Sử Thượng Đệ Nhất Phật Tu

Quyển 2 - Chương 82




*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Chương 82



Bóng trăng chiu qua tán cây tùng ánh trăng sáng rọi bị cây tùng khổng lồ kia chắn lại hơn phân nửa những tia sáng lốm đốm xuyên qua tán tùng chiu lên mặt đất loang lổ lấp lánh

Bóng trăng chiếu qua tán cây tùng, ánh trăng sáng rọi bị cây tùng khổng lồ kia chắn lại hơn phân nửa, những tia sáng lốm đốm xuyên qua tán tùng chiếu lên mặt đất, loang lổ lấp lánh.

Cạnh cây tùng, một nam tử mặc trường bào có tay áo rộng đang đánh cờ với một nam tử khác, hắn chơi quân đen, bàn cờ đã thành thế đại long (Chỗ này tui ko hiểu, chắc là nói thế cờ), hắn gần như không có khả năng thắng cuộc.

“Nhan Kiều, ngươi lại thua rồi.” Mục Đình hạ một nước cờ, chăm chú nói.

“Trò chơi này là của con người, một cây tùng như ta đương nhiên không thắng được các ngươi.” Nhan Kiều thấy mình thua chắc, liền quấy tung bàn cờ, lại định quỵt nợ.

Dám can đảm chơi xấu với Vạn Thánh Ma Hoàng Mục Đình thanh danh hiển hách, trừ Nhật Nguyệt Yêu Hoàng Nhan Kiều ra thì chẳng còn ai khác.

“Hình như tâm tình ngươi đang rất tốt nhỉ?” Mục Đình bỗng nhiên nói.

“Ừm, ta mới phát hiện một chuyện thú vị. Hồi trước khi ta nhàn rỗi chẳng có gì làm, hóa thành nguyên hình đi hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, chợt có một tăng nhân đi ngang qua tưới cho ta một chậu nước, ta thấy tu vi của hắn không tệ, có thể sớm đạt thành tựu, liền đưa cho hắn một viên đá Pháp ấn.”

“Đá Pháp ấn không phải là thứ chỉ Phật tu mới có thể dùng sao? Sao ngươi lại có.” Mục Đình thấy Nhan Kiều đang có hứng muốn kể, bèn trực tiếp hỏi luôn.

“Không biết, hình như là thưở ta mới bắt đầu mở linh trí thì nó rơi từ trên trời xuống.” Nhan Kiều lắc đầu nói, “Ngươi cũng biết là ta không quen thuộc với Phật tu mà. Thái độ của Tiểu Xuân Tương với Phật tu khá là nhập nhằng, vừa cướp đồ của người ta vừa không giết luôn, chắc y chẳng muốn đá Pháp ấn đâu nên ta không nói. Chẳng mấy khi gặp một Phật tu, thế nên ta cho hắn luôn.”

“Hắn luyện được Pháp ấn chứ?” Với một Ma tu ở cấp độ này như Mục Đình, nếu Phật tu nào muốn đối phó với y mà không tu luyện được Pháp ấn Tam Bảo Pháp Tướng thì căn bản chẳng có chút giá trị nào.

“Không, hắn thất bại thân tử đạo tiêu.” Nhan Kiều nhún vai vô tội nói.

Mục Đình nhìn hắn không nói gì.

Kể từ sau khi y gặp được cái tên Yêu tu cây tùng Nhan Kiều này, cái suy nghĩ “Yêu tu rất dễ lừa” đã bị ném lên chín tầng mây.

Rõ ràng còn gian trá hơn cả hồ ly chín đuôi.

“Tuy nhiên nhiều năm trôi qua, ta phát hiện viên đá Pháp ấn kia hiện tại đã buông lỏng rồi.” Nhan Kiều lười biếng nói, “Tên Phật tu đó không chịu nổi viên đá Pháp ấn kia, người tưới nước cho ta đã là nhân trung long phượng rồi (ý nói người tài giỏi, xuất chúng, phi thường), lúc tặng ta cũng từng nhắc nhở hắn về điểm đặc biệt của viên đá Pháp ấn ấy. Nhưng có vẻ hắn chẳng để ý, vậy nên hắn chết cũng không thể trách ta được.” Nhan Kiều nói đoạn liền ngồi lại ngay ngắn, “Ta luôn có cảm giác, người có thể khiến viên đá Pháp ấn kia buông lỏng có quan hệ với ta, nói không chừng sau này sẽ gặp mặt.”

“Nếu ngươi thấy hứng thú, trực tiếp thi pháp xem thử luôn không phải tốt hơn sao?” Với tính cách như của Mục Đình, y luôn hi vọng có thể khống chế tất cả mọi thứ trong tay mình. Y tuyệt đối sẽ không mặc kệ để một nhân tố đặc biệt nào đó phát triển mà mình không biết.

“Không, làm thế thì chán lắm. Ta cũng muốn tự tìm cho mình chút việc vui chứ, haiz, không biết bao giờ Xuân Tương mới có thể trở về nhỉ, có y ở bên thì chẳng lúc nào thiếu trò hay.” Nhan Kiều than thở.

“Chắc sẽ nhanh thôi.” Mục Đình lộ ra chút ý cười hiếm thấy, “Mấy chục năm nữa là lại đến thời điểm y nở hoa rồi, ma khí tràn ra ngoài, khi đó dù có Tiên khí trói y thì y cũng dễ dàng thoát ra.”

“Cũng phải. Y bị Thiên lôi bổ trúng nhiều lần như vậy, lại còn là tên yêu tinh ba lần biến hóa thất bại nữa chứ, trừ phi Phật Tổ tại thế, không thì chẳng ai kiểm soát được y!”

Nhân Chân tự.

“Ắt xì.” Văn Xuân Tương hắt xì hơi, mơ màng tỉnh lại trong lúc ngủ.

“Lẽ nào tiểu hòa thượng đang nhớ bổn tọa ư?” Văn Xuân Tương lầm bầm lầu bầu nói.

Khả năng này không cao lắm.

Úi!

Trán đau quá.

Văn Xuân Tương bỗng cảm thấy một cơn đau đầu ập tới, như thể có hai tảng đá đang đập vào đầu y vậy.

“Chết tiệt, tiểu hòa thượng lại gặp phải thứ gì rồi?” Văn Xuân Tương thấy khổ sở hết chỗ nói, nhưng vẫn chẳng thể chống lại cái khế ước chó má kia!

Trong hướng dẫn trước khi sử dụng đâu có nói y sẽ gặp phải nhiều tác dụng phụ như thế này?

Lần trước phân thần của y biến mất khi tiểu hòa thượng phá Đan thành Anh, đó là chuyện không thể tránh khỏi nên y đành nhịn. Tuy đã cố nén nỗi khó chịu trong cơ thể song vẫn cảm nhận được cảm giác tê dại khắp cả người.

Lần này phân thần của y bị tổn thương còn nặng hơn cả lần trước, đầu lại bắt đầu đau.

Có khi nào lúc y không ở bên thì tiểu hòa thượng lại gặp phải mấy thứ linh tinh trong chùa chăng?

Gượm đã.

Văn Xuân Tương bỗng nhiên nghĩ tới một khả năng.

Đừng nói là, bây giờ tiểu hòa thượng sắp kết ấn nhé? Nếu không thì y sẽ không cảm ứng mạnh như vậy!

………….Kết ấn ở kỳ Nguyên Anh, đây là muốn nghịch thiên đó!

Văn Xuân Tương bị suy nghĩ của chính mình dọa sợ.

Song ngẫm lại thì ngay cả Khí Vận hương mà tiểu hòa thượng cũng lấy được, còn kết mối nhân quả không chết không ngừng với tên Ma Hoàng Quý Hiết kia nữa, chuyện kết Pháp ấn có vẻ cũng không phải khó tưởng tượng như vậy.

Văn Xuân Tương khóc không ra nước mắt, có thể cho y thêm chút thời gian để an ổn nghỉ ngơi được không thế.

Nếu thân thể y kém, hoa kỳ (kỳ nở hoa) sẽ đến trước mất thôi!

Y vẫn muốn bảo trì hình tượng tiền bối uy vũ khí phách trước mặt tiểu hòa thượng mà.

Bí cảnh Kình Hải.

“A Nhẫn, hắn ngất rồi, làm sao bây giờ?” Hoàng Oanh thấy chùm sáng vàng kia trực tiếp bắn trúng vào trán Tạ Chinh Hồng, biến mất vào trong trán rồi ngay sau đó Tạ Chinh Hồng liền gục xuống, khiến Hoàng Oanh trở tay không kịp.

“Nhanh mang hắn đi.” Tiết Nhẫn nhíu mày nói, “Chúng ta tìm cho hắn một động phủ, bày cho hắn một Tụ Linh trận cũng coi như là hết lòng quan tâm giúp đỡ rồi. Có lẽ trong động phủ của Minh Tâm thiền sư tình cờ có thứ hắn đang cần, bây giờ chưa kịp tiêu hóa hết nên mới như thế.”

“Chỗ ngươi không đi được đâu, dẫn hắn đến động phủ của ta đi.” Hoàng Oanh trầm tư một lát rồi nói.

“Hả? Dẫn hắn đến động phủ của ngươi sao được, hắn là Phật tu, còn chúng ta là Ma tu đó.” Bọn họ không giết hắn mà còn dẫn hắn đến nơi an toàn đã là thánh nhân lắm rồi.

“Tốt xấu gì cũng là đồng đội cùng nhóm. Hơn nữa, về sau nếu có việc gì cần Phật tu hỗ trợ, ngươi muốn tìm hắn hay tìm Phật tu khác?” Hoàng Oanh hỏi.

“……….Được rồi.” Lý do này rất có sức thuyết phục, Ma tu muốn tìm một Phật tu nhập đội không hề dễ dàng, Tạ Chinh Hồng còn rất hợp ý hắn và Hoàng Oanh nữa, thế nên càng khó hơn.

Tuy Hoàng Oanh đã nhập Ma đạo, nhưng về bản chất vẫn là Yêu tu, động phủ của y nằm ở nơi tinh hoa nhật nguyệt khá dày. Với Phật tu, đó chính là nơi rất có lợi cho tu hành. Hoàng Oanh nguyện ý để Tạ Chinh Hồng đến động phủ của y, đã không còn nằm trong tầm “đối xử đặc biệt” nữa rồi.

Tiết Nhẫn cảm thấy không yên lòng, song vẫn cùng Hoàng Oanh mang Tạ Chinh Hồng đến động phủ của y, sau khi ném hắn vào bên trong, liền cùng Hoàng Oanh tế luyện tiêu hóa những thứ kiếm được.

Hiện giờ Tạ Chinh Hồng lại đến không gian tràn ngập kinh văn Phật tự  kia.

Mà lần này, hòa thượng kỳ lạ nọ không xuất hiện nữa, ngược lại, hai viên đá Pháp ấn một trước một sau đặt ở trước mặt hắn, lấp lóe vầng kim quang khó dời mắt.

Nhìn hai viên đá Pháp ấn này, Tạ Chinh Hồng cuối cùng cũng hiểu được tình cảnh của mình.

Hiện giờ tu vi của hắn mới đến kỳ Nguyên Anh, muốn kích hoạt đá Pháp ấn là chuyện gần như bất khả thi. Nhưng nếu hắn lại có thêm một viên đá Pháp ấn nữa thì lại khác.

Bây giờ hai viên đá Pháp ấn đều đã kích hoạt, ngoài tự tu luyện ra Pháp ấn cho riêng mình thì hắn không còn cách nào khác, nếu không e rằng cả đời này hắn sẽ không thể ra khỏi đây được.

Tạ Chinh Hồng thấy bất đắc dĩ trong lòng, đành phải ngồi xuống, lẳng lặng nhìn hai viên đá Pháp ấn trước mặt.

Có ba Pháp ấn[1], thứ nhất là Chư Hành Vô Thường ấn, thứ hai là Chư Pháp Vô Ngã ấn, thứ ba là Niết Bàn Tịch Tĩnh ấn. Chư Hành Vô Thường ấn lại có ba tướng Sinh, Dị, Diệt, là pháp ấn đứng đầu. Nó cũng là pháp ấn đầu tiên mà Phật tu phải tu được, vậy nên có thể kết được Sinh tướng của Pháp ấn đầu tiên thì coi như đã kết Pháp ấn thành công. Mấy vị trưởng lão Hoa Nghiêm tông kết được Pháp ấn, đều là người kết được Sinh tướng.

Nhưng cũng theo lời Văn Xuân Tương, nếu chỉ kết được một loại Pháp tướng của Pháp ấn thì nó chẳng qua chỉ là Thứ Pháp ấn, tuy cũng gọi là Pháp ấn đấy, song chỉ là thứ nửa vời hời hợt. Theo ý nghĩa chân chính, chỉ có người kết được cả ba Pháp tướng thì mới có thể nói là đã kết ấn thành công. Người ngưng kết được ba loại Pháp tướng, hoàn thành triệt để tất cả Pháp ấn chỉ có năm vị tông chủ của năm tuyệt thế của Phật môn là Pháp Tướng tông, Chỉ Luật tông, Tịnh Thổ tông, Tam Luận tông, ngoài ra không còn ai khác.

Năm người bọn họ cũng là những Phật tu nổi danh nhất đứng đầu trong ba ngàn thế giới.

Pháp ấn thứ hai Chư Pháp Vô Ngã chỉ có thể ngưng kết sau khi bài trừ sinh tử, thường thì những Phật tu kết được ấn này đều là những người có công đức mấy đời nối tiếp nhau, sau khi trả đủ mọi nghiệt nghiệp[2] trong luân hồi thì mới có thể kết được, người làm được như thế rất ít. Những Phật tu đã kết được ấn này được biết đến trong Tu Chân giới đều đã phi thăng, hiện tại chưa có ai kết được nó. Có lời đồn đãi rằng năm vị Phật tu đứng đầu kia đã tách ra một mảnh Nguyên Thần đi chuyển thế đầu thai, ý định muốn ngưng kết Pháp ấn này, nhưng không có thông tin xác thực cho thấy đã có người kết ấn thành công.

Còn Pháp ấn thứ ba là Niết Bàn Tịch Tĩnh ấn, chỉ có thể kết được sau khi tính Không[3] của bản thân đã được khai sáng, Tam độc biến mất mãi mãi, giải thoát khỏi sinh tử Luân Hồi, chứng được yên tĩnh an bình. Khi chưa phi thăng đến Phật giới mà đã chứng được Phật thân vô thượng trước thì đúng là chuyện nghĩ cũng không dám nghĩ đến.

(Tam độc: 3 trạng thái tinh thần có hại: ngu si (vô minh), tham lam, sân hận. Cái này từng chú thích khá kĩ, các bạn muốn thì về đọc lại chương trước nhé.)

Việc ngưng kết Pháp ấn, vốn phải đợi sau kỳ Xuất Khiếu mới bắt đầu làm chuẩn bị, sau khi hoàn thành những điều tiếc nuối trong lòng, cởi bỏ mọi khúc mắc, khi đến kỳ Hóa Thần thì mới mượn dùng đá Pháp ấn để thử nghiệm đôi chút. Trước đây, Tạ Chinh Hồng chưa từng nghĩ đến chuyện kết Pháp ấn. Minh Tâm thiền sư có tu vi đã đến kỳ Hợp Thể mà còn thất bại thân tử đạo tiêu trước khi kết được Pháp ấn, một Phật tu kỳ Nguyên Anh như hắn thì lấy gì bảo đảm mà đi khiêu chiến chứ?

Có điều đá Pháp ấn đã được kích hoạt, dù không muốn thì hắn cũng phải chịu, có trách thì chỉ trách vì sao hắn bỗng dưng lại có được những hai viên đá Pháp ấn.

Tuy rằng Tạ Chinh Hồng tính tình lạnh nhạt, nhưng giờ phút này cũng không khỏi có chút buồn rầu.

Nếu tiền bối ở đây thì ngài ấy sẽ nói gì đây?

Có lẽ sẽ nói mấy câu linh tinh kiểu như “Tiểu hòa thượng cứ việc làm đi, bổn tọa bảo vệ cho ngươi.” nhỉ.

Mấy ngày nay phải chia xa với tiền bối, hắn quả thực rất nhớ những ngày trước kia.

Tạ Chinh Hồng thở dài một hơi, nắm hai viên đá Pháp ấn vào trong tay.

Nếu ngay cả ải này mà cũng không qua được, vậy hắn lấy gì để cứu tiền bối, lấy gì để đấu với Quý Hiết?

Khi kết Pháp ấn thì phải đối mặt với tâm ma của bản thân, lúc trước Minh Tâm thiền sư đã thua ở bước này.

Tạ Chinh Hồng hít sâu một hơi, nhắm mắt lại bắt đầu tìm hiểu hai viên đá Pháp ấn trước mặt.

Chư Hành Vô Thường ấn tượng trưng cho ba đế[4] Khổ, Tập, Đạo, giờ phút này Tạ Chinh Hồng phải đối mặt với nỗi đau khổ của Khổ đế.

Cái gì gọi là khổ[5], hết thảy đều có quả báo, đều là những bức bách của Tam khổ Bát khổ đang chờ đợi. Tam khổ gồm khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Bát khổ gồm sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ,oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn khổ.

Hai viên đá Pháp ấn tỏa ra vầng kim quang bao phủ cả người Tạ Chinh Hồng.

Ngày đầu tiên, Tạ Chinh Hồng chỉ cảm thấy có vô số ngọn lửa thiêu đốt thân thể mình, từ cổ đến chân, càng cháy càng mạnh.

“Yêu tăng, yêu tăng!”

Hắn bị trói chặt trên cột gỗ, bên dưới là vô số thôn dân đang giơ đuốc, bọn họ trói hắn lại, dựng dàn thiêu, đổ rượu lên trên, rõ như ban ngày là muốn thiêu sống hắn. Những thôn dân này đã quên mất rằng người bị thiêu trên kia từng giúp họ chữa bệnh trị thương, ăn chay niệm Phật vì họ khi họ bị bệnh tật đeo bám. Chỉ vì vài trò vặt của đám yêu quái mà quên mất ân tình ngày xưa, trói hắn vào cột gỗ, muốn thiêu chết hắn!

Hận sao? Oán sao?

“A Di Đà Phật.”

Hòa thượng trên cột gỗ có vẻ tầm năm sáu mươi tuổi, giữa đôi mắt còn có thể nhìn ra khuôn mặt anh tuấn thưở trẻ.

Hắn vừa niệm “Hướng Sinh chú” cho mình, hi vọng bộ dáng bị thiêu cháy của mình sẽ không đến mức dọa người, vừa không khỏi đau lòng vì những thôn dân bên dưới. (“Hướng Sinh chú” là loại chú dùng khi các Phật Tử tịnh độ, cứu rỗi linh hồn siêu thoát.)

Sau khi hắn bị thiêu cháy, e rằng đám yêu quái kia sẽ không bỏ qua bất cứ ai trong bọn họ.

Hòa thượng đảo qua những thôn dân bên dưới, thấy vài con yêu quái đã hóa thành hình người, giấu mình trong đám thôn dân, cười tủm tỉm nhìn hắn.

“Lão hòa thượng, thấy không, bọn ta thắng rồi.” Một yêu quái dùng khẩu hình cười nói.

Lửa lớn thiêu cháy quần áo hắn, đốt trụi tay chân hắn, phá hỏng đôi mắt hắn.

Trước khi chết, hắn chỉ nghe thấy tiếng kêu la cầu cứu của những thôn dân.

Khổ, chúng sinh đều khổ.

Trong thế đạo nơi yêu nghiệt hoành hành này, ai có thể cứu được những người vô tội ngày đêm nơm nớp lo sợ hao tổn hết tâm tư, không thể an ổn sống sót này đây?

Khi Tạ Chinh Hồng tỉnh lại, có vẻ vẫn còn cảm giác bị biển lửa thiêu cháy, bất tri bất giác, hắn đã ướt đẫm mồ hôi.

Bên kia, Văn Xuân Tương càng khẳng định chắc rằng Tạ Chinh Hồng đang kết Pháp ấn.

Y sắp bị nóng chết mất thôi, tiểu hòa thượng kết ấn nhanh lên một tí được không?

Văn Xuân Tương mồ hôi nhễ nhại, từ sau khi trở thành tu sĩ y hầu như chưa từng đổ nhiều mồ hôi như vậy. Toàn bộ sơn động đều là mùi hoa nồng đậm, khiến Văn Xuân Tương tức trợn trắng mắt.

Dù sao chỗ này cũng đâu có ai, hình tượng Ma Tôn uy vũ khí phách đi tong hết rồi.

Nhưng mà, vẫn cảm thấy thân thể khôi phục được một chút rồi.

Là ảo giác sao?

“Đã một tháng rồi, sao Văn An chẳng có động tĩnh gì thế này?” Tiết Nhẫn tỉnh lại giữa lúc đả tọa, nhịn không được hỏi.

“Ta cũng không biết.” Hoàng Oanh lắc đầu, “Linh khí trong động phủ chẳng tiêu hao chút nào, đúng là rất kỳ quái. Nếu không phải ta tận mắt chứng kiến Văn đạo hữu bị vệt kim quang kia đập trúng, có khi ta còn cho rằng hắn đang ngủ.”

“Ngủ cũng không thể lâu như vậy được.” Tiết Nhẫn bất đắc dĩ trả lời.

“Viên Cửu Chuyển Thanh Tâm đan kia dùng được chứ?”

“Ừ, những ma khí pha tạp kia đã bị áp chế một chút rồi.” Hoàng Oanh lộ vẻ mặt tươi cười. Ma khí trên người y vẫn chưa tìm được biện pháp áp chế triệt để, mặc dù Cửu Chuyển Thanh Tâm đan không thể loại bỏ hoàn toàn, nhưng ít ra vẫn có chút hiệu quả. Sau này y dùng vài món pháp bảo để đổi Cửu Chuyển Thanh Tâm đan với Phật tu là được, còn việc loại trừ hoàn toàn, e rằng cần tìm biện pháp khác.

“Lúc trước ta đã phát Thông Tấn phù cho vài thuộc hạ, sai bọn họ đi thăm dò lai lịch của Văn An.” Tiếc Nhẫn liếc nhìn Hoàng Oanh, vẫn quyết định nói ra những gì điều tra được.

“Kết quả như thế nào?” Hoàng Oanh cũng không cảm thấy hành vi của Tiết Nhẫn có gì sai, bọn họ là Ma tu, vốn là thiên địch của Phật tu. Muốn làm rõ lai lịch của Văn An cũng là điều bình thường.

“Không biết, có lẽ đây không phải tên thật của hắn, có khi bộ dáng cũng đã thay đổi.” Tiết Nhẫn nghiêm túc trả lời, “Đám thuộc hạ của ta chỉ điều tra được có vẻ hắn đến Tà Dương đại thế giới vào một năm trước, cụ thể hắn xuất thân từ thế giới nào thì không ai biết cả.”

“Trận pháp đi đến Tà Dương đại thế giới, hình như chỉ có ở vài trung thế giới cố định thôi.” Hoàng Oanh nghi hoặc nói, “Sao chẳng có chút tin tức gì vậy nhỉ?”

Trong số các đại thế giới, Tà Dương đại thế giới là một trong những nơi đứng đầu. Bởi vậy, độ khó khi vượt không gian không hề thấp, yêu cầu đối với tu sĩ từ bên ngoài cũng ngày càng cao hơn. Có được trận pháp truyền tống đến Tà Dương đại thế giới, tổng cộng chỉ có ba bốn trung thế giới. Cùng là đến đại thế giới nhưng người muốn đi Tà Dương đại thế giới thì phải làm nhiều hơn một đống thủ tục, rất phiền phức.

Cũng chính vì thế, thanh danh của Tà Dương đại thế giới với bên ngoài không được tính là tốt lắm, thậm chí có tu sĩ còn nói bọn họ “bài ngoại.”

“Ta vốn cho rằng Văn An xuất thân từ đại thế giới, dù sao Phật tu mạnh như hắn cũng không nhiều, Phật tu kỳ Nguyên Anh lại càng ít hơn. Nhưng theo những gì thuộc hạ của ta điều tra được, mấy năm nay chẳng có bao nhiêu Phật tu đến thế giới này cả, vả lại đều tụm năm tụm ba đến, hầu như không có ai hành động một mình. Hơn nữa, những Phật tu đó đều xuất thân từ tông môn đứng đắn, lai lịch rõ ràng.” Tiết Nhẫn nói tới đây, thấy vẻ mặt tràn đầy nghi hoặc của Hoàng Oanh, bèn nói tiếp, “Vì thế, ta nghĩ những gì hắn nói có khả năng là thật, trong tiểu thế giới cũng có thể xuất hiện nhân tài như hắn. Song có thể thông qua trận pháp từ trung thế giới để đến Tà Dương đại thế giới, cũng không có bất cứ thông tin gì. Chẳng có một tu sĩ nào như vậy cả.”

Có lẽ thanh danh của Tiết Nhẫn không được tốt cho lắm, nhưng bản thân hắn xuất thân từ môn phái lớn trong Ma môn, dưới trướng cũng có không ít thế lực. Nếu hắn đã nói vậy, chắc đúng là sự thật rồi.

“Trừ phi, có một tu sĩ cực lợi hại tự mình thi pháp, tạo ra một Truyền Tống trận đưa hắn vượt qua vô số thế giới để tới đây!”

Bên trong không gian kỳ diệu nọ.

Tạ Chinh Hồng biết mình đã qua được ải thứ nhất, hắn lẳng lặng điều dưỡng một hai canh giờ, lại lần nữa bắt đầu tìm hiểu đá Pháp ấn.

“Lang quân, ngài đang nghĩ gì thế? Ghét ghê, chẳng lẽ tỷ muội chúng ta chưa đủ tầm để lọt vào mắt xanh của lang quân sao!”

Vài thiếu nữ hi hi ha ha vây quanh hắn, người này cười còn hữu tình hơn người kia, nhưng đập vào mắt hắn lại là một đôi tay già nua chỉ có một tầng da.

“Ta già rồi ư?” Tạ Chinh Hồng thấy lão nhân nọ túm lấy tay một thiếu nữ hỏi, “Ta già rồi ư?”

“Sao lang quân lại già được?” Thiếu nữ tươi cười đáp, “Chỉ cần đạo trưởng luyện chế tiên đan xong, ngài sẽ lập tức khôi phục dáng vẻ thời thanh xuân thôi.”

“Đúng, đúng. Chỉ cần luyện được tiên đan, ta có thể lấy lại tuổi trẻ! Mau mau, đi hỏi đạo trưởng, sao tiên đan còn chưa xong?”

“Lang quân, ngài quên rồi sao? Hà Xa đan vẫn còn thiếu một đứa trẻ sơ sinh mà!” (Hà xa: nhau thai)

“Sao lại thế được, đi tìm mau! Thế đạo hiện giờ hỗn loạn như vậy, chỉ cần mấy đồng lẻ, mấy cái màn thầu là có thể mua được một nữ nhân, một đứa bé. Sao còn thiếu một đứa trẻ sơ sinh hả?” Lão nhân phẫn nộ rống to.

Tạ Chinh Hồng ở trong cơ thể này, có thể cảm thấy được lão hữu khí vô lực (có khí mà chẳng có lực, bất lực mệt mỏi), thân thể nặng nề. Thậm chí ngay cả sự khẩn trương đến gần như điên cuồng của lão, hắn cũng cảm nhận được một chút không lầm.

Thành danh từ trẻ, tác phong nhanh nhẹn, một quý công tử mê đảo biết bao thiếu nữ, chỉ mất thời gian vài chục năm là đã chiếm được quyền thế, có được mỹ nhân, nhưng lão lại nhận thấy mình không còn được người ta khen ngợi là ngọc diện lang (chỉ người đàn ông trẻ tuổi đẹp trai), mà là một lão quái vật già khú!

Đúng, quái vật!

Khuôn mặt già nua trong gương kia, cái người mang vẻ mặt độc ác tàn nhẫn đó không phải lão, mà là một quái vật!

“Thành chủ, trong mấy chỗ phụ cận thành đều không tìm được trẻ sơ sinh thích hợp.” Một đạo trưởng hạc phát đồng nhan bước vào, bóp ngực thiếu nữ một cái, mỉm cười nói. (Hạc phát đồng nhan: tóc trắng như lông hạc, mặt hồng tựa trẻ con)

“Đạo trưởng, ngươi vẫn còn biện pháp đúng không?”

“Thành chủ, ngài quên rồi ư? Lúc trước khi ăn tiên đan mà ta luyện, ngài từng ăn nằm với vài nữ nhân, một trong số đó đã có mang. Hiện giờ chính là lúc thích hợp nhất, chỉ phải xem thành chủ có bỏ đứa bé được hay không thôi?” Đạo nhân dụ dỗ.

“Không, không! Đó là con ta, là con ta. Các con của ta đều chết hết cả rồi, nó là huyết mạch duy nhất của ta.”

“Thành chủ, chỉ cần có tiên đan, ngài sẽ lấy lại được tuổi trẻ, đến lúc đó ngài muốn bao nhiêu đứa con mà chẳng được? Chúng ta đã giết chín trăm chín mươi chín đứa trẻ rồi, chỉ thiếu một đứa cuối cùng nữa thôi. Ngài muốn thất bại trong gang tấc sao?”

Tạ Chinh Hồng cảm giác được một sự hưng phấn, vui sướng dâng lên.

“Đúng, đạo trưởng nói đúng, chỉ cần ta lấy lại tuổi trẻ, cái gì cũng có, cái gì cũng có!”

Người này rõ ràng là điên rồi.

Tạ Chinh Hồng bình tĩnh nhìn vị thành chủ già nua giết con trai của chính mình, luyện thành tiên đan gì đó. Cuối cùng, lão bị đạo nhân nọ móc hết tim gan, ném vào nơi hoang vắng, ngay cả con chó hoang đi ngang qua cũng lười gặm.

Lần này, lại biến thành một nữ nhân.

Một nữ nhân rất đẹp nhưng lại bị bệnh tật đằng đẵng quấn thân.

Khi yêu nàng, nàng là một mỹ nhân đau ốm, là ưu thế của nàng, đáng để người ta yêu thương che chở, nguyện ý rửa tay nấu thuốc cho nàng, nguyện ý tìm các loại linh đan diệu dược cho nàng. Nhưng khi không còn yêu, nàng chỉ là một con ma ốm chiếm lấy vị trí chính phòng (vợ cả) không chịu buông tay, không thể sinh con, không thể hoan ái, ăn thêm một miếng cơm mà cũng có thể nghẹn đến nửa đêm vẫn ngủ không yên. Giữa đêm còn ho khan khiến người ta khó mà chịu nổi.

Tạ Chinh Hồng nằm trên giường, nhìn ngoài cửa sổ thấy một nam tử anh tuấn đang ôm một nữ tử, cúi đầu nói lời yêu thương, khóe mắt bất chợt ngấn nước nhưng lại để ý tới người trong phòng, chỉ có thể chán ghét và căm hận.

Hận lắm, ta rất hận.

Lời thề trước đây ngươi đã quên hết chẳng nhớ gì, cố ý tìm người khác chọc tức ta, mong ta chết sớm một chút. Ta lại không chết, nằm trên giường bệnh dở sống dở chết nhìn ngươi và người khác chàng chàng thiếp thiếp.

Tạ Chinh Hồng cảm nhận được nỗi hận của nữ tử mạnh mẽ đến nỗi gần như hóa thành thực chất, nàng sắp bị những hận ý này ép sập.

Nhưng nữ nhân này vẫn không chết.

Nàng hại chết những nữ nhân cướp mất phu quân nàng, hại chết phu quân của nàng, nhưng nàng vẫn nằm đó sống dở chết dở.

Từ một thiếu phụ (người phụ nữ đã lấy chồng nhưng còn trẻ), nàng biến thành lão thái thái lớn nhất trong phủ, thành “Đồ sao chổi xui xẻo, đồ ma ốm” trong miệng người khác.

Nỗi hận thấu trời trước kia đều trở nên phai mờ.

Hôm nay, nàng chỉ đang chờ chết mà thôi.

“Kiếp sau chớ làm nữ nhi, vui khổ trăm năm đều do người khác. Tín nữ chỉ cầu đời sau sẽ không lại làm người, không nhận ra tình yêu, không sợ một đời này thống khổ.”

Khi Tạ Chinh Hồng tỉnh lại, tâm tình có chút phức tạp.

Hắn đã từng trải nghiệm những cảm xúc chân thực như vậy, nhưng quá mức chân thực lại khiến người ta cảm thấy hơi khủng bố.

Tạ Chinh Hồng đặt đá Pháp ấn xuống, bắt đầu ngồi tại chỗ đả tọa.

Tâm trạng hắn không tốt lắm, nếu tìm hiểu đá Pháp ấn tiếp thì khá không ổn.

Văn Xuân Tương ngáp một cái, cảm xúc thù hận điên cuồng như vậy y gần như đã miễn dịch rồi, thứ y không thiếu nhất chính là thứ đó. Có điều tiểu hòa thượng đơn thuần như thế, e rằng sẽ có chút phiền toái. Nói đúng hơn là với mọi tu sĩ thì cảm xúc mãnh liệt như vậy đều rất phiền toái.

Hi vọng tiểu hòa thượng có thể chịu đựng được.

Bây giờ bản thân Văn Xuân Tương còn khó bảo đảm cho mình, may mà khế ước kia cũng không phải thứ vô dụng, ít ra trong quá trình tiểu hòa thượng kết ấn, y cũng nhận được chút lợi ích, tốc độ hồi phục thân thể sẽ nhanh hơn. Song hiện tại tu vi của tiểu hòa thượng rất thấp, với Văn Xuân Tương, nâng cao tu vi còn không bằng để y tự mình thổ nạp hấp thu còn hơn, vậy nên y không chú ý lắm,

Tuy nhiên hiện giờ, uy lực của Pháp ấn với Phật tu chẳng khác nào đầu thai lần hai, tác động đương nhiên cũng không giống bình thường.

Nếu tiểu hòa thượng kết ấn thành công, có lẽ y sẽ có thể trở lại không gian trong khế ước.

Y cũng hơi nhớ tiểu hòa thượng rồi nè.

Hi vọng khi không có mình ở bên, hắn đừng có biến thành đầu trọc là được.

******

★Chú thích:

[1]Tam Pháp ấn: là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không nhầm lẫn với những lời dạy bởi các giáo chủ của các ngoại đạo khác qua: “Các hành là vô thường, các pháp vô ngã và Niết bàn tịch tĩnh” cho nên được gọi là ba pháp ấn. Ba phạm trù nội dung nghĩa lý này chúng luôn luôn phù hợp với chân lý cuộc sống qua mọi hiện tượng nhân sinh cùng vũ trụ.

Chư hành giai vô thường (Các hành đều vô thường)

Chư pháp tất vô ngã (Các pháp ắt vô ngã)

Tịch tịnh tức Niết bàn (Vắng lặng tức Niết bàn)

Thị danh tam pháp ấn. (Đó là ba pháp ấn)

1. Các hành vô thường: tức là chỉ cho mọi hiện tượng có được trên thế gian khiến cho mắt chúng ta nhận thấy qua hình ảnh mà thuật ngữ Phật giáo gọi là pháp hữu vi; chỉ cho muôn vật chúng luôn bị sự chi phối của luật vô thường biến khác, từ hình thái này sang hình thái khác, hay biến dịch từ chỗ này sang chỗ khác luôn xảy ra không bao giờ dừng nghỉ.

2. Các pháp vô ngã: còn gọi là tất cả các pháp vô ngã ấn, hay gọi tắt là vô ngã ấn, nói chung là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi cùng vô vi đều không có ngã, vì chúng sinh không hiểu rõ chúng là không ngã nên đối với tất cả các pháp cưỡng lập có chủ thể, có bản ngã, có cá thể, rồi chấp vào chúng cho là thật hữu, thường trụ nên càng ngày chúng ta càng nuôi lớn bản ngã vô minh tà kiến này; cho nên đức Đạo sư mới nói là không có ngã với mục đích là phá chấp ngã của chúng ta

3. Niết bàn tịch tĩnh: còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, gọi tắt là Niết bàn ấn là phạm trù thứ ba trong ba pháp ấn. Phạm trù thứ ba này là bàn về nỗi khổ của chúng sanh đã và đang gánh chịu ở thế gian này, phát xuất từ lòng vô minh mê mờ không biết cái khổ của sinh tử luân hồi, nên khởi hoặc tạo ra mọi thứ nghiệp lực, từ đây phải lưu chuyển trong ba cõi sáu đường, cho nên đức Đạo sự vì chúng sanh mê mờ không biết cách nào để thoát khỏi sự khổ đau của vô minh mà Ngài nói về pháp Niết bàn vắng lặng. Với mục đích là khiến cho chúng sanh thoát ly khỏi khổ đau của sinh tử mà chứng đắc Niết bàn tịch tĩnh.

Tóm lại, mục đích của Ba pháp ấn này là: “Các hành vô thường chỉ dùng để giải thích rõ các pháp hữu vi, Niết bàn tịch tĩnh chỉ dùng để giải thích rõ các pháp vô vi, còn Các pháp vô ngã là dùng chung để giải thích rõ cả pháp hữu vi và vô vi.”

[2]Nghiệp: là nguyên nhân đưa tới Quả Báo, cả hai tạo thành Luật Nhân – Quả tuần hoàn không dứt suốt cõi Luân Hồi. Theo đạo Phật, mỗi tác động (Nghiệp) – dưới một điều kiện nhất định – sẽ tạo thành một Quả. Một khi quả đó chín, nó sẽ rơi trở lại chúng sinh tạo ra nó. Muốn thành quả, một nghiệp phải là tốt hay xấu và là một hành động cố ý.

[3]Tính Không: có nghĩa là “trống rỗng”, “trống không”, là một khái niệm trung tâm của đạo Phật, quan trọng nhất và cũng trừu tượng nhất. Trong Phật giáo Nguyên Thuỷ, “tính Không” nhằm nói về thể tính của con người và được sử dụng như một tính từ. Đại Thừa đi thêm một bước nữa, sử dụng tính Không như một danh từ, xem Không là vạn sự, vạn sự là Không, tức mọi hiện tượng thân tâm đều không hề có. Mọi pháp đều chỉ là những dạng trình hiện, chúng xuất phát từ tính Không, là không. (Cái này nó siêu trừu tượng nên thôi nhé)

[4]Tứ diệu đế: cũng gọi là Tứ thánh đế, là bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của Phật giáo. Tứ Diệu Đế là thuyết minh về bốn sự thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo lý nào có thể sánh kịp, giúp người tu hành có thể từ địa vị tối tăm, mê mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường cho người bộ hành đi trong đêm tối để về đến đích.

1. Khổ đế: nỗi khổ đau của con người.

2. Tập đế: những nguyên nhân gây ra khổ đau.

3. Diệt đế: sự chấm dứt khổ đau.

4. Ðạo đế: phương pháp thực hành dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.

[5]Khổ: là cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong ba tính chất của sự vật và được đúc kết trong câu nhận định “Đời là bể khổ.”

Tam khổ là ba nỗi khổ xét theo nguyên nhân và mức độ gây khổ, gồm:

1. Khổ khổ: nghĩa là khổ vì những sự khổ của thế tục, chẳng hạn khổ vì đói khát, khổ vì phải trải nạn chiến tranh. Đây là mức độ khổ thấp nhất mà ai cũng cảm nhận được.

2. Hoại khổ: nghĩa là khổ vì sự thay đổi.

3. Hành khổ: nghĩa là cái khổ bao trùm tam giới, sáu cõi (tất cả chúng sanh trong luân hồi).Sự nhận biết về khổ ở mức độ này là sâu sắc nhất.

Bát khổ là tám nỗi khổ xét theo hình thức sự việc, thực ra đều thuộc loại Khổ khổ trong Tam khổ. Con người ai ai cũng phải chịu bát khổ, gồm:

1. Sinh khổ: Con người khổ trong sự sinh sống. Người ta khổ từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ. Con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp, cũng là khổ. Mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc, đó là khổ. Sinh con ra rồi thì cha mẹ cũng phải khổ. Con người sống trên đời phải mưu kế sinh nhai, cũng là khổ.

2. Lão khổ: Khi đến tuổi già thì thân thể trở nên già nua, mắt mờ, tai điếc. Đó là khổ.

3. Bệnh khổ: Con người phải chịu đau đớn, khổ sở cả về thể xác và tinh thần khi mắc bệnh. Đó là khổ.

4. Tử khổ: Khi sắp chết thì sợ hãi tinh thần, ngạt hơi rất khổ. Chết đi rồi thì thân xác phân hủy, hôi tanh. Gia quyến đau lòng. Đó là khổ.

5. Ái biệt ly khổ: Con người phải chịu khổ khi yêu mà lại phải chia lìa điều mình yêu, hàng ngày đem lòng mong nhớ. Đó là khổ. Có hai loại ái biệt ly khổ: sinh ly (chia lìa nhau khi còn sống) và tử biệt (chia lìa nhau khi chết).

6. Cầu bất đắc khổ: Con người khổ khi không được toại (bất đắc) nguyện vọng, tham muốn, khao khát của bản thân (sở cầu). Chẳng hạn, lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc; lúc no lại muốn giàu sang phú quý.

7. Oán tăng hội khổ: Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mà không thích hoặc oán ghét.

8. Ngũ uẩn khổ: Con người khổ vì có sự hội tụ và xung đột của Ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành và thức – trong cơ thể. Chẳng hạn, mơ ước (tưởng) quá thì cũng khổ, biết (thức) nhiều thì cũng khổ.

Editor: Mấy bạn cũng thấy đó, những chương dạo này khá là dài nên mình khó mà up truyện mỗi ngày được, xin lỗi nha. (Nói thế thôi chứ tại tui lười đấy (‘ω’))