Vào ngày xuân, mưa phùn như chỉ bạc rơi xuống thành Trường An.
Con đường ngang dọc tựa bàn cờ heo hút bóng người, mà pháp trường cách chợ phía Đông không xa lại chật như nêm cối. Trên chiếc đài cao ba trượng, một người đàn ông cao lớn mặc áo đỏ, tay để trần đang đánh trống, từng đợt trống như tiếng sấm xuân truyền đi thật xa.
Có chàng thư sinh ra sức chen về trước, nhưng người vây xem quá đông, y không tài nào luồn lách nổi, chỉ đành nghe ngóng tiếng bàn luận từ bên cạnh.
“Lâu lắm chưa thấy người nào phải chịu hình phạt ngũ mã phanh thây, rốt cuộc người này đã phạm phải tội gì thế?”
“Ai da, đó là Quận chúa Ly Châu, vợ cả của Tiết độ sứ Hoài Tây Ngu Bắc Huyền. Lúc khởi binh, Ngu Bắc Huyền từng giết đường muội của Thánh nhân để tế cờ, nay vợ y rơi vào tay Thánh nhân, làm sao có kết cục tốt cho được?”
“Nếu đã là vợ của Ngu Bắc Huyền thì vì cớ gì y lại không tới cứu?”
“Ngu Bắc Huyền mới bị triều đình đánh đuổi về phía Nam sông Hoài, nào có rảnh rỗi để đi gặp nàng ta… Chao ôi, vốn là lá ngọc cành vàng mà nay lại rơi vào kết cục như vậy.”
Chung quanh vang lên những tiếng thở dài ngao ngán. Hành hình công khai vốn chỉ áp dụng cho thứ dân cùng những kẻ tàn bạo bất trị, nào tới phiên một Quận chúa có thân phận cao quý. Nhưng lúc này, để tỏ rõ quyết tâm đối kháng với các đại quân Phiên trấn[1], triều đình cố ý giết gà dọa khỉ.
Vả lại, phủ Vân Nam Vương đã sớm chẳng còn tồn tại trên cõi đời này.
[1] 藩镇 (Phiên trấn): Quân Phiên trấn là một trong hai quân đội thời nhà Đường, “Phiên” là bảo vệ, “trấn” chỉ quân trấn. Triều đình phong kiến thực hiện quân trấn để bảo vệ sự an toàn của trung ương, nhưng kết quả là lại hình thành một thế lực cát cứ đối kháng với chế độ trung ương tập quyền.
Trong pháp trường, Mộc Gia Nhu mặc áo tù đay thô, mái tóc rối bù che lấp khuôn mặt. Tay chân và cổ nàng bị trói gô bởi những sợi thừng to bản nối với năm con ngựa. Lũ ngựa không ngừng thở phì phò, bốn vó đạp đất chỉ chực lao đi.
Nàng mở mắt, thẫn thờ nhìn cơn mưa bụi lất phất trên không. Lúc này đây, nàng đã chẳng còn hoang mang sợ hãi như mấy ngày trước mà lại bình tĩnh vô cùng.
Nếu làm gì cũng không thể thay đổi kết cục này, chi bằng thản nhiên đối mặt với nó.
Hạt mưa vô vị rơi vào miệng, song nàng lại nếm được vị cay đắng, hai mươi tư năm quá khứ thoáng lướt qua trước mắt như đèn kéo quân.
Nàng sinh ra ở Nam Chiếu, cha nàng là Vân Nam Vương tiếng tăm lừng lẫy, mẹ nàng là hậu bối của Thôi thị vang danh đất Thanh Hà. Khi còn trẻ, vì muốn ở bên Tiết độ sứ Hoài Tây Ngu Bắc Huyền, nàng không tiếc ngỗ nghịch phụ thân, bị đuổi ra khỏi nhà.
Sau này, Ngu Bắc Huyền phụng chỉ thành hôn với Quận chúa Trường Bình, nàng từ vợ cả thành vợ lẽ, dựa vào tình cảm giữa hai người mà đi được tới ngày hôm nay.
Đến khi vua Nguyên Hoà lên ngôi, bắt đầu trọng dụng nhóm đại thần ủng hộ chính sách tước phiên[2], lần lượt thu hồi quyền lực của quân Phiên trấn, Ngu Bắc Huyền bèn phái người tới Trường An ám sát một vị Tể tướng và Ngự sử đại phu đang chuẩn bị vào triều, làm một người chết, một người bị thương, khiến triều đình và dân chúng khiếp sợ. Sau này, triều đình dốc toàn binh lực để đối phó với Hoài Tây.
[2] 削藩 (Tước phiên) là chính sách mà vua chúa áp dụng để củng cố quyền lực của bản thân bằng cách thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyền lực của của một thế lực. Bởi vì xung đột lợi ích, việc tước phiên thường dẫn đến những bất ổn chính trị, thậm chí là đối kháng quân sự.
Nàng theo y Nam chinh Bắc chiến, vì bảo vệ mẹ chồng tuổi đã cao mà bị quân triều đình bắt được, đưa về giam giữ tại Trường An. Triều đình bố trí vô vàn cạm bẫy, lấy nàng làm mồi nhử hòng dụ Ngu Bắc Huyền vào tròng. Tuy biết bản thân chẳng là gì so với mưu đồ thống trị vĩ đại của y, nhưng trong lòng nàng quả thực vẫn ôm chút mong chờ.
Bên tai chợt truyền đến tiếng thái giám hô, “Hoàng thượng giá lâm!”
Mộc Gia Nhu nhếch môi, không ngờ một tử tù như nàng lại được đích thân vua Nguyên Hòa giám sát hành hình.
Vua Nguyên Hòa chỉ vừa lên ngôi vài năm, là một vị vua trẻ tuổi đầy triển vọng. Trên phương diện chính trị, ngài chăm lo việc nước, trọng dụng hiền thần, cải cách ưu nhược điểm của các chính sách, dốc lòng tu bổ những tổn hại mà đế quốc phải gánh chịu từ trận đại loạn xảy ra cách đây bốn mươi năm, chấn hưng uy vọng của triều đình, dần dần phục hưng đất nước.
Thái giám bước vào pháp trường, nhìn nữ tù nhân tóc tai rối bù, nhếch nhác nằm trên mặt đất, y vênh váo hỏi: “Mộc thị, ngươi đã biết rõ tội của mình chưa?”
Mộc Gia Nhu không đáp.
Tên thái giám cười gằn: “Thánh nhân đã nhiều lần chiêu cáo thiên hạ, phản tặc Ngu Bắc Huyền tất biết ngươi đang bị tra tấn ở Trường An, ấy vậy mà hắn lại vứt bỏ nhà ngươi, chẳng nhẽ trong lòng ngươi không oán sao? Nói cho ngươi biết một chuyện nhé, Ngu Bắc Huyền lấy ngươi vốn là có mưu đồ khác, nay ngươi đã không còn giá trị lợi dụng, tất nhiên hắn sẽ không tới cứu.”
Đầu Mộc Gia Nhu khẽ động, nhưng phần cổ bị dây thừng siết chặt khiến nàng không thể quay đầu nhìn tướng mạo của tên thái giám kia, chỉ thoáng trông thấy một đôi giày lục hợp màu đen lấm tấm nước mưa, trông vô cùng sạch sẽ, có phần không hợp với mặt đất lầy lội ở chung quanh.
“Sau khi ngươi theo hắn, hắn đã từng mượn tay cha ngươi để giành được một phần mười lượng muối và sắt ở Nam Chiếu hàng năm, lại lấy danh tiếng của Thôi gia để chiêu mộ hiền tài. Nay cánh hắn đã đủ cứng cáp, muốn liên minh với Tiết độ sứ Vũ Ninh để chống đối triều đình. Tiết độ sứ Vũ Ninh có một cô con gái chưa lập gia đình, thế nên hắn mới giết Quận chúa Trường Bình rồi vứt bỏ nhà ngươi.”
Một tiếng nổ ầm ầm vang lên trong đầu Mộc Gia Nhu.
Sau khi nàng bị đuổi khỏi vương phủ, cha mẹ vẫn âm thầm giúp nàng ư? Mấy năm qua, y đối xử tốt với nàng là vì thế sao? Y nói y phải đi cầu viện Tiết độ sứ Vũ Ninh, bảo nàng chờ tin ở Thái Châu, hóa ra tất cả đều là dối trá! Y đã sớm bỏ rơi nàng để chuẩn bị cưới người khác rồi!
Tay nàng dần dần siết chặt thành quyền, vành mắt nóng lên, trong đầu không ngừng tự nhủ, đó chỉ là kế ly gián của bọn chúng. Nhưng nay nàng đã sắp mất mạng, bọn chúng nói dối thì có ích gì chứ?
Mẹ nàng từng bảo, cuộc gặp gỡ giữa y và nàng tại Mã Thành chẳng phải tình cờ, mà là y tìm trăm phương ngàn kế để tiếp cận nàng, chỉ là khi đó nàng không mảy may nghe lọt.
Mưa vẫn rả rích không ngừng, ngày xuân ở Trường An mang theo khí rét căm căm. Nước mưa lạnh như băng rơi trên mặt nàng, hòa cùng nước mắt, không ngừng chảy xuống.
Nàng yêu y bằng cả trái tim, trả giá bằng cả thanh xuân, ruồng bỏ cả thân phận và người nhà, nhưng cuối cùng cũng chỉ là một hòn đá kê chân trên con đường đại nghiệp của y mà thôi!
Nàng quả là ngu xuẩn!
“Hành hình!” Một giọng nói uy nghiêm giáng xuống từ trên cao.
Dưới sự chỉ huy của mã quan, năm con ngựa cùng tiến bước, tứ chi bị kéo căng khiến nàng đau đớn tột độ, cổ bị siết chặt khiến nàng hít thở không thông.
“Bệ hạ, thần có lời muốn tấu!” Ngoài pháp trường bỗng có người hô to, khiến đám đông nhốn nháo một trận.
Những tiếng động xung quanh dần dần rời xa Mộc Gia Nhu, tựa như thanh âm từ một thế giới khác.
Nàng đã chẳng còn lưu luyến gì với cuộc sống này, chỉ một lòng muốn chết.
Edit | Beta: Châu & Manh
Dương Tư Mị là thành trì lớn nhất ở Nam Chiếu, được thống trị bởi quý tộc địa phương đã nhiều đời nay. Vào thời kỳ cường thịnh nhất của nhà Hán, sau khi Mộc thị thống nhất Lục Chiếu[1], quy thuận triều đình, Hoàng đế đã phong tộc trưởng của Mộc thị làm Vân Nam Vương, ban thưởng ấn chương vàng và lụa tím[2], đời đời cha truyền con nối. Đến đời Mộc Thành Tiết, ông cưới con gái của Thôi thị Thanh Hà tiếng tăm lừng lẫy, chỉ sau một năm đã hạ sinh một bé gái, được triều đình phong làm Quận chúa Ly Châu.
[1] Khởi đầu từ thế kỷ thứ bảy tại khu vực Nhĩ Hải, Vân Nam ngày nay từ sáu bộ lạc lớn (Mông Huề Chiếu, Việt Tích Chiếu, Lãng Khung Chiếu, Đằng Đạm Chiếu, Thi Lãng Chiếu và Mông Xá Chiếu), tự xưng là “Lục Chiếu”, “Chiếu” nghĩa là “tù trưởng”.
[2] Con dấu/ấn chương màu vàng và lụa tím là phục sức đại diện cho phẩm cấp.
Mười lăm năm trôi qua, Quận chúa Ly Châu càng lớn càng trở nên xinh đẹp, nhưng nay Mộc Thành Tiết lại đang đau đầu vì con gái của mình.
Vào ngày hội tháng Ba truyền thống của Nam Chiếu, khi Quận chúa Ly Châu cưỡi ngựa ra phố thì tình cờ gặp một người đàn ông, cả hai vừa gặp đã thương, khó lòng chia lìa. Đợi đến khi Mộc Thành Tiết nhận được thư nhà báo tin, ngựa đã gần kề thành Kiếm Xuyên mà còn phải thúc roi quay lại, con gái đã khóc hết nước mắt, quyết không gả cho ai khác ngoài người nọ.
Mộc Thành Tiết sai người điều tra lai lịch của kẻ kia, hóa ra y chính là Ngu Bắc Huyền – Tiết độ sứ Hoài Tây danh tiếng lẫy lừng.
Hơn ba mươi năm trước, tuy triều đình giành thắng lợi trong trận đại loạn ở Trung Nguyên, nhưng cũng đồng thời chôn xuống rất nhiều mầm họa. Vì không thể thu phục quân đội dưới trướng một số bại tướng, triều đình phong họ làm Tiết độ sứ trấn thủ một phương, nổi danh nhất trong số đó là ba Tiết độ sứ Lư Long, Thành Đức và Ngụy Bác, tự xưng Hà Sóc tam trấn.
Từ đây, các thế lực Phiên trấn chia cắt lãnh thổ[3], người mạnh thì đoạt chừng mười châu[4], kẻ yếu cũng nuốt trọn ba, bốn châu, thỉnh thoảng lại nổi lên những cuộc bạo loạn hoặc đấu đá, không ngừng tranh chấp.
[3] 割据 (Cát cứ, hay cắt cứ) là hành vi cắt lãnh thổ để chiếm giữ và lập chủ quyền riêng, không phục tùng triều đình.
[4] Đơn vị hành chính thời Đường, tương đương với quận.
Quân Hoài Tây đóng bên bờ sông Hoài vốn không phải là một thế lực mạnh, cho đến khi Ngu Bắc Huyền chiếm đoạt vị trí của nghĩa phụ, tiếp quản chức Tiết độ sứ Hoài Tây. Y thu nhận và giúp đỡ những kẻ lưu vong, xếp họ vào quân đội, những kẻ không quy thuận trong đất phiên đều phải chịu sự đàn áp đẫm máu. Khi dò xét các châu phủ[5], vì chiêu mộ hiền tài, y thậm chí còn không tiếc vung tiền mời thanh quan triều đình làm phụ tá.
[5] Đơn vị hành chính thời Đường.
Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, quân Hoài Tây vốn chỉ quản lý bốn châu mở rộng địa bàn thành bảy châu, có thể sánh ngang với Hà Sóc tam trấn .
Khi ấy, y còn chưa đến ba mươi.
Mộc Thành Tiết biết Ngu Bắc Huyền tuyệt đối không phải kẻ tầm thường, ông chỉ không ngờ y lại dám nhăm nhe Nam Chiếu, nhúng chàm cô con gái rượu của mình, đương nhiên lửa giận ngút trời.
Giữa trưa, hai cha con lại tranh chấp vì chuyện này, Mộc Thành Tiết nổi nóng, cho Mộc Gia Nhu một cú bạt tai giáng trời. Tuy thường ngày ông có phần nghiêm khắc với con gái nhưng chưa bao giờ đánh con, tát con rồi, chính bản thân ông cũng kinh hãi tột độ. Mộc Gia Nhu bị đánh khóc ngất tại chỗ, đến nay vẫn chưa tỉnh.
“Đại vương, phía ngoại trạch… nhất quyết mời ngài phải qua một chuyến ạ.” Tùy tùng đứng ngoài cửa thấp giọng bẩm báo.
Mộc Thành Tiết đang phiền lòng vì chuyện của con gái, xẵng giọng hỏi: “Có chuyện gì?”
“Lúc trước ngài vắng nhà nên ngoại trạch không dám báo lại đây, vị nương tử kia đã hạ sinh một tiểu lang quân rồi ạ.” Tùy tùng cung kính nói.
Ông chau mày, chần chừ trong chốc lát, cuối cùng vẫn đẩy cửa ra ngoài.
***
Hậu trạch trong vương phủ được chia làm mấy sân, trong đó, khu nhà được trang hoàng vô cùng xinh đẹp ở phía Bắc là nơi ở của Vương phi Thôi thị.
Khi xuất giá, Thôi thị không chỉ mang theo của hồi môn phong phú mà còn dẫn theo rất nhiều thợ khéo tay, phủ Vân Nam Vương chính là kiệt tác đầy tâm huyết của họ. Đình đài lầu các, nước chảy dưới cầu, tinh tế phô bày sự xinh đẹp và thanh tú của khu vườn.
Tại nhà chính, tôi tớ yên lặng, ai làm việc nấy.
Ở phòng trong, Thôi thị ngồi bên mép giường cầm khăn lau mặt cho một người thiếu nữ, gương mặt đượm vẻ sầu lo. A Thường, bà vú hồi môn của bà khẽ an ủi: “Nương tử đừng sốt ruột, khi nào tiểu nương tử tỉnh thì ta lại tiếp tục khuyên.”
Thôi thị thở dài: “Tính tình Chiêu Chiêu vú cũng biết rồi đấy, nó mà đã quyết cái gì thì không ai có thể thay đổi được. Chẳng biết Ngu Bắc Huyền đã mê hoặc nó bằng cách nào, chúng ta căn bản không khuyên nổi. Giờ ta chỉ lo cho cọc hôn ước với Lý gia thôi.”
A Thường nhìn thoáng qua thiếu nữ nhắm nghiền hai mắt đang đắp chăn gấm ở trên giường, âm thầm lắc đầu. Tiểu nương tử bất mãn với hôn ước cũng chẳng phải chuyện ngày một ngày hai.
Năm xưa, khi tiến về phía Bắc Trường An, Mộc Thành Tiết và Lý gia từng có tình cảm thâm hậu. Hai nhà ước định làm thông gia, chỉ chờ Mộc Gia Nhu tròn mười sáu là xuất giá.
Lý gia xuất thân từ Lý thị ở Triệu Quận, cùng Lý thị ở Lũng Tây, Thôi thị ở Bác Lăng, Thôi thị ở Thanh Hà, Lư thị ở Phạm Dương, Trịnh thị ở Huỳnh Dương, Vương thị ở Thái Nguyên được tụng xưng là năm họ bảy nhà, là những danh môn bậc nhất trong thế gia đại tộc.
Tuy thế lực của những sĩ tộc ấy đã dần suy yếu ở triều đại này, không còn khả năng hô mưa gọi gió như tiền triều, song họ vẫn nắm giữ một phần quyền thế và tài phú cực lớn của Trung Nguyên, áp đảo người thường.
Thôi thị biết gia phong của Lý gia rất nghiêm, nếu biết con dâu chưa vào cửa muốn bỏ nhà theo người đàn ông khác, hôn sự khó thành là chuyện nhỏ, hai nhà kết thù mới là chuyện lớn.
Thiếu nữ nằm trên giường bỗng nâng hai tay lên đè cổ, không ngừng giãy giụa, dường như đang cảm thấy vô cùng khó chịu.
“Tiểu nương tử!” A Thường hô lên.
Thôi thị hoàn hồn, vội vàng vuốt ve tay con, dịu giọng dỗ nàng: “Chiêu Chiêu, mẹ ở đây, con đừng sợ.”
Theo tiếng vỗ về mềm mại của mẹ, thiếu nữ dần bình tĩnh lại.
Nàng hãy còn chưa biết, một sự thay đổi lớn cỡ nào đang đợi nàng.
***
Hai ngày sau.
Giữa trưa, trong hoa viên phía sau vương phủ, có hai hàng vú già và tỳ nữ ăn vận rực rỡ đứng ngoài thủy đình.
Trên lan can ở trong đình nằm một người thiếu nữ. Nàng mặc áo lụa trắng điểm xuyết những vân mây, để lộ nửa cánh tay trần, phối với chiếc váy xếp ly thêu hoa tường vi màu ngọc bích, dưới váy là một đôi giày thêu mây đẹp đẽ tinh xảo.
Trong hồ bát ngát lá sen, nước hồ trong veo thấy đáy, có mấy chú cá chép đầu đỏ đang nô đùa dưới tán sen. Một con chuồn chuồn lướt qua, đậu trên mặt nước yên ả, khiến đàn cá giật mình bơi tứ tán.
Khi vừa tỉnh lại, Mộc Gia Nhu cực kỳ khiếp sợ, không thể tin rằng mình chẳng những không chết mà còn trở lại năm mười lăm tuổi, người và việc xung quanh vẫn vẹn nguyên như trong ký ức. Tuy hai ngày nay nàng đã thoáng bình tĩnh lại nhưng trong thâm tâm thì đong đầy suy nghĩ.
Nàng sống lại ở thời điểm đã quen biết Ngu Bắc Huyền, đang chuẩn bị trốn nhà theo y. Nàng trao cho y chín năm tốt nhất của cuộc đời mình, những tưởng phu thê cùng chung hoạn nạn, tâm đầu ý hợp, mãi đến khi sắp mất mạng mới biết, hóa ra mình chỉ là một trò cười.
Tỉnh mộng kiếp trước, đầu óc vốn mù quáng vì tình cũng thức tỉnh.
Đời này, hoành đồ bá nghiệp mà y mưu cầu, Quận chúa Trường Bình mà y cưới, tất cả đều chẳng còn liên quan tới nàng nữa.
Tỳ nữ Ngọc Hồ vào đình, thấy Quận chúa vẫn ngồi ngẩn người thì vô cùng lo lắng. Rõ ràng đại phu đã đến xem, nói thân thể Quận chúa không còn gì đáng ngại, vì sao tính tình người lại đột nhiên thay đổi nhiều như vậy?
Nàng buông mâm song ngư bạc, bước tới bên người Gia Nhu, dò hỏi: “Quận chúa, khoái mã đưa vải chín sớm từ Lĩnh Nam đến, người có muốn nếm thử không ạ?”
Gia Nhu quay đầu, trông thấy những quả vải căng mọng trong mâm, vỏ ngoài đỏ au, hẳn là chưa lìa cành được hai ngày.
Trái vải là vật quý ở phương Bắc, người có tiền chưa chắc đã mua được, chủ yếu là vì nó khó bảo quản, sau bốn, năm ngày hái xuống là sẽ hỏng ngay. Tuy nhiên, ở phủ Vân Nam Vương, vải lại chẳng phải vật hiếm có gì.
“Cha còn chưa về à?”
Ngọc Hồ đáp vâng. Hai ngày trước, Mộc Thành Tiết có việc ra ngoài phủ, đến nay vẫn chưa về.
Nhìn bốn bề yên lặng, Ngọc Hồ cúi người khẽ nói: “Quận chúa, bọc quần áo mà người sai nô tỳ sửa soạn đã được đặt ở trong phòng rồi. Nếu người muốn rời khỏi vương phủ, không bằng thừa dịp Đại vương vắng nhà…”
Thái độ của Gia Nhu lại rất lạ, kiên quyết răn: “Em cất quần áo đi, từ nay về sau không được phép nhắc lại việc này nữa.”
Ngọc Hồ vô cùng giật mình. Mấy hôm trước, Quận chúa còn sẵn sàng bỏ trốn cùng người kia bất cứ lúc nào, phân phó nàng ta sắp xếp bọc quần áo, sao đột nhiên lại thay đổi chủ ý?
“Tiểu nương tử!” A Thường vào đình nghỉ mát, bước chân tuy gấp nhưng vẫn đoan trang.
“Làm sao thế?” Gia Nhu ngẩng đầu hỏi.
A Thường lấy hơi rồi mới nói: “Đại vương về rồi ạ, còn dẫn theo mấy kẻ ở ngoại trạch, đang ở sân của nương tử.”
Ngoại trạch là nói thị thiếp Liễu thị của Mộc Thành Tiết và Thuận Nương, con gái do thị sinh. Mấy năm nay, hai bên vẫn luôn nước sông không phạm nước giếng, chưa bao giờ chạm mặt.
A Thường mặt ủ mày chau nói tiếp: “Liễu thị sinh được con trai, nay ả ôm con trai đến cửa van lơn, ham danh ham phận tới mức bất chấp cả thân thể đang ở cữ, nương tử thiện tâm nên bằng lòng để bọn họ ở lại. Ai da, tức chết nô tỳ rồi, Đại vương làm thế chẳng phải sẽ khiến nương tử khó chịu sao?”
Thôi thị ở Thanh Hà là danh gia vọng tộc đã có tuổi đời mấy trăm năm, chỉ cần vung tay kêu gọi, sĩ thứ (kẻ sĩ và thứ dân) tất đáp. A Thường vào Thôi gia hầu hạ từ khi còn trẻ, ngạo khí hơn người của danh môn cũng thấm vào xương cốt phần nào, đương nhiên chướng mắt với loại thiếp thất ở ngoại trạch như Liễu thị.
“Vú đừng giận, chỉ là một thiếp thất nho nhỏ mà thôi, chẳng lẽ mẹ còn không xử lý được? Chúng ta đi xem đi.” Gia Nhu đứng đậy, rời khỏi đình trước nhất.
A Thường cố ý bước chậm lại, đưa mắt nhìn Ngọc Hồ: “Hai ngày này Quận chúa có gì lạ không?”
Ngọc Hồ khẽ đáp: “Vừa rồi nô tỳ thử dò hỏi, Quận chúa chẳng những thôi không trốn nữa mà còn cấm nô tỳ nhắc lại việc kia.”
A Thường không khỏi ngờ vực. Bà theo Thôi thị gả tới đây, tận mắt chứng kiến Gia Nhu trưởng thành, có thể nói là rõ tính nàng vô cùng, gần như không đụng tường Nam thì quyết không quay đầu.
Hai ngày trước, lúc Gia Nhu vừa tỉnh, nàng lộ vẻ kinh ngạc, sau đó nhào vào lòng Thôi thị khóc nấc lên. Về sau, nàng không còn quá giống “nàng” của khi xưa nữa.
Mời đại phu qua phủ chẩn bệnh cũng không phát hiện ra điều gì.
“Như thế là tốt nhất. Kia vốn chẳng phải chuyện vẻ vang, nếu truyền ra ngoài thì sẽ hủy hoại khuê danh của Quận chúa, sau này không ai được phép nhắc lại nữa. Cô gần gũi với Quận chúa nhất, hàng ngày nhớ chú ý săn sóc Quận chúa đấy.” A Thường dặn dò.
“Vâng, nô tỳ rõ rồi ạ.” Ngọc Hồ cung kính đáp.