Edit: Châu
Gia Nhu đưa Mộc Cảnh Thanh về vương phủ, Thôi thị thấy con, vui vẻ vô cùng, vội kéo cậu lại hỏi han. Gia Nhu bèn rời đi trước, để hai mẹ con ở lại với nhau.
Sau một hồi trò chuyện, Thôi thị thấy Mộc Cảnh Thanh ngồi không yên, cứ trộm xoa gót chân, bèn bảo A Thường lấy một cái ghế tựa: “Không sao đâu, con cứ ngồi sao mà thấy thoải mái nhất ấy.”
Mộc Cảnh Thanh thở phào một hơi, đổi thành tư thế ngồi xếp bằng, bấy giờ mới thấy khoan khoái hơn.
Thôi thị đau lòng bảo: “Sao lại phơi nắng đen nhẻm thế này? Suýt thì mẹ chẳng nhận ra con rồi. Lần này về nhà phải bồi bổ vào. Con muốn ăn gì thì cứ nói.”
Mộc Cảnh Thanh chỉ cười: “Mẹ à, luyện binh thì sao tránh khỏi rám nắng được. Nhắc tới chuyện ăn uống, con hơi nhớ món bánh canh[1] ngoại làm và cả bánh chưng trăm dây[2] nữa. Nếu có thêm một bát gà rán giòn thì thật không còn gì bằng.”Nghe Mộc Cảnh Thanh nói thế, A Thường vội vàng thưa: “Chuyện này có gì khó ạ? Ngày mai vú làm ngay cho lang quân ăn. Muốn ăn bao nhiêu có bấy nhiêu.”
“Cảm ơn vú.” Mộc Cảnh Thanh cười toe, lộ hàm răng trắng nõn.
Đúng lúc này, tỳ nữ ở bên ngoài nói: “Vương phi, Tam nương tử tới ạ. Tam nương tử nghe nói Thế tử trở về nên có lòng lại đây chào hỏi.”
Thuận Nương và em trai Thuận Nương đã được ghi vào gia phả, Thuận Nương được đặt tên là Mộc Gia Nghi. Nàng ta nhỏ tuổi hơn Mộc Cảnh Thanh, vì thế đứng hàng thứ ba, trên dưới trong phủ gọi là Tam nương tử. Em trai nàng ta đứng thứ tư, được đặt tên là Mộc Cảnh Hiên.
Thôi thị cho tỳ nữ đưa người vào, nói với Mộc Cảnh Thanh: “Đây là con của di nương mới vào phủ, nhỏ hơn con mấy tháng tuổi, con có thể gọi con bé là Thuận Nương.”
Thôi thị giới thiệu xong, Thuận Nương liền hành lễ, trên mặt nở nụ cười dịu dàng. Nàng ta mang theo một cái giỏ, mặc một cái váy lụa đỏ hoa nhí, tay áo ngắn đến nửa cánh tay, chải tóc búi hai bên, trang điểm, khuôn mặt vốn xinh đẹp trông rạng rỡ thêm mấy phần. Thật khó để không chú ý đến nàng ta.
Thuận Nương nói với Thôi thị: “Di nương vốn cũng muốn gặp Thế tử, nhưng vì em nhỏ đang khóc không chịu ăn nên di nương phải đi thăm trước. Kính xin mẹ và Thế tử thứ lỗi.”
Thôi thị gật đầu: “Không sao. Nhị lang về nhà rồi sau này còn nhiều cơ hội gặp mặt. Hôm nay con mặc bộ xiêm y này rất đẹp.”
Thuận Nương cười ngọt ngào, nói: “Thợ may vừa mới đưa tới đấy ạ, con nghĩ là do mẹ đích thân chọn vải, nên phải mặc luôn đến cho người xem. Đều nhờ mẹ tinh mắt cả, sau này Thuận Nương muốn theo người học hỏi nhiều hơn nữa.”
Thôi thị cười, bảo Thuận Nương ngồi lên sập. Thuận Nương mở giỏ, lấy ra một cái đĩa sứ men xanh vẽ hoa sen đặt lên bàn, trên đĩa có bày mấy cái bánh ngọt.
“Đây là bánh ngọt hương hoa con mới làm, nhân bánh là bột đậu xanh mà mẹ thích nhất. Xin mời mẹ và Thế tử nếm thử xem.”
Mấy cái bánh bột lọc hình bông hoa được nặn rất khéo léo, dùng bột gạo nếp loại tốt nhất để nặn, vỏ ngoài trong suốt, có thể nhìn thấy nhân bánh bằng đậu xanh được nặn thành hình mai lan cúc trúc.
“Ừ, đúng thế.” Thôi thị nếm thử, thật lòng khen, “So với thứ ta từng ăn trong yến tiệc ở Trường An lúc trước thì không khác mấy. Thuận Nương thật khéo tay.”
“Nếu mẹ thích, sau này con xin được thường xuyên làm cho người ăn.”
Thôi thị thích ăn ngọt, thường ngày đều uống nước mía giải khát. Bà thấy hơi cảm động với lòng hiếu thảo của Thuận Nương. Chưa chắc con ruột của bà đã biết bà thích ăn cái gì.
Người trong phòng người cười cười nói nói vui vẻ. Mộc Cảnh Thanh thấy Thuận Nương cũng không đáng ghét lắm, nhưng cũng chẳng thể nào thích nổi nàng ta. Cậu chưa bao giờ lãng phí cảm tình cho những người không quá quan trọng.
Cậu vốn cho rằng đàn ông tam thê tứ thiếp là chuyện rất bình thường, nơi khác không nói, chỉ tính trong thành Dương Tư Mị này, mấy lang quân xấp xỉ tuổi cậu đều đã có tỳ nữ thông phòng. Chỉ là Mộc Cảnh Thanh là đầu lĩnh trong quân doanh, không để tâm đến những chuyện này. Vì lẽ đó, cha của của cậu tuy là Vân Nam Vương nhưng chỉ có một người thiếp là Liễu thị, thật sự không coi là nhiều.
Từ phòng Thôi thị đi ra, Mộc Cảnh Thanh đi về chỗ ở của chính mình. Chỗ ở của cậu ở sát cạnh chỗ của Gia Nhu, cách sân viện của Thôi không xa, đi một lát là tới.
“Xin Thế tử chờ một chút.” Phía sau có tiếng gọi của Thuận Nương.
Mộc Cảnh Thanh quay đầu lại, Thuận Nương hành lễ rồi lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn tay màu đen đưa tới: “Vốn không biết gặp mặt thì nên tặng món gì mới tốt, nghĩ Thế tử không thích túi thơm nên muội thêu khăn này, có thể dùng lau mồ hôi, mong Thế tử không ghét bỏ.”
Mộc Cảnh Thanh sửng sốt một chút, đưa tay tiếp nhận. Trên khăn thêu vài con hạc trắng trông rất sống động, vật liệu cũng là tơ lụa tốt nhất. Không biết nàng ta hỏi thăm ai mà biết Mộc Cảnh Thanh thích hạc trắng, xem ra cũng tốn không ít công sức.
“Cảm ơn.” Mộc Cảnh Thanh không làm Thuận Nương thất vọng, liền thuận tay nhận lấy.
Thuận Nương vui vẻ quay đi, Mộc Cảnh Thanh nhét bừa khăn vào trong tay áo, nhấc chân vừa muốn chạy đi thì khóe mắt nhìn thấy dường như có người ngồi trên nóc nhà
Cậu quay đầu nhìn lại, thấy Gia Nhu ngồi trên đó thì giật mình.
“Tỷ, trời tối thui rồi, tỷ ngồi trên đó làm gì thế?”
“Ngắm sao thôi.” Gia Nhu đã hơi say, chống quai hàm nhìn lên trời sao, “Nhân tiện thấy có người tặng đồ cho đệ.”
Mộc Cảnh Thanh hai ba bước đã lên đến nóc nhà, ngồi xuống bên cạnh Gia Nhu, ngửi thấy mùi rượu bèn giật lấy cái cốc uống trà trên tay nàng ngửi một cái, cau mày nói: “Tỷ học uống rượu từ khi nào thế?”
Gia Nhu nhân thể tựa vào bả vai Mộc Cảnh Thanh. Trên người cậu thơm mùi bồ kết, thêm một chút mùi mồ hôi. Nàng đã không được dựa vào em trai gần như vậy từ rất lâu rồi.
“Khi nào tâm tình không tốt, tỷ sẽ uống một chút, đệ đừng có nói cho mẹ đấy. Mà đệ vừa mới được người khác tặng đồ tự thêu, chắc vui lắm nhỉ.”
Mộc Cảnh Thanh bĩu môi: “Đệ với nàng ta không quen, có cái gì hay để vui đâu. Khi nào tỷ thêu cho đệ thì đệ mới thật đáng để vui mừng đấy.”
“Với tài thêu thùa của tỷ thì thôi đi. Chờ đệ cưới vợ, bảo vợ đệ thêu cho.” Gia Nhu cười mỉa, nhìn trời sao, “Các ngôi sau của chòm Bắc Đẩu tên gọi là gì ấy nhỉ?”
“Đệ đã nói với tỷ cả chục lần rồi còn gì. Thiên Xu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương và Dao Quang. Chẳng phải là đã có một thanh niên dạy cho tỷ hồi tỷ đến Trường An lần đầu tiên rồi còn gì.” Mộc Cảnh Thanh ghét bỏ nói xong, liền cởi áo khoác của mình khoác lên vai Gia Nhu, “Nhưng mà ngay cả họ tên người ta tỷ còn chẳng buồn hỏi, có lẽ không còn cơ hội gặp lại rồi.”
Gia Nhu mỉm cười, nháy mắt đã mười năm rồi. Mỗi khi không ngủ được, nàng sẽ trèo lên chỗ cao nhìn lên bầu trời sao. Người kia nói ngân hà mênh mông, sao trời vô số, trước trời sao con người vô cùng nhỏ bé, những chuyện không vui kia càng trở nên bé nhỏ không đáng kể.
Lời chàng nói, nàng đều nhớ.
Mười năm trước Gia Nhu đến Trường An, làm khách ở Lý gia, mấy đứa trẻ Lý gia đều không để ý đến nàng.
Có một đêm, Gia Nhu không ngủ được, bị âm thanh trong vườn hoa hấp dẫn, hóa ra là chị gái của vị lang quân Lý gia kia cùng mấy tỳ nữ đang xem hoa quỳnh nở trong đêm. Gia Nhu từng nghe nói hoa quỳnh chỉ nở trong thời gian ngắn tầm hai canh giờ, được gọi là “mỹ nhân dưới trăng”, vô cùng quý báu, nên cũng muốn ra xem.
Mấy người kia thấy Gia Nhu đến, liền mang hoa đi chỗ khác.
Nàng tức lắm, đứng trong sân chửi ầm lên, thậm chí ức đến độ muốn khóc. Ở Nam Chiếu nàng là con cưng của trời, thế mà ở Trường An lại chẳng ai thèm đoái hoài gì.
Mãi đến khi sau lưng có một giọng cười nói: “Cô có ở chỗ này chửi ghê hơn nữa thì những người đó cũng không nghe được đâu.”
Gia Nhu ngạc nhiên quay đầu lại, nhìn thấy một thiếu niên ngồi trên nóc nhà, dáng vẻ như tiên trên trời, môi hồng răng trắng, ánh trăng nhàn nhạt phủ trên người chàng.
Đây nhất định là chàng thiếu niên ưa nhìn nhất mà nàng từng gặp.
Đêm đó, nàng trải qua thời gian vui vẻ an lành nhất.
Ngày hôm sau, Gia Nhu mang theo rất nhiều lễ vật Nam Chiếu muốn tặng cho chàng thiếu niên kia. Có điều nàng ôm một bụng chờ mong, chờ từ lúc trời tối đến tận hừng đông mà chàng ta vẫn chưa tới. Hỏi thăm tôi tớ của Lý gia thì không kẻ nào chịu nói cho nàng biết.
Gia Nhu thất vọng nghĩ, có lẽ chàng thiếu niên kia cũng giống với người chị họ Lý của chàng ta thế thôi, căn bản không hề thích nàng.
Sau đó, nàng không quay lại đất Trường An nữa, mãi cho đến khi bị Nguyên Hòa Đế bắt được.
“Tỷ, lần này đệ về nhà, thấy tỷ lạ lắm đó. Đã có chuyện gì xảy ra lúc đệ vắng nhà à?” Mộc Cảnh Thanh cúi đầu hỏi.
Gia Nhu cũng không biết trả lời thế nào. Đối với cậu thì chỉ là xa nhà một năm, nhưng đối với nàng là đã qua cả một đời, từ khi còn là cô bé trẻ người non dạ, trở thành vợ của người ta, rồi thành tử tù bị ngũ mã phanh thây.
Đã trải qua sinh ly tử biệt rồi, cho dù có quay trở lại những năm tháng tuổi nhỏ ngây thơ thì tâm tình cũng không thể nào quay lại như lúc trước được.
“Tỷ cuối cùng cũng nghĩ thông, tỷ không thể nào thích Trường An nổi.”
Mộc Cảnh Thanh bỗng nhiên tỉnh ngộ: “Ờ ha, tỷ không thích bị định chuyện hôn nhân, cũng không muốn gả đến Trường An. Vậy thì đừng lấy chồng, phủ Vân Nam Vương không đến nỗi không nuôi được tỷ.
Nghe vậy, Gia Nhu nở nụ cười, véo vào mặt cậu như khi còn nhỏ: “Sao có thể nói không muốn lấy chồng thì sẽ không lấy? Chuyện cha đã định, không ai có thể thay đổi được.”
Gia Nhu đã chấp nhận số mệnh. Hơn trăm năm từ khi khai quốc, nhằm phá bỏ sự độc quyền, lũng đoạn của các quý tộc thế phiệt mà các đời Thiên Tử đều tìm cách làm suy yếu thế lực các quý tộc giầu có, các gia tộc Thôi thị, Lộ thị, Trịnh thị, Vương thị đều phải chịu sức ép ở các mức độ khác nhau, chỉ có Lý gia vẫn cứ sừng sững không suy.
Nàng biết, có thông gia ở phẩm cấp đó có thể củng cố địa vị của phủ Vân Nam Vương ở Nam Chiếu ít nhiều. Sau này, lúc xảy ra trận chiến với Thổ Phồn cũng có cửa để cầu viện.
“Em lớn rồi, chị đừng có véo mặt chứ.” Mộc Cảnh Thanh nắm lấy hai tay Gia Nhu, “Tức rồi đấy!”
Gia Nhu không những không bị cậu dọa, trái lại còn cười. Cười một hồi, vành mắt liền đỏ. Đời trước không thể ngăn cản những chuyện kia, đời này quyết không thể để cho nó xảy ra nữa. Em mình phải sống sót, cưới vợ sinh con, kế thừa toàn bộ Vương phủ.
Mộc Cảnh Thanh không biết Gia Nhu bị làm sao, cậu sợ nhất là nhìn nữ nhân khóc, bèn thật thà buông tay ra: “Ôi, thôi tỷ cứ véo đi.”
Lúc này Ngọc Hồ tìm đến, ngẩng đầu lên thì nhìn thấy hai người Mộc Cảnh Thanh cùng Gia Nhu ở trên nóc nhà, liền vội vàng nói: “Thế tử, hóa ra người ở đây. Gác cổng vừa báo vào, nói mấy tay chèo ở đội thuyền đang cãi nhau rất dữ, mời người qua xem cho.”
Mộc Cảnh Thanh thuận tay ôm Gia Nhu xuống khỏi nóc nhà, giao cho Ngọc Hồ chăm sóc. Lúc gần đi lại không yên tâm mà dặn dò thêm: “Không được để tỷ ấy uống rượu nữa đâu nhé.”
***
Ngày Đoan Ngọ, trời đẹp không một gợn mây. Nhà nào nhà nấy đều cắm ngải cứu cùng hương bồ trước cửa để trừ tà.
Sông đào bên ngoài thành Dương Tư Mị, nước xanh mênh mang. Trên cồn nhỏ giữa sông đang đậu thuyền đủ màu, đầu rồng ngẩng cao, thân thuyền đều thoa dầu trẩu. Các nhà thuyền đang tụ tập một chỗ, dùng tam sinh lục súc để tế thuyền, chiêng trống thi nhau gõ vang.
Gữa sông đậu một con thuyền lầu lớn, gọi là thuyền đích, có treo lơ lửng một quả cầu lớn màu đỏ. Thuyền đua nào đoạt được quả cầu màu đỏ đầu tiên thì thắng.
Hai bên bờ sông chi chít những lều to lều bé đủ cả, mầu sắc sặc sỡ, kéo dài mấy chục dặm. Nhà nào giàu có thì dựng lầu lớn vừa cao vừa đẹp, ngồi ở trên lầu nhìn đủ cảnh sắc trên sông không sót thứ gì. Dân chúng bình thường thì chen chúc trong những cái lều thấp bé chỉ đủ che chắn ánh nắng mặt trời, nhưng dù thế nào cũng không hề ảnh hưởng đến nhiệt tình của dân chúng vây xem.
Đoàn người Thôi thị leo lên tòa lầu kết hoa cao nhất bên bờ sông rồi từng người ngồi xuống.
Liễu thị ngồi trên lầu hoa xem đua thuyền, trong lòng thầm than, nơi này bố trí y như nhà chính của gia đình giàu có, không chỉ rộng rãi sáng sủa, mà còn có đủ tỳ nữ cùng vú già đứng bên phục vụ. So sánh với dân nghèo đang chen chúc dưới kia, quả nhiên là trên trời dưới đất.
Thuận Nương tò mò nhìn xung quanh, chợt chỉ một toà lầu hoa lớn ở cạnh đó, hỏi Thôi thị: “Mẹ, toà lầu kia trông đẹp thế nhỉ, không biết là nhà ai ạ? Trên đường lầu nào cũng đều có người, mỗi lầu kia không có.”
Thôi thị nghe vậy, điềm đạm cười nói: “Đó là của một nhà phú hộ trong thành, hôm nay họ có việc không đến được.”
Thuận Nương gật gật đầu, tiếp tục cùng Liễu thị thảo luận xem hôm nay đội nào trong bốn đội đua có khả năng đoạt giải quán quân nhất. Bốn đội thuyền này thuộc bốn dòng họ lớn, dạo gần đây ngày càng xem trọng chuyện ganh đua nhau.
Thôi thị không nhìn thấy Mộc Cảnh Thanh, hỏi A Thường ở bên cạnh: “Bao giờ thì Nhị lang đến?”
A Thường đi nghe nghe ngóng, rồi bẩm lại: “Trong đội đua thuyền có hai tay chèo đánh nhau bị thương, nên không đủ nhân lực. Thế tử thay cho một người trong đó, lên thuyền đua rồi ạ.”
“Nó học đua thuyền từ bao giờ?” Thôi thị không yên tâm hỏi, “Hôm nay nước sông chảy xiết, không phải chuyện đùa đâu. Đi gọi Thế tử về.”
Tỳ nữ xuống lầu rời đi, sau một lát trở về bẩm báo: “Thế tử nói ở trong quân doanh cũng từng tham gia đua thuyền, hơn nữa kỹ năng bơi rất tốt, xin Vương phi không cần lo lắng.”
Thôi thị biết rõ tính tình Mộc Cảnh Thanh, ngang bướng y như Mộc Thành Tiết, chuyện đã quyết thì rất khó thay đổi. Hơn nữa lúc này là hội đua thuyền, hầu như dân chúng trong thành đều ra xem cả, nếu chỉ vì không đủ người mà bỏ đua thì đúng là mất mặt Mộc thị.
“Thôi, để nó đi đi. Gọi phủ binh nào bơi thạo một chút canh chừng.” Thôi thị lắc đầu nói.
Gia Nhu đi tới bên lan can, nhìn phía sông xa xa. Ở chỗ có lá cờ hồng, Mộc Cảnh Thanh mặc một bộ đồ màu tím ngắn tay, quần bó ống màu đen, hai tay chống nạnh, đang cười vui vẻ vẫy cờ cũng những thuyền khác, không có chút căng thẳng nào.
Thế nhưng sự tình có vẻ ngẫu nhiên một cách đúng lúc, Gia Nhu mơ hồ thấy bất an.
Dưới lầu hoa bên cạnh có một chiếc xe ngựa ngừng lại, bên trong hình như có vài người, hóa ra nhà phú hộ nọ cũng không muốn lỡ dịp vui, cuối cùng vẫn chạy đến.