Tàng Châu

Chương 30




Edit: Châu

Lý phủ đông như trẩy hội, từ lúc biết tin Lý Tứ lang đi thi được đề tên bảng vàng, giới thượng lưu của thành Trường An nổ tung như thể người ta đổ nước vào chảo dầu sôi. Lúc Lý Diệp còn nhỏ từng được gọi là thần đồng, sau đó danh xưng dần mất đi, rồi chàng cáo ốm, vắng mặt nhiều năm, dường như mọi người đã quên sự tồn tại của chàng. Không ai nghĩ Lý Diệp chỉ thi có một lần liền thành danh, lúc này rất nhiều phu nhân ở kinh thành tìm tới Lý gia, lộ ra ý tứ muốn đưa con vợ lẽ tới.

Trịnh thị thấy mình chịu uất ức ở Lý gia nhiều năm như vậy, rốt cục cũng đến lúc được chuyển mình. Lúc nói chuyện trước mặt Lý Giáng, bà ta đã có thể cao giọng hơn một chút. Mặc dù sinh ra trong gia tộc họ Trịnh ở Huỳnh Dương, nhưng Trịnh thị chỉ là con của chi thứ. Hơn hai mươi năm trước, lúc vợ cả Lý Giáng qua đời, Lý Giáng mới chỉ là viên quan nhỏ như hạt vừng hạt đậu, lại đang làm mất lòng phủ Vệ Quốc công quyền thế ngập trời, có nhà nào dám gả con gái cho ông ta làm vợ kế đâu?

Nhờ cha của Trịnh thị có mấy phần nhìn xa trông rộng, thấy Trịnh thị đã lớn tuổi, liền nhờ người làm mai, gả cho Lý Giáng. Thế nên mới có Trịnh thị của hơn hai mươi năm sau, được xưng danh là phu nhân Tể tướng.

“Tướng công, thiếp thân đang nói chuyện với ngài đấy, ngài không nghe à?” Trịnh thị ngồi quỳ chân một bên, nhìn thấy Lý Giáng đang lật lật cuốn sách, có vẻ mất tập trung thì bà ta không nhịn được mà hỏi lại lần nữa.

Lý Giáng nghiêm mặt nói: “Nó sắp sửa kết hôn, mà bà lại định cưới vợ lẽ trước, phủ Vân Nam Vương sẽ nghĩ thế nào? Chờ sau khi nó cưới vợ, để Quận chúa tự lo việc đó đi. Với lại…” Lý Giáng ngẩng đầu nhìn Trịnh thị, nói tiếp: “Bà chưa chắc đã làm chủ được việc ấy đâu.”

Lời này thì Trịnh thị không thích nghe tý nào, là con trai ruột của bà ta, sao bà ta không thể làm chủ cơ chứ? Quận chúa kia lá ngọc cành vàng, bản thân cũng phải có người khác hầu hạ, làm sao có thể hầu hạ con trai bà tử tế được đây? Chẳng qua cưới về làm đồ trang trí thôi.

“Tướng công cứ nói thế. Lúc đó ngài phát cáu, còn đánh nó. Nếu không phải thiếp thân đứng ra, liệu có thể khuyên được Tứ lang tham gia thi khoa cử hay không? Đại lang với Nhị lang đều đã có con, thế mà thậm chí Tứ lang còn không có tỳ nữ nào, thực sự không nhìn nổi.” Trịnh thị lẩm bẩm, “Hay là mấy ngày nữa, thiếp thân mời hết các thiếu nữ đến phủ chơi, xem xét cho thật cẩn thận.”

Lý Giáng mặc kệ Trịnh thị, không buồn để ý đến chuyện này. Trịnh thị chỉ là đàn bà ru rú trong nhà, không có chút kiến thức nào, đây cũng là nguyên nhân khiến Lý Giáng không muốn bàn với bà ta chút nào.

Trịnh thị thấy Lý Giáng không phản ứng gì, biết bàn bạc với ông ta cũng chỉ phí thời gian, liền chào rồi đi ra ngoài.

Bà ta nghĩ tới nghĩ lui, hay là đến bàn với con dâu trưởng? Việc quản lý tài chính nội bộ Lý gia hiện do Vương Tuệ Lan, là vợ Lý Huyên đảm nhiệm. Vương Tuệ Lan vốn là tài nữ, viết thư pháp rất đẹp, chữ viết được rất nhiều quý nữ trong kinh thành học theo. Vương Tuệ Lan sinh ra trong gia tộc Vương thị ở Thái Nguyên, cha là Vũ Ninh hầu, có cô ruột là vợ Thành Quốc công. Vi quý phi trong cung lại xuất thân từ phủ Thành Quốc công, cho nên xin riêng cho Vương Tuệ Lan một phong hào, làm Vinh An huyện chủ.

Cho nên địa vị Vương Tuệ Lan ở Lý gia vô cùng tôn quý.

Trịnh thị đi đến viện cuả Vương Tuệ Lan, sau khi tỳ nữ bẩm báo thì mới mời Trịnh thị vào. Trịnh thị từ nhỏ vẫn chưa quen diễn vai tôn quý, rõ ràng mình là bề trên mà cứ như thấp hơn Vương Tuệ Lan một cái đầu vậy. Sau này Trịnh thị lý giải, người ta là Huyện chủ, Lý Huyên cũng không phải con đẻ của bà ta, nên Vương Tuệ Lan tôn trọng bà ta như mẹ chồng đã là rất nể tình rồi.

Trịnh thị vào trong phòng, căn phòng trang hoàng rất xa hoa, trên đất có trải thảm nhung, đối diện cửa chính là một cái bình phong đứng khắc hình hoa phong lan. Ngăn cách với phòng trong có một cái bàn quầy thấp bằng gỗ cây lê có bày một chậu thủy tiên, trong chiếc bình quý có cắm một cành hồng mai nở rộ. Trong không khí thoang thảng mùi thơm thanh nhã. Một tỳ nữ đang pha trà, nước trong ấm trà sôi ùng ục. Lúc này Vương Tuệ Lan mới từ bàn viết đứng lên, cười nói: “Sao hôm nay đại gia lại rảnh rỗi đến đây thế ạ? Mời người ngồi.”



Nhan sắc Vương Tuệ Lan mặc dù không tính là xuất chúng, nhưng khí chất lại siêu phàm thoát tục.

Trịnh thị ngồi ở bên bàn, Vương Tuệ Lan đưa cho bà ta một cái lò sưởi cầm tay mạ vàng: “Bên ngoài trời lạnh, người cầm lấy cho ấm tay đi.”

Trịnh thị nhận lò sưởi, nói với Vương Tuệ Lan: “Hôm nay ta đến đây có chuyện muốn bàn với con. Ta muốn cưới vợ lẽ cho Tứ lang, cho nên mấy ngày nữa muốn mời một số nương tử đến phủ để xem mặt một chút.”

Vương Tuệ Lan đang uống trà, nghe vậy thì dừng lại một chút: “Chuyện này, người đã ướm lời với tứ đệ chưa ạ?” Theo hiểu biết của Vương Tuệ Lan, Lý Diệp là người không gần nữ sắc, tuổi này rồi mà đến một tỳ nữ hầu ngủ còn không có. Trước kia, người trong nhà đều cho rằng vì thân thể Lý Diệp ốm yếu, cho nên cũng không để ý. Mấy ngày nay, Lý phủ đông như hội, Vương Tuệ Lan cũng được người ta nhờ cậy, nghĩ cách tác động tới Trịnh thị, để bà ấy cưới vợ lẽ cho Lý Diệp.

Trịnh thị thành thật lắc đầu: “Nói với nó cũng vô dụng, tám phần mười nó sẽ không đồng ý đâu. Chờ ta tìm được người ưng ý, rồi cứ đưa thẳng vào phủ, chẳng lẽ nó còn đuổi người ta ra ngoài?”

Vương Tuệ Lan cười nói: “Đại gia, cưới vợ lẽ đương nhiên là chuyện nên làm, nhưng cũng không nên vội. Tứ đệ sắp cưới vợ cả, giờ này mà đưa người mới vào, sợ là Quận chúa Ly Châu sẽ không thoải mái. Không bằng chờ sau khi đón dâu thì giao việc này cho Quận chúa làm, thì có vẻ danh chính ngôn thuận hơn. Với lại, biết đâu bản thân tứ đệ không có ý định lấy vợ lẽ thì sao.”

Mặc dù Lý Diệp ở một mình tại Ly Sơn, nhưng suy cho cùng vẫn là con vợ cả của Lý gia, lấy thêm vợ bé nàng hầu có gì là khó? Nhưng mấy năm qua, Tứ lang vẫn không hề có ý định đó, nên không thể có chuyện đỗ Tiến sĩ liền thay tính đổi nết được. Tuy Vương Tuệ Lan không tiếp xúc với Lý Diệp nhiều, nhưng là người trông coi toàn bộ Lý gia, ít nhất cũng phải có năng lực nhất định, bằng không Lý Giáng cũng sẽ không yên tâm giao việc hậu cần cho.

Trịnh thị nghĩ đến tính tình con trai, thấy Vương Tuệ Lan nói cũng có lý. Sau khi Trịnh thị rời đi, tỳ nữ Bảo Chi đến châm thêm nước trà cho Vương Tuệ Lan. Bảo Chi là tỳ nữ hồi môn của Vương Tuệ Lan, hai người lớn lên cùng nhau từ nhỏ, không có chuyện gì là không nói vói nhau.

“Nương tử có thấy dạo này thái độ của Tứ lang quân khác thường không, có phải đã động lòng đối với Quận chúa Ly Châu không? Cho nên người mới khuyên phu nhân không nên gấp gáp cưới vợ lẽ cho Tứ lang quân.” Bảo Chi hỏi.

Vương Tuệ Lan thổi thổi chén trà, lạnh nhạt nói: “Quan hệ thông gia của thế gia đại tộc, có ai có tình cảm thật đâu? Vợ chồng đều là chịu đựng nhau mà sống. Ta can ngăn phu nhân, là vì không muốn xảy ra chuyện gì vào lúc này. Vốn việc Lý gia kết thân cùng phủ Vân Nam Vương đã đủ làm người khác chú ý rồi. Tướng gia mà trách tội xuống thì ta biết giải thích thế nào.”

Bảo Chi gật gật đầu: “Theo cảm nhận của nương tử thì Quận chúa Ly Châu so với Quách nương tử, ai ghê gớm hơn ai? Tướng công muốn Tứ lang quân về nhà ở, sau này thể nào chẳng ra gặp vào gặp. Đó là Quận chúa đấy, cấp bậc còn cao hơn nương tử cơ, phẩm cấp ấy Quách Mẫn còn không thể so được.”

Đáng là Vương Tuệ Lan chưa hề nghĩ tới vấn đề này. Mặc dù Quách Mẫn xuất thân hiển hách, nhưng xét cho cùng không có phong hào, cho nên thường ngày cũng không dám làm càn quá mức trước mặt Vương Tuệ Lan. Ngày trước, lúc Tuệ Lan xuất giá, chính vì cân nhắc đến điểm này, cha Vương Tuệ Lan mới báo riêng cho em gái mình, để em gái tiến cung xin Vi quý phi một phong hào, chủ yếu dùng để đối phó với Quách Mẫn. Cũng may Quách Mẫn không có hứng thú đối với việc quản gia, nhưng vì hai người là chị em dâu, cho nên không tránh khỏi việc so bì hơn thua, ngầm ngầm đấu đá với nhau.

Bây giờ lại thêm một em dâu nữa, lại còn có thân phận là Quận chúa cao quý, Vương Tuệ Lan thấy thật là áp lực.

“Ngươi cho người đi thăm dò một chút về Quận chúa Ly Châu đi. Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.” Vương Tuệ Lan nói.



***

Trước khi kết hôn, Gia Nhu không được gặp mặt Lý Diệp, hơn nữa Thôi thị muốn mài giũa tính kiên nhẫn của nàng, nên bắt nàng ở trong phủ thêu áo cưới, hàng ngày trông coi rất nghiêm. Gia Nhu lớn như vậy, trước đây Thôi thị đều mặc kệ nàng, thế mà lần này thái độ khác hắn, chắc là bị chuyện của mẹ con Liễu thị kích thích.

Bọn họ không ngờ Tiết độ sứ Vũ Ninh lại đột nhiên tới cửa, còn nhìn trúng Thuận Nương, mà Thuận Nương cũng đồng ý đi với gã ta. Tiết độ sứ Vũ Ninh chính là người cuối cùng mà Ngu Bắc Huyền cầu viện ở kiếp trước, theo lời vị thái giám kia từng nói, Ngu Bắc Huyền còn định cưới con gái gã.

Gia Nhu không biết đây có phải là sự trùng hợp hay không, nhưng ngày nàng cùng Thôi thị đi tiễn Thuận Nương, lúc rời đi Thuận Nương khóc nức nở từ biệt mọi người, nhưng trong mắt nàng ta không phải là thương tâm, mà là lạnh lẽo. So với lúc xảy ra biến cố mà Thuận Nương mất đi mẹ đẻ cùng em trai, cũng mất đi toàn bộ phủ Vân Nam Vương, thì sự đau thương thật rất khác nhau.

Mỗi người đều có con đường mà chính mình phải đi. Đường do mình tự chọn, dù cho là núi đao biển lửa, cũng không được chùn bước, không có cách nào quay đầu lại. Thuận Nương bây giờ cũng như Gia Nhu năm đó, thực ra không khác gì nhau.

Hơn nữa Gia Nhu còn chú ý tới một chuyện khác, nàng đã đến Kinh thành mấy lần, nhưng chưa từng nghe thấy người bên ngoài đề cập đến người tên Ngọc Hành. Nhưng người này lại có vai trò cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ thế cục thiên hạ. Từ chuyện Quảng Lăng Vương lội ngược dòng đăng cơ, đến chủ trương cố gắng thực hiện tước phiên, rồi đến chuyện hành quân đối phó với Hoài Tây, Ngọc Hành đều là người sau màn, là quân sư điều binh khiển tướng. Có thể nói, đó là người có công đầu trong thành công của Nguyên Hòa đế. Chính vì thế sau khi đăng cơ, Nguyên Hòa đế từng hứa cho người đó chức Tể phụ, nhưng người đó kiên quyết từ chối, dứt khoát lui về ở ẩn.

Một người phụ tá Đế vương đăng cơ mà không phải vì quyền thế địa vị, thế thì vì cái gì đây?

Gia Nhu từng nghe Ngu Bắc Huyền nói không chỉ một lần, kẻ địch mà y kiêng kỵ suốt đời chính là Ngọc Hành.

Sau đó chiến sự Hoài Tây bùng lên, Nguyên Hòa đế lại mời Ngọc Hành xuống núi. Người đó xác thực rất có năng lực, mặc dù không có một chút quan chức nào, nhưng có thể hiệu lệnh thiên quân vạn mã. Cho dù Ngọc Hành ra chiến trường nhưng cũng chưa bao giờ lộ diện, vô cùng thành thạo binh pháp, trong mấy lần giao thủ với Ngu Bắc Huyền thì Ngọc Hành đều chiếm thế thượng phong. Ngu Bắc Huyền là người từ chiến binh trên sa trường, dần dần ngoi đến chức Đại tướng, hiếm có đối thủ ngang cơ, thế nhưng nhiều lần bại trong tay Ngọc Hành. Cuộc chiến Từ Châu cũng do Ngọc Hành xoay chuyển tình thế, làm thay đổi toàn bộ cục diện cuộc chiến.

Thậm chí Gia Nhu còn hoài nghi rằng, đội quân đánh úp bất ngờ xuất hiện tại Thái Châu kiếp trước cũng là do Ngọc Hành chỉ điểm, cho nên nàng mới rơi vào trong tay Nguyên Hòa đế.

Chỉ tiếc bọn họ trăm tính vạn toán, cũng không tính tới chuyên Ngu Bắc Huyền căn bản không bị sa lưới vì tình. Một kẻ đã có dã tâm tạo phản soán ngôi thì làm gì có khả năng sẽ vì một người phụ nữ mà từ bỏ đại nghiệp. Mấy người này là đàn ông nhưng chưa đủ hiểu đàn ông đâu.

Đời này, nếu như có may mắn nhìn thấy Ngọc Hành, Gia Nhu cũng muốn nhìn xem người đó thần thánh đến thế nào, có mọc ra ba đầu sáu tay hay không. Cái người mà được Đế vương tuyệt đối tín nhiệm, nắm giữ quyền thế thiên hạ tối cao, có thể lật tay làm mây úp tay làm mưa, nhưng lại không chịu chui vào chốn triều đình.

Hẳn phải là một người vô cùng đặc biệt, cho dù có thể đó cũng chính là đầu sỏ hại chết nàng đời trước.

Nhưng phải công nhận đó là một người tốt, Nguyên Hòa đế cũng tốt, tuy nàng từng chịu cực hình trong tay họ, nhưng chẳng qua là lập trường khác nhau, cho nên Gia Nhu không trách bọn họ. Đời này, chỉ cần biết Quảng Lăng Vương là người thắng cuối cùng, thì nàng thật thà mà ủng hộ ông ấy, không phải chịu cảnh thê thảm như đời trước là được.