"Ba ngốc chê mà."
Đại triều hội là ngày quan trọng mà các nước phụ thuộc đến triều kiến và dâng lễ hằng năm. Trên khắp con phố Tùy đô, lúc nào cũng có thể bắt gặp đoàn sứ thần đến từ các nước khác nhau. Phủ Thái tử cũng tấp nập người ra vào, đông như trẩy hội.
Tùy Hành bận rộn cả ngày, nhưng Giang Uẩn lại khá nhàn rỗi. Một là vì Giang đế miễn buổi đại triều hội năm nay. Hai là một số thân tín như Phạm Chu do lo lắng vết thương cũ trên vai Giang Uẩn vào đông lại tái phát, không thể cầm bút viết lâu, vì thế họ cố tình gác lại công việc, đồng thời những chuyện không thể trì hoãn được thì cũng soạn sẵn bản thảo rồi mới để Giang Uẩn xem qua.
Hằng ngày Giang Uẩn chỉ có một nhiệm vụ quan trọng, đó là trông chừng nhóc con nhà mình luyện chữ.
Trên bàn nhỏ lúc nào cũng có một đĩa đựng phô mai. Tiểu Giang Nặc ngồi thẳng sau bàn, tập trung viết từng nét một. Mỗi khi viết xong một trang, Giang Uẩn lại lấy một miếng phô mai đút cho nhóc.
"Ngon không?"
"Ngon lắm ạ!"
Ánh mắt nhóc con long lanh nhìn đĩa phô mai, mong chờ cha nhỏ đút thêm miếng nữa.
Giang Uẩn chống cằm, nhéo đôi má phúng phính của đứa nhỏ như thường lệ, nói: "Tròn đến mức này rồi, mỗi lần chỉ được ăn một miếng thôi."
Câu này khiến hai mắt nhóc con mở to, suýt làm rơi cả bút.
"Tròn, tròn ạ?"
"Đúng vậy, gần đây cô sắp không bế nổi nhóc béo nào đó rồi."
Tùy Hành từ bên ngoài đi vào, vừa vặn nhìn thấy cảnh này, hắn nhịn cười bước tới, tiện tay cầm một miếng phô mai bỏ vào miệng, tiếp đến nhìn thoáng qua chữ viết của vật nhỏ, khen ngợi: "Viết đẹp quá ta!"
Giang Uẩn đạp hắn một cái.
"Cả buổi sáng mới viết được một chữ, không thiếu ngang thì cũng thiếu dọc, còn khen đẹp!"
Tùy Hành mặt không đổi sắc nói: "Độ tuổi này có thể viết được như vậy là tốt rồi. Nhóc Tùy Chương kia cô nghe nói còn chưa học được cách cầm bút, tiên sinh mời đến đều bị đánh chạy mất. So với nó, vật nhỏ nhà chúng ta đã là thiên tài rồi. Dung Dữ, em đừng dùng tiêu chuẩn của mình ép buộc vật nhỏ nữa."
Giang Uẩn không hề cảm thấy mình nghiêm khắc.
"Vậy phải dùng tiêu chuẩn của ai?"
"Tiêu chuẩn của cô."
Thái tử điện hạ rất biết co biết duỗi, trước khi bị đạp lần thứ hai, người nào đó đã vội tránh đi.
Có anh họ làm vật so sánh, nhóc Giang Nặc được khích lệ rất nhiều. Vừa trải một tờ giấy mới, đang định chuẩn bị viết tiếp thì thấy bàn tay Tùy Hành thò về phía đĩa phô mai, nhóc con cau mày.
"Ba xấu."
"Lại ăn vụng."
Vật nhỏ giận dỗi.
Trán Tùy Hành nổi gân xanh, nghĩ bụng, nhóc này đúng là nhỏ mọn, uổng công vừa nãy hắn còn nói đỡ cho nó. Giang Uẩn lập tức bưng đĩa phô mai đi, nói: "Lớn đầu rồi còn giành ăn với một đứa nhỏ, không thấy mất mặt sao?"
"Cô tiện tay thôi mà, à đúng rồi, cô có thứ tốt cho em đây."
"Thứ gì?"
Tùy Hành thần bí lấy ra một chiếc hộp nhỏ từ trong áo.
"Nhìn xem, có thích không?"
Đó là một chiếc hộp có vẻ ngoài cũ kỹ được chạm khắc hoa văn tinh xảo.
Giang Uẩn nghi ngờ nhìn Tuỳ Hành một cái, không biết tên này định giở trò gì nữa. Y mở hộp ra, bên trong là một sợi dây buộc tóc màu xanh nhạt được làm từ lụa Hồ quý hiếm, phía trên còn thêu những hoa văn tinh tế bằng chỉ bạc.
"Thích không?"
Tuỳ Hành hiếm khi căng thẳng hỏi.
Đây là sợi dây buộc tóc mà hắn đã tốn bao công sức lùng sục khắp các cửa tiệm lớn nhỏ ở Tùy đô mới tìm được loại ưng ý nhất.
Giang Uẩn không trả lời mà ngẩng đầu lên, ánh mắt sáng ngời, mỉm cười hỏi: "Sao tự nhiên lại tặng ta thứ này?"
Dây buộc tóc là món quà thân mật mà chỉ những người yêu nhau mới trao tặng, mang ý nghĩa biểu đạt tình yêu thầm lặng.
Tuỳ Hành nói: "Không có việc gì thì không thể tặng sao? Cô hận không thể ngày nào cũng tặng quà cho em. Em nói đi, có thích không? Nếu không thích, cô sẽ đổi cái khác."
"Hoặc ngày khác cô trực tiếp dẫn em đến cửa tiệm lựa cũng được."
Giang Uẩn bật cười, cất hộp vào.
Tuỳ Hành tưởng y không thích, trong lòng giật thót một cái.
Chỉ thấy Giang Uẩn ghé sát lại, dùng tay áo cất đi, thì thầm vào tai hắn: "Ta thích lắm."
Hơi thở ấm áp mềm mại, mang theo chút hơi ấm đặc trưng khiến tai Tuỳ Hành ngứa ngáy. Nếu không phải vì ngại có nhóc con ở đây, hắn thực sự khó nhịn được mà ôm người vào lòng ngay lập tức.
"Thích là tốt."
Yết hầu Tuỳ Hành nhấp nhô, hắn cũng khẽ đáp lại.
"Đợi ngày mai cô sẽ đích thân buộc cho em."
Hai người đang nói chuyện thì bất chợt cảm nhận được ánh mắt khác thường nhìn về phía này. Quay đầu lại thì phát hiện nhóc con vốn ngồi viết chữ ở phía sau đang nghiêng đầu nhìn bọn họ không chớp mắt.
Tuỳ Hành bỗng có cảm giác làm chuyện xấu bị bắt quả tang, hắn ho nhẹ một tiếng, nghiêm giọng: "Viết cho đàng hoàng, không được lười biếng."
Tiểu Giang Nặc xoay cây bút trong tay, kiêu ngạo cúi đầu.
Trong lòng thầm oán một câu "ba xấu".
Còn nhân cơ hội sờ soạng cha nhỏ nữa.
...
Hai ngày sau, Mạnh Huy gửi lô cao dược đầu tiên được điều chế từ Tử Long Cốt đến. Từ phương thuốc cũ, Mạnh thần y còn bổ sung thêm một số dược liệu quý có tác dụng phục hồi xương.
Sau khi Giang Uẩn bôi thuốc, quả nhiên hiệu quả rõ rệt. Trừ khi làm việc nặng, cánh tay y gần như không còn cảm giác đau đớn do vết thương cũ gây ra nữa.
Mỗi ngày Tuỳ Hành đều đích thân bôi thuốc cho Giang Uẩn. Sau khi bôi xong, hắn còn dùng nội lực xoa bóp thêm nửa canh giờ, giúp thuốc thấm sâu vào cơ thể.
Đôi lúc Giang Uẩn ngủ thiếp đi nhưng vẫn có thể cảm nhận được cánh tay mình được bao bọc trong luồng nội lực ấm áp rất dễ chịu. Y mở mắt ra, quả nhiên thấy Tuỳ Hành chưa ngủ, vẫn cẩn thận xoa bóp vết thương và thoa thuốc cho y.
"Sao vậy, cô làm em tỉnh giấc sao?"
Giang Uẩn lắc đầu, nhích lại gần hơn, nhẹ nhàng gối đầu lên chân hắn, nói: "Không cần làm lâu như vậy, thuốc đã thấm hết rồi, điện hạ cũng nghỉ ngơi sớm đi."
Giang Uẩn không buộc tóc, mái tóc đen như lụa của y xõa xuống chân Tuỳ Hành. Dáng vẻ lim dim buồn ngủ trông giống như một con mèo nhỏ lười biếng.
Tuỳ Hành không nhịn được đưa tay vuốt ve mái tóc của bé mèo con nhà mình, nói: "Không sao, cô không buồn ngủ."
Giang Uẩn mở mắt: "Ban ngày điện hạ phải lo nhiều việc như vậy, ban đêm còn bôi thuốc cho ta, sao không buồn ngủ cho được?"
Dù bình thường tên này lúc nào cũng tràn đầy năng lượng khiến người khác kinh ngạc, nhưng Giang Uẩn vẫn lo lắng hắn vất vả.
Tuỳ Hành nhướng mày: "Sao có thể giống nhau được? Công việc là công việc, còn em là báu vật mà cô mất bao công sức mới cưới được, cho dù cô không ngủ cũng phải hầu hạ em thật tốt. Cảm giác thế nào, có thấy dễ chịu hơn không?"
Giang Uẩn gật đầu.
"Vậy thì tốt."
Tuỳ Hành càng thêm phần tự tin.
"Cô xoa bóp thêm một lúc nữa. Mạnh thần y nói rồi, dù Tử Long Cốt đã được nghiền thành bột nhưng bên ngoài vẫn có một lớp vỏ bảo vệ, phải kiên nhẫn mài hết lớp vỏ này, Long Cốt bên trong mới thấm vào chữa thương cho em được."
Xem ra có vẻ khá tốn sức.
Nhưng Tuỳ Hành vẫn quyết tâm làm việc này.
Trước đây, dù Giang Uẩn có thể tự mình xoa bóp, nhưng chắc chắn cũng không thể làm được tỉ mỉ như vậy. Giờ có hắn ở bên, đương nhiên hắn phải cố gắng hết sức, để y không còn bị vết thương cũ giày vò nữa.
Giang Uẩn biết Tùy Hành vẫn luôn áy náy về việc này, nên không nói thêm gì nữa, yên tâm gối đầu lên đùi hắn rồi nhắm mắt lại. Trên giường nhỏ ở ngoài, nhóc con cũng mặc áo ngủ, ngủ một cách say sưa.
Ánh nến lung linh, cả phòng ấm áp.
Dù ngoài trời đang là gió lạnh thấu xương, nhưng vào lúc này, Tuỳ Hành nhìn người nằm trong lòng mình, nghe tiếng thở đều đều của nhóc con không xa, hắn cảm thấy yên bình hơn bao giờ hết.
Trước năm mười lăm tuổi, hắn một lòng muốn xây dựng sự nghiệp, thoát khỏi cái bóng của Nhan thị để tranh giành quyền lực trong triều, trải qua chiến trường lâu dài, hắn cho rằng cả đời này mình chỉ có thể làm bạn với đao kiếm, chưa bao giờ nghĩ đến việc kết hôn sinh con, thậm chí không thể tưởng tượng được cuộc sống chung giường, chung chăn gối với người khác sẽ tẻ nhạt như thế nào. Thời điểm cái danh "đại sát tinh" lan truyền khắp đầu đường cuối phố, thậm chí hắn còn cảm thấy khá hay ho. Nhưng giây phút này, hắn thật sự cảm nhận được hạnh phúc khi sống chung với người mình yêu cả đời, ngày đêm nương tựa bên nhau, đó là một loại hạnh phúc chứa đựng hơi ấm nhân gian, thuộc về những gia đình bình thường.
Hiện tại Tử Long Cốt đã có hy vọng, điều duy nhất khiến Tuỳ Hành lo lắng chính là hai con Đồng Hạc ở sau viện.
Thức ăn cho hạc mà Mạnh Huy mang đến đã giúp hai vị tổ tông mọc ra một bộ lông đẹp đẽ. Mỗi khi mặt trời lên cao, chúng sẽ bước đi uyển chuyển trên nền cỏ, duỗi bộ lông đỏ như màu lửa, quả thật có chút phong thái của thần điểu.
Tuy Mạnh thần y có thể cải thiện chế độ ăn của hai vị tổ tông, nhưng lại không thể thay đổi được tính cách của chúng.
Hai con Đồng Hạc đã ở cùng nhau trong vườn chim hơn vài tháng, chẳng những không có dấu hiệu lâu ngày sinh tình, ngược lại vì quá hiểu tính cách của nhau mà ngày càng không ưa nhau hơn. Mỗi khi gặp mặt, cả hai đều như kẻ thù truyền kiếp, nhẹ thì "chiến tranh lạnh", nặng thì đấm đá kịch liệt, khiến cho vườn chim loạn đến mức gà bay chó sủa.
Để giải quyết tình hình này, Tuỳ Hành trực tiếp đến trông chừng chúng nó, thử đủ mọi cách giúp hai con Đồng Hạc "động lòng", thậm chí còn mô phỏng môi trường sống thật của chúng, đào một hồ nước nhỏ trong vườn để hai con hạc bồi dưỡng tình cảm.
Theo như Tuỳ Hành tìm hiểu, khi hạc trống gọi bạn tình, nó sẽ chọn vị trí bên hồ có nhiều thực vật thủy sinh. Hạc trống sẽ làm cho bản thân trở nên rực rỡ, giang rộng đôi cánh để thể hiện dáng vẻ đẹp đẽ oai nghiêm của mình, đôi khi còn lượm nhặt tôm cá trong hồ để lấy lòng hạc mái.
Cách thức gọi bạn tình không kém gì nghi lễ cầu hôn của con người.
Nhưng những nỗ lực này rõ ràng không thể cảm hóa được Đồng Hạc, vì tranh giành lãnh thổ, tần suất đánh nhau của chúng ngày càng nhiều. Một buổi trưa nọ, Tuỳ Hành nhìn thấy hạc mái hung hăng cướp được một con tôm lớn từ miệng hạc trống. Chính sự thù hằn đó đã đẩy cuộc chiến giữa chúng lên đến đỉnh điểm.
Người vui nhất trong chuyện này là tiểu Giang Nặc và tiểu quận vương Tùy Chương. Ngày nào hai đứa nhỏ cũng chạy đến vườn chim xem cuộc chiến của Đồng Hạc, thỉnh thoảng còn dẫn theo lũ quý tử nhà giàu. Một đám trẻ con chia thành hai phe, một phe ủng hộ hạc mái, phe còn lại ủng hộ hạc trống, đôi khi còn tổ chức cá cược kết quả trận đấu. Tiểu quận vương Tùy Chương là người ủng hộ hạc trống, có lúc thấy hạc trống không chiếm ưu thế, nhóc hận không thể lập tức xắn tay áo lao vào trận đấu.
Tuỳ Hành đau đầu, không biết phải xử lý thế nào, quyết định kéo nhóm Thái y từ Thái y viện đến, bảo họ chuẩn bị điều chế một loại thuốc.
Hai vị Thái y lớn tuổi mặt mày xanh mét, ai nấy đều cảm thấy hoang đường, nói: "Cái này không được đâu. Tạm thời không nói đến việc cơ thể người và hạc khác nhau, thuốc trợ hứng thông thường chưa chắc có hiệu quả với thánh vật. Quan trọng nhất là, điện hạ không thể bất kính với thánh vật như vậy."
"Hơn nữa, lỡ như thuốc trợ hứng làm tổn hại đến cơ thể thánh vật, khiến chúng không thể đẻ ra trứng cát tường được nữa, thế chẳng phải là được một mất mười hay sao ạ?"
Vế trước Tuỳ Hành không mấy xem trọng, nhưng vế sau lại khiến hắn lo lắng. Hắn phải đi cả nghìn dặm đến Sa Hồ, bỏ ra số tiền lớn mới mua được hai vị tổ tông này, mục đích là để một trong hai con đẻ trứng. Nếu thực sự làm tổn hại đến thánh vật thì không ổn.
Trong thời gian đại triều hội, quốc chủ và quan lại các nước phụ thuộc biết chuyện cũng đưa ra ý kiến.
"Điện hạ, theo thần thấy, chi bằng chúng ta thử phương pháp "trống chiến"?"
Quốc chủ của một nước nhỏ phương Bắc đầy tự tin nói.
Tuỳ Hành hỏi "trống chiến" là gì.
Người nọ tươi cười đáp: "Nam nhi thảo nguyên của chúng thần mỗi khi cầu hôn cô gái mình thích luôn có một tập tục bất thành văn, đó là vào đêm trước khi cầu hôn phải đánh bại tất cả đối thủ tình địch để thể hiện tài năng và sức mạnh của mình. Thánh vật này tuy không giống con người, nhưng quy luật cũng không khác gì mấy, hiện giờ chúng nó không chịu hòa hợp, chắc hẳn là thiếu một đối thủ tình địch thứ ba, chỉ cần chúng ta tạo cho chúng cảm giác đe dọa, tự khắc chúng sẽ chủ động giao phối."
"Hoặc là "mái chiến", tìm một con hạc trắng xinh đẹp thả vào vườn chim cũng được."
Phương pháp này tuy đơn giản thô bạo nhưng cũng không phải không có lý, hôm sau Tuỳ Hành đích thân đến vườn chim quý trong cung mang về một con hạc trống khỏe mạnh đặt vào vườn chim của phủ Thái tử.
Lúc hạc trắng nhìn thấy con hạc mái xinh đẹp, quả nhiên đã sinh lòng "yêu mến", chưa đầy nửa canh giờ, nó đã bắt đầu ra sức khoe khoang trước hạc mái, phô bày bộ lông trắng tinh. Song, phương pháp này suy cho cùng cũng không hiệu quả, bởi vì vào ngày hôm sau hạc trắng đã bị con Đồng Hạc trống mổ trúng cánh, đồng thời bị đá ra khỏi vườn hạc.
Mặc dù hạc trắng cũng khỏe mạnh, nhưng khả năng chiến đấu không thể so sánh với con Đồng Hạc được cho là có huyết mạch Phượng Hoàng. Trong tình huống mà một bên hoàn toàn áp đảo bên còn lại, việc "trống chiến" cơ bản là không thể thực hiện.
Để tránh cho những con hạc vô tội bị cuốn vào cuộc tranh đấu của hai vị tổ tông, Tuỳ Hành đành phải từ bỏ ý tưởng này.
Sáng hôm đó, lúc Giang Uẩn còn mơ màng ngủ, y chợt nghe tiếng động sột soạt bên cạnh, mở mắt ra thì thấy Tuỳ Hành đang lén lút mặc đồ, y nhíu mày hỏi: "Điện hạ đi đâu vậy?"
Tuỳ Hành thấp giọng trả lời, tránh làm ồn đến đứa nhỏ đang ngủ bên trong: "Phàn Thất nói trong lúc khai hoang ở núi Kỳ Phụng đã bắt được một con chim thần có kích thước khổng lồ, nghe nói sức chiến đấu không thua gì Đồng Hạc, cô định bắt về thả vào vườn chim xem sao."
Nghe xong Giang Uẩn hoàn toàn tỉnh ngủ.
Y nói: "Đúng là làm càn."
"Sao có thể gọi là làm càn, cô đã bảo người huấn luyện thú ở vườn thú xem qua rồi, đó cũng là một loài hạc."
Giang Uẩn nói: "Hạc lớn lên trong rừng núi, bản tính chẳng khác gì sói hoang, ra tay toàn là đòn trí mạng. Lỡ như chúng khiến hai con Đồng Hạc bị thương thì phải làm sao?"
Tuỳ Hành cười nói: "Em đừng lo, cô đã nghĩ đến điều này từ lâu rồi, vậy nên cô cố ý căn dặn bọn họ đeo bao da móng vuốt cho hạc, dù có đánh nhau thật thì cũng không có gì đáng ngại."
"Thôi được rồi, cô đi xem trước đã, em cứ ngủ thêm chút nữa đi."
Đợi Tuỳ Hành sắp xếp xong đi đến sảnh trước, Phàn Thất đã dùng xe kéo chở con hạc hoang đến đợi sẵn. Quả nhiên móng vuốt của nó đã được đeo bao da, đôi mắt sáng quắc, toát ra vẻ ngang tàng hoang dã.
Phàn Thất cười hề hề nói: "Điện hạ thấy thế nào? Các huynh đệ đã tốn rất nhiều công sức mới bắt được con súc sinh này đó."
Tuỳ Hành khoanh tay đi vòng quanh xem xét vài lần, nói: "Làm tốt lắm, nếu lần này thành công, cô sẽ thưởng lớn."
...
Lúc Giang Uẩn tỉnh dậy, bên ngoài trời đã sáng.
Còn chưa mở mắt, y đã cảm giác có thứ gì đó giống như lông nhung mềm mại lướt qua mặt mình, không khác gì sâu nhỏ.
Giang Uẩn vờ như không biết, chờ khi "con sâu" đó lại di chuyển, y nhanh tay bắt lấy, lúc này Giang Uẩn nắm được một bàn tay nhỏ xíu của bé con.
"Hì hì."
Tiểu Giang Nặc mặc chiếc áo kép trắng như tuyết, nằm bên mép giường, trong tay cầm cây bút lông mới tinh, nói: "Cha ngủ nướng."
Giang Uẩn thuận tay véo mũi nhóc, hỏi: "Sáng nay đã học bài chưa?"
Nhóc con lập tức biến thành một bé thỏ ngây thơ vô tội.
Giang Uẩn đứng dậy, khoác áo bào và buộc tóc gọn gàng, sau đó dẫn theo tiểu Giang Nặc đến phòng khách dùng bữa sáng. Vừa ăn được một nửa đã thấy Tuỳ Hành xụ mặt quay về.
Giang Uẩn bảo Kê An múc cho hắn một bát cháo, hỏi: "Sao rồi?"
"Đừng nhắc nữa, được mỗi cái mã! Chưa tới mười chiêu đã bị hai vị tổ tông đó đánh gục."
Do con hạc hoang quá hung hãn, hai con Đồng Hạc liền coi "cư dân mới" này là "kẻ địch ngoại bang", hiếm khi đồng tâm hiệp lực, cùng nhau chiến đấu, lần nữa phá hỏng kế hoạch hoàn hảo của Thái tử điện hạ.
Ăn xong bữa sáng, Tuỳ Hành vào cung thượng triều sớm, Giang Uẩn giao bài tập cho nhóc con, sau đó vẫn đến phòng nghị sự phía nam bàn việc như thường lệ. Hôm nay, Lạc quốc chủ Lạc Trường Khanh và Vân quốc chủ Vân Hạo cũng tới đây, một là nhân dịp trước lễ Tết đến thăm Giang Uẩn, hai là để bàn về việc xây dựng cây cầu lớn bắt qua sông Hoàng Hà vào năm tới.
Lạc Trường Khanh thông thạo kiến thức thủy lợi và xây dựng, lần này ông nhận lời mời của Giang Uẩn mà đến. Lạc Phụng Quân cũng theo cha tới Tùy đô. Sau khi nghị sự kết thúc, Lạc Phụng Quân chủ động ngỏ ý muốn ở lại để học hỏi cầm nghệ từ Giang Uẩn.
Lạc Trường Khanh vẫn luôn lo lắng về sự say mê âm nhạc đến mức không màng quốc sự, cũng không chịu giao lưu với những công tử quý tộc khác của con trai. Thấy vậy ông vui mừng, chỉ căn dặn Lạc Phụng Quân phải ăn nói cẩn thận, không được hành động quá phận.
Lạc Phụng Quân nghe câu lọt câu không rồi bước vào thủy tạ, ngồi đối diện Giang Uẩn để chơi đàn.
Giang Uẩn chỉ nghe một nửa đã đặt chén trà xuống, nói: "Lạc Thế tử có chuyện gì cứ nói thẳng, trước mặt cô không cần phải vòng vo."
Lạc Phụng Quân ngẩn ra.
Tiếp đến hắn bật cười, có chút tò mò hỏi: "Làm sao ngươi biết ta có chuyện muốn nói?"
Giang Uẩn đáp: "Nhạc công tử nổi danh thiên hạ về cầm nghệ, lòng đam mê và yêu cầu âm nhạc khắt khe đến đâu cô đều biết rõ. Nhưng vừa rồi ngươi chỉ mới đàn một đoạn ngắn mà đã lạc âm ba chỗ, có thể thấy trong lòng có điều gì đó chưa thể giải tỏa."
Lạc Phụng Quân bội phục, từ trước đến nay tính cách hắn vốn thẳng thắn, nghe vậy cũng không giấu giếm nữa, nói: "Đúng vậy, hôm nay ta được người khác nhờ vả mà đến."
"Người nào?"
"Vệ Quân."
Hiện tại Vệ quốc chủ Vệ Liên bệnh tật triền miên, nội bộ Vệ quốc tranh đấu quyết liệt. Ba người con của Vệ Liên đều đang chờ thời cơ để giành ngôi vị, các phe phái trong triều cũng chia thành ba nhóm. Mặc dù Vệ Quân là Thế tử, nhưng lại bị Vệ Liên cố ý cô lập, với thân phận là cháu, y không có quá nhiều lợi thế trong cuộc chiến tranh giành ngôi vị lần này.
Giang Uẩn hỏi: "Cô hơi tò mò, xưa nay ngươi vốn không thích dính vào những cuộc tranh đấu vô vị, sao lần này lại đồng ý làm thuyết khách thay cho Vệ Quân?"
Lạc Phụng Quân hiếm khi tỏ ra bất đắc dĩ, đáp: "Nói thật, ban đầu ta không có hứng thú truyền lời thay cho y, nhưng y lại có một quyển nhạc phổ quý hiếm, chính là thứ ta tìm kiếm đã lâu. Ta chỉ đành đồng ý."
Tất nhiên còn có lý do khác, kể từ sau tiệc Xuân Nhật, Vệ Quân cứ như miếng keo chó quấn lấy hắn, khiến hắn phiền phức không thôi.
Giang Uẩn gật đầu, vẫy tay mời Lạc Phụng Quân ngồi xuống uống trà.
Lạc Phụng Quân hỏi: "Ngươi còn chưa trả lời, rốt cuộc ngươi có chịu gặp y hay không?"
Giang Uẩn nói: "Vậy thì phiền Thế tử thay cô hỏi y một câu."
"Câu gì?"
"Y có thể cho cô thứ gì?"
Lạc Phụng Quân không hiểu lắm.
Giang Uẩn nói: "Vệ quốc hiện giờ là nước phụ thuộc Giang Bắc, y vượt quyền Giang Bắc, trực tiếp đến tìm cô đã là không đúng quy tắc. Thứ hai, quản lý quốc gia không phải làm từ thiện, y phải chứng minh được giá trị của mình thì cô mới có thể cho y cơ hội. Ngươi không cần nghĩ nhiều, cứ truyền lại lời cô, y ắt sẽ hiểu."
Lạc Phụng Quân nói thẳng: "Giang Nam và Giang Bắc giờ chẳng phải là một nhà rồi sao? Vệ quốc quay về Giang Nam chỉ là chuyện sớm muộn, ngươi quyết định dùng người, sao còn phải hỏi ý kiến của hắn?"
"Công ra công, tư ra tư, không thể lẫn lộn."
Lạc Phụng Quân thực sự không mấy hứng thú với những chuyện vòng vo này, nói: "Yên tâm, ta sẽ truyền lời chính xác."
Nói xong chuyện của Vệ Quân, Lạc Phụng Quân hỏi: "Vết thương cũ trên cánh tay ngươi sao rồi?"
Giang Uẩn nói: "Đã đỡ hơn nhiều rồi, lúc rảnh rỗi cũng có thể đàn vài khúc nhạc ngắn."
Hai mắt Lạc Phụng Quân sáng lên, nhưng ngay sau đó như nhớ ra điều gì, nói: "Thôi, không vội, thời gian còn dài, đợi khi vết thương của ngươi hoàn toàn lành hẳn, chúng ta lại so tài cao thấp."
"Nghe nói gần đây ngươi lại sáng tác khúc mới?"
Lạc Phụng Quân nhíu mày, tỏ vẻ không hài lòng, thản nhiên nói: "Ngươi đừng nghe mấy kẻ đó nói bậy, khúc mới cái gì, chỉ là một đoạn nhạc vô nghĩa đàn lúc nhàn rỗi mà thôi."
Hai người đang nói chuyện, Kê An đột nhiên mang một tấm thiệp bước vào, bẩm báo: "Điện hạ, bên ngoài có một vị khách tự xưng đến từ Đông Châu, gửi vật này cho điện hạ."
...
Buổi tối Tùy Hành trở về thì thấy chính phòng tối om, hắn đang lấy làm lạ thì nghe Kê An nói: "Dung Dữ điện hạ và tiểu hoàng tôn đang ủ rượu ở sau viện ạ."
"Ủ rượu?"
"Vâng, Dung Dữ điện hạ nói sắp đến Tết rồi nên chuẩn bị ủ một ít rượu thuốc để xua đuổi hàn khí và trừ tà, ban thưởng cho các tướng sĩ."
Tùy Hành tìm đến sau viện, quả nhiên thấy phòng bên cạnh nhà bếp sáng đèn, trên cửa sổ in bóng hai người, một lớn một nhỏ, giọng nói trong trẻo của nhóc con không ngừng vang lên.
"Đây là Đồ Tô."
"Đây là Tử Tô."
Nhóc con đang phân biệt các loại thảo dược.
Cao Cung cũng dẫn theo hai cung nhân sang giúp đỡ.
Tùy Hành ra hiệu cho cung nhân im lặng, hắn lặng lẽ bước vào, thấy Giang Uẩn mặc y phục vải xanh ngồi trên ghế bên cửa sổ, đang hướng dẫn nhóc con bỏ thảo dược vào hũ rượu. Vật nhỏ chạy tới chạy lui, lắng nghe tên thảo dược mà Giang Uẩn đọc, sau đó lấy đúng loại thảo dược mang lại, chẳng mấy chốc trán đã lấm tấm mồ hôi.
Cả căn phòng tràn ngập mùi hương nồng nàn, có phần quen thuộc.
Tùy Hành bước tới, hỏi: "Đang làm gì thế?"
Nhóc con thần bí che miệng hũ rượu, không cho Tùy Hành nhìn.
Càng đến gần, mùi hương cay nồng đó càng rõ rệt.
"Rốt cuộc là rượu gì, tại sao cô chưa từng uống qua."
Cao Cung vừa mang theo thảo dược bước vào, cười đáp: "Là rượu Đồ Tô, dân gian thường dùng để trừ tà, phòng bệnh tật, mỗi năm bệ hạ cũng căn dặn ngự thiện phòng chuẩn bị một mẻ, ban thưởng cho các thần tử."
Tùy Hành chợt hiểu, từ nhỏ hắn thích uống rượu mạnh, hiếm khi uống loại rượu thuốc này. Nhìn quanh phòng đầy vò rượu, hắn hỏi: "Vò nào cho cô?"
Giang Uẩn khẽ nâng mi, nhìn hắn nói: "Không có."
Tùy Hành không hiểu: "Tại sao?"
Giang Uẩn đáp: "Mấy thứ dung tục ta ủ làm sao lọt vào mắt xanh của điện hạ. Điện hạ cứ ôm vò rượu Cao Lương ở núi tuyết mà thưởng thức đi."
Tùy Hành sực nhớ ra điều gì.
Đầu hắn "ong" một tiếng, cảm thấy hối hận vô cùng, người nào đó ngượng ngùng xoa mũi nói: "Em cũng biết mà, lúc đó cô chỉ cố tình chọc giận em thôi. Nếu cô biết là rượu do em ủ, sao cô nỡ chia cho người khác uống."
"Nhưng khi ấy điện hạ bảo rằng còn không bằng nước tiểu ngựa."
"... Đó đều là cô nói năng linh tinh, vậy mà em cũng tin!"
"Ta cũng hết cách, dù sao năm nay không có phần của điện hạ."
"Không được, em phải chừa lại cho cô một vò chứ."
Đến lúc chia rượu, toàn quân đều có chỉ mình hắn không có, Thái tử điện hạ biết đào lỗ nào mà chui xuống!
"Nếu ta không chừa thì sao?"
"Em dám."
"Điện hạ thử xem."
Tùy Hành nghiến răng, trực tiếp ôm người vào lòng: "Em cố tình muốn cô mất mặt phải không?"
Giang Uẩn nhéo mũi hắn.
"Uống rượu mạnh thì oai phong chứ sao, sao lại mất mặt?"
Tùy Hành đâu ngờ Giang Uẩn lại thù dai như vậy, cứng rắn không được, bèn thử mềm mỏng: "Vậy em nói đi, phải làm sao mới chịu tha thứ cho cô?"
Giang Uẩn đáp: "Để ta nghĩ đã."
"..."
Tùy Hành siết lấy eo nhỏ của y, nói: "Xem ra ngày mai em không muốn dậy nữa."
Giang Uẩn cắn hắn một cái.
"Vậy điện hạ cũng đừng mong thượng triều."
Tùy Hành rít lên một tiếng, không tin nổi nói: "Trước mặt bao nhiêu người mà em còn..."
"Là điện hạ uy hiếp ta trước."
Cao Cung hiểu ý, vội vàng dẫn tiểu Giang Nặc và các cung nhân ra ngoài vườn chôn rượu, tiện cho hai vị điện hạ trong phòng tối tha hồ trêu ghẹo nhau. Không biết Tùy Hành nghĩ tới điều gì, hắn cười nói: "Dung Dữ, cô thật không ngờ em còn có bản lĩnh này."
"Phải cảm tạ điện hạ dạy bảo chu đáo."
Cảm thấy càng nói càng lạc đề, Tùy Hành nhướng mày hỏi: "Hay là, hôm nay chúng ta "học bài" mới nhé?"
Giang Uẩn định cắn hắn, nhưng lại bị Tùy Hành xoa eo.
Thế này mà để người ngoài nhìn thấy thì còn ra thể thống gì nữa, Giang Uẩn nói: "Thả ta xuống."
"Không thả, trừ khi em chừa lại cho cô một vò."
"Điện hạ mơ đi."
"Em cũng mơ đi."
Hai người cứ như trẻ con đấu khẩu một lúc lâu, Tùy Hành bỗng nhiên hắng giọng, nói: "Thật ra có một chuyện, cô muốn hỏi ý kiến của em."
Giọng điệu Tuỳ Hành bỗng nghiêm túc, Giang Uẩn tựa vào vai hắn, nghịch tóc đối phương, hỏi: "Chuyện gì?"
Tùy Hành nói: "Đại triều hội lần này, ông ấy cũng đến, em có muốn gặp không?"
Giang Uẩn hơi khựng lại.
Tùy Hành nhận ra sự thay đổi nhỏ của y, nói: "Tình hình ở Đông Châu đặc biệt, lần này ông ấy bí mật đến nên không ai biết. Nhưng cô nghĩ, cô nên báo với em một tiếng."
Từ lần chia tay ở Tề đô, Giang Uẩn chưa từng nhắc đến chuyện ở nơi đó nữa, nhưng dù sao đối phương cũng là người thân máu mủ của y. Y không nhắc, không có nghĩa là không để ý.
Giang Uẩn cười, biết Tùy Hành lo lắng cho mình, nói: "Ta đã biết rồi."
"Biết rồi?"
Tùy Hành hơi ngạc nhiên.
"Ừm."
Giang Uẩn lấy ra một tấm thiệp từ trong ngực, nói: "Hôm nay, ông ấy cho người gửi cái này đến."
"Ông ấy đích thân tới đây?"
"Ta không biết, nghe Kê An mô tả, có vẻ giống."
Tùy Hành chợt vỡ lẽ.
Giang Uẩn nói: "Nếu đã muốn bàn chuyện Đông Châu, vậy ngày mai chúng ta cùng đến dịch quán đi."
Tùy Hành đồng ý, lập tức bảo Kê An đi chuẩn bị quà.
Việc tặng quà nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, nhưng quan trọng ở sự tinh tế. Kê An không biết nội tình, bèn cẩn thận hỏi Giang Uẩn nên chuẩn bị những gì. Tùy Hành đáp: "Cứ chuẩn bị giống như những món quà mà cô tặng riêng cho phụ hoàng và mẫu hậu mỗi dịp lễ Tết là được."
Kê An không dám hỏi nhiều, ông suy nghĩ một chút rồi nói: "Vậy lão nô sẽ chuẩn bị lễ vật dành cho trưởng bối."
Giang Uẩn và tiểu Giang Nặc đào vò rượu thuốc được chôn ở sau viện từ tháng trước lên.
Tùy Hành đi theo sau, nhìn hai người bận rộn, thấy tay Giang Uẩn dính bùn đất, hắn sợ y mệt, bèn cúi xuống chủ động giành công việc, còn ghen tỵ nói: "Giấu bao nhiêu rượu như vậy mà không chịu cho cô một vò, Dung Dữ, em đúng là phân biệt đối xử."
Giang Uẩn hỏi nhóc con bên cạnh: "Nặc Nặc nói xem, rượu này cho ba con uống được không?"
Trên mặt nhóc con cũng dính đầy bùn đất, giống như một ông cụ non ngồi xổm bên cạnh, nhìn cha nhỏ bận rộn, nghe vậy thì kiêu ngạo đáp: "Không cho."
"Tại sao thế?"
"Ba ngốc chê mà."
Giang Uẩn mỉm cười, véo má nhóc con.
"Ngoan quá, lát nữa cha cho con ăn phô mai nhé."
"Dạ!"
Nhóc con vỗ tay vui mừng.
Tùy Hành biết mình đuối lý, chỉ đành cố gắng đào hết rượu lên, lại cẩn thận lau sạch bùn trên vò, sau đó bảo Cao Cung dẫn cung nhân mang rượu vào trong, sắp xếp cẩn thận.
Sáng sớm hôm sau, Giang Uẩn và Tùy Hành mang theo lễ vật, ngồi xe ngựa rời khỏi phủ Thái tử. Xe ngựa lăn bánh đi qua mấy con phố dài rồi dừng lại trước một căn viện trang nhã yên tĩnh, Giang Uẩn nói: "Không phải điện hạ bảo ông ấy ở dịch quán sao?"
Tùy Hành cười: "Xem em nói kìa, dù sao cũng là bậc trưởng bối, sao cô có thể để ông ấy ở dịch quán được. Nơi này trước kia vốn là dịch quán bị bỏ hoang, sau đó được một nhà giàu mua lại cải tạo thành biệt viện, môi trường khá tốt, vị trí cũng yên tĩnh."
Giang Uẩn không ngờ hắn chu đáo đến vậy.
Y không nhịn được ghé sát lại, nhẹ nhàng hôn hắn một cái, nói: "Cảm ơn điện hạ."
Tùy Hành không kiềm được vuốt ve gò má y, nghiêm túc nói: "Được rồi, chúng ta còn khách sáo với nhau làm gì. Đi thôi, ra ngoài xem thử."
Hai người cùng nhau xuống xe, bất ngờ thấy có một nhóm người tập trung trước cửa phủ, cảnh tượng đông đúc nhộn nhịp, đứng đầu là một vị công tử khoác bạch y, ôm cổ cầm, không ai khác chính là Lạc Phụng Quân.
Phía sau còn có một nhóm nhạc sư với đủ mọi lứa tuổi, nam có nữ có, bọn họ mang theo các loại nhạc cụ khác nhau.
Người dân xung quanh đang chỉ trỏ bàn tán.
Công tử trẻ tuổi đứng ở cửa khuyên nhủ: "Các vị, người mà các vị tìm thật sự không ở đây, xin mời về cho."
Lập tức có một nhạc sư phản bác: "Không thể nào, chúng ta đã nhận được tin tức chính xác, nói là Đoàn hầu đang nghỉ ngơi tại đây cơ mà."
Đoàn hầu Tề quốc là người đã sáng tác nên khúc Phượng Cầu Hoàng trong truyền thuyết, các vị nhạc sư nơi đây đều vì ngưỡng mộ danh tiếng của Đoàn hầu mà đến. Tuy nhiên do Đoàn hầu sống kín tiếng, chưa từng xuất hiện trước mặt người đời, nên bọn họ phải kiên nhẫn chờ đợi bên ngoài phủ.
Sự xuất hiện của Lạc Phụng Quân càng khẳng định tin tức này là thật. Vì suy cho cùng chỉ có Đoàn hầu mới có thể khiến vị nhạc công tử này đại giá quang lâm.
Tuỳ Hành thở dài: "Là cô sơ suất."
Sau đó, hắn ra lệnh cho Thập Phương dẫn theo binh lính của phủ Thái tử, lịch sự "mời" các nhạc sư rời đi. Chỉ có Lạc Phụng Quân vì thân phận đặc biệt nên không bị đuổi, vẫn kiêu ngạo đứng tại chỗ.
Tề Tử Kỳ ở bên ngoài nhìn thấy Giang Uẩn bèn chạy đến, kích động nói: "Ngươi tới rồi."
Lạc Phụng Quân nhìn bọn họ với ánh mắt kỳ quặc: "Hai người thân nhau lắm à?"
Đúng lúc đó, cánh cửa đóng chặt từ từ hé mở, một người đàn ông mặc trường bào màu đen chậm rãi bước ra. Ông nhìn Giang Uẩn, hồi lâu mới nhẹ nhàng mỉm cười.
"Vào đi."
Lạc Phụng Quân kinh ngạc nhìn người đàn ông nho nhã đứng trước cửa.
Lạc Phụng Quân không dám bước tới, vì dù khuôn mặt của đối phương rất hiền hòa, nhưng khí chất quanh người lại quá mức lạnh lùng, mang đến cho người khác một loại cảm giác không thể xâm phạm.
Giang Uẩn và Tuỳ Hành cùng bước vào, cúi đầu hành lễ, sau đó Giang Uẩn thì thầm vài câu với Đoàn hầu. Đoàn hầu ngẩng đầu, nhìn về phía Lạc Phụng Quân.
Đoàn hầu hỏi: "Ngươi là Thế tử Lạc quốc, Nhạc công tử nổi danh khắp thiên hạ?"
Lạc Phụng Quân gật đầu.
"Vâng, là vãn bối."
"Khách đến là bạn, bản hầu đã chuẩn bị trà và điểm tâm, nếu Lạc Thế tử không bận gì thì hãy vào uống một chén đi."
Lạc Phụng Quân cảm thấy lòng bàn tay mình đổ mồ hôi vì kích động.
Lần này Đoàn hầu bí mật đến nên chỉ mang theo một số thị vệ thân cận. Người hầu trong phủ đều do Tuỳ Hành tạm thời sắp xếp. Trà và điểm tâm được dọn ra trong phòng dành riêng cho khách, cửa phòng mở rộng, ngoài vườn có trồng những loài hoa có thể chịu rét. Năm người cùng ngồi xuống, Tề Tử Kỳ rót trà. Sau khi nói chuyện phiếm một lúc, Đoàn hầu hỏi thăm bệnh dạ dày của Giang Uẩn, Tuỳ Hành liền kể về chuyện hai con Đồng Hạc.
Đoàn hầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói: "Có lẽ có thể dùng âm nhạc."
"Dùng âm nhạc?"
"Đúng vậy. Âm nhạc xuất phát từ ngũ cảm, sau cùng lại quay về ngũ cảm. Bản nhạc thượng thừa trên đời có thể khiến bách điểu triều phượng, giúp người ta quên đi đau đớn. Bản hầu nghe nói một số loài chim thú còn cất tiếng hát trong mùa giao phối."
Việc sử dụng âm nhạc khiến hai con hạc vốn xem nhau như kẻ thù dần hóa giải hiềm khích và trở thành đôi bạn đời là một nhiệm vụ không kém phần khó khăn so với việc giúp con người quên đi đau đớn. Với người thường, điều này dường như là chuyện không thể tưởng tượng, nhưng lời nói của Đoàn hầu lại khiến người ta phải nghiêm túc suy nghĩ.
Từ khi bước vào phòng trà, Lạc Phụng Quân vẫn im lặng không nói gì. Nghe đến đây, hắn không nhịn được hỏi: "Thật sự có loại nhạc khúc kỳ diệu như vậy sao?"
Đoàn hầu đáp: "Có thể thử."
Điều đó nghĩa là phải sáng tác một bản nhạc mới.
Lạc Phụng Quân lập tức hỏi: "Ta có thể tham gia không?"
Đoàn hầu nói: "Đương nhiên là được, Lạc Thế tử giỏi nhạc cụ gì?"
Lạc Phụng Quân trả lời: "Cổ cầm."
Từ nhỏ hắn đã say mê cổ cầm, trừ cổ cầm ra, hắn không mấy quan tâm đến những nhạc cụ khác.
Đoàn hầu gật đầu: "Âm đàn cầm quá trong trẻo, tấu khúc nhạc vui sẽ thiếu đi một vài dư vị. Nhưng nếu thêm âm sáo, hòa tấu giữa cầm và sáo thì hiệu quả sẽ tốt hơn. Lạc Thế tử có sẵn lòng hợp tác với bản hầu không?"
Lạc Phụng Quân suy nghĩ một lát rồi nói: "Dĩ nhiên vãn bối cầu mà không được, chỉ là dù hòa tấu đàn cầm và sáo thì đàn cầm vẫn đóng vai trò quan trọng. Ta sợ rằng mình không đủ khả năng gánh vác."
Tuy Lạc Phụng Quân kiêu ngạo, nhưng lại rất nghiêm túc trong âm nhạc. Hắn biết rõ trình độ của mình, nếu không thể làm được, hắn sẽ không tuỳ tiện đồng ý.
"Không sao, việc này cứ tự nhiên là được, không cần quá cầu kỳ về mặt kỹ thuật."
"Nếu vậy, ta vẫn nên đứng một bên quan sát học hỏi thì tốt hơn."
Lạc Phụng Quân tiếc nuối nói.
Đoàn hầu đang định đáp lời thì một giọng nói trong trẻo vang lên: "Nếu âm sáo chỉ là hỗ trợ, có lẽ cô có thể thử xem sao."
Lạc Phụng Quân ngạc nhiên nhìn Giang Uẩn: "Ngươi còn giỏi thổi sáo?"
Giang Uẩn đáp: "Không tính là giỏi, trước đây từng học với Thái phó một đoạn thời gian."
Tuy Tuỳ Hành không thông thạo âm nhạc nhưng cũng biết sơ qua về nhạc lý, nghe vậy hắn nói: "Cô cho rằng có thể. Như vậy, hai người cùng gảy đàn cầm, một người thổi sáo."
Ba ngày sau, Tuỳ đô đón trận tuyết rơi đầu tiên.
Tuỳ Hành cho người dọn dẹp đình viện phía sau, bày biện đàn cầm và đốt lò hương. Đoàn hầu và Lạc Phụng Quân lần lượt mang đàn đến, Giang Uẩn cũng cầm sáo trúc đứng đợi trong đình. Tuyết rơi lả tả, hoa mai nở rộ, ba người cùng nhau hòa tấu khúc nhạc vui vẻ lãng mạn. Giai điệu ngân vang khắp phủ Thái tử. Các nhạc sư hay tin cũng thi nhau tụ tập quanh con hẻm trước phủ Thái tử để xem. Thậm chí có người còn không ngần ngại trèo qua tường dù đã có thị vệ canh gác.
Sau khi bản nhạc kết thúc, hai con Đồng Hạc vốn đang đánh đấm không ngừng bỗng thu lại móng vuốt, ngoan ngoãn đứng bên bờ hồ ngắm tuyết.
Chuyện này chẳng mấy chốc lan truyền thành giai thoại.
Không ít danh sĩ viết nhiều bài văn khen ngợi sự kỳ diệu và vẻ đẹp của khúc nhạc.
Người ta nói rằng Đoàn hầu đã đặt tên cho bản nhạc này là "Phượng Cầu Hoàng", nhưng bản "Phượng Cầu Hoàng" này không phải dựa trên nhạc phổ cổ, cũng không phải là một khúc nhạc bi ai, mà là một bản hòa tấu của tình yêu chân chính.
Lạc Phụng Quân là một người say mê âm nhạc, hắn quyết định ở lại Tuỳ đô, thỉnh thoảng đến phủ Thái tử tập luyện với Giang Uẩn, ngày qua ngày tiếp tục "tẩy não" hai con hạc trong phủ.
Có lẽ nhờ vào nỗ lực của nhạc công tử mà đến cuối mùa đông của tháng sau, hai con hạc đã vượt qua quy luật tự nhiên tiến hành giao phối. Con hạc trống còn đặc biệt xây một tổ chim đẹp mắt để chăm sóc con hạc mái.
Cả phủ Thái tử tràn ngập niềm vui, tiểu Giang Nặc và tiểu quận vương Tùy Chương chuyển từ việc thích thú xem Đồng Hạc đánh nhau cho đến háo hức chờ chúng đẻ trứng. Thậm chí tiểu quận vương còn trộm nguyên tấm da cáo quý giá trong cung Lan quý phi, trải vào tổ của Đồng Hạc để giúp giữ ấm cho hạc mái. Tiểu Giang Nặc cũng không chịu thua, nhóc nhân lúc Tùy Hành vào triều, lẻn vào thư phòng trộm đi một chiếc áo choàng màu mực của hắn, đặt chồng lên tấm da cáo.
Lại một tháng trôi qua, một đêm nọ chim hạc mái đã thành công ấp ra hai quả trứng.
Tuỳ Hành chỉ lấy một quả cho Giang Uẩn dùng, quả còn lại để trong tổ cho chim mái tiếp tục ấp nở thành hạc con.
...
Năm tháng yên bình qua đi, cho đến một buổi sáng nọ, Giang Uẩn bất chợt nói với Tuỳ Hành y thèm ăn mơ chua.
"Mơ chua?"
Tuỳ Hành lộ vẻ mặt kỳ quái.
"Muốn ăn ngay bây giờ?"
Giang Uẩn gật đầu.
Vốn dĩ Tuỳ Hành còn đang lim dim buồn ngủ, nhưng nghe xong thì tỉnh rụi, nói: "Chẳng lẽ... có rồi?"
Giang Uẩn kiên quyết nói không phải, chỉ là y thèm ăn mà thôi.
"Rốt cuộc điện hạ có đi hay không?"
"Đi, cô đi ngay đây."
Tuỳ Hành đích thân đến nhà bếp lấy một phần mơ chua ngâm đường, nhưng Giang Uẩn chỉ nếm một trái rồi bỏ xuống, không hài lòng nói: "Ngọt quá."
Tùy Hành càng lộ ra vẻ khó tin
Sau đó hắn thử một quả, chua đến mức phải bật thốt thành tiếng.
"Vậy mà còn ngọt hả?"
"Không ngọt sao?"
"Ngọt, ngọt, cô lập tức kêu người đổi cái khác."
Hiện tại không phải mùa mơ chín, nhưng phủ Thái tử vẫn dự trữ đủ loại mơ với đủ mọi hương vị, từ ngọt đến mặn. Nhưng việc tiểu lang quân nhà mình đột nhiên thích ăn mơ khiến Tuỳ Hành bồn chồn không thôi.
Bởi vì hắn nhớ lại hai năm trước lúc Giang Uẩn không từ mà biệt y cũng rất thích ăn mơ.
Tuỳ Hành không dám lơ là, mặc dù trước đó hắn chưa từng chứng kiến việc sinh sản, nhưng hắn biết đó là một việc rất nguy hiểm và gian khổ. Dù hiện tại chưa rõ thực hư, nhưng nếu Giang Uẩn thật sự có "tin vui", hắn phải chuẩn bị kỹ càng, chăm sóc y thật chu đáo.
Ngay lập tức, Tuỳ Hành đến thư phòng, viết một bức thư khẩn cấp gửi cho Mạnh Huy, đồng thời mời vị thần y này nhất định phải đến Tùy đô một chuyến.