mà nàng sinh cho chàng chứ? Lúc nào mới có thể trở về? Chàng chinh chiến liên miên như thế, cơ thể có bị thương không?

“Mẹ, đệ đệ của con đâu?” Tiếng kêu kích động của bé Đá cùng với tiếng bước chân vồn cã của bé truyền tới, Lăng Ngọc còn chưa kịp nói gì thì Phục Linh đã giữ chặt  ĐÁ sắp xông vào phòng lại: “Không phải đệ đệ, mà là muội muội.”

“Muội muội ạ?” Bé Đá ngẩn ra.

Một lát sau, nó nhăn mũi, gượng gạo nói: “Thôi vậy, muội muội thì muội muội.”

Trình Thiệu An mỉm cười, đi tới vỗ lên vai nó một cái: “Muội muội mới tốt kìa, vừa ngoan vừa nghe lời, tốt hơn con khỉ thối nào đó nhiều.”

Bé Đá nghe vậy thở dài nói: “Kể ra thì, cháu cũng đến tuổi rồi.”

Trình Thiệu An dở khóc dở cười hỏi: “Cháu đến tuổi gì?”

“Đến tuổi đến chó còn chê rồi.” Thằng nhóc rầu rĩ trả lời.

Trình Thiệu An không nhịn được mà cười to: “Đúng là đến tuổi đến chó còn chê rồi!”

Người trong phòng ngoài phòng nghe hai thúc cháu nói chuyện mà không khỏi phì cười.

Con trai bảy, tám tuổi chẳng phải thuộc độ tuổi khiến người ta ghét sao?

(*) Người Trung quốc hay nói trẻ con trong độ tuổi 7-8 tuổi thường khó bảo, ngang bướng, mang đến cho phụ huynh nhiều phiền phức, nên mới có cách nói như vậy.