Dượng Jazz trông bối rối, nhưng dễ chịu. Dượng nghĩ là
tôi cần ông giúp đỡ một việc gì đó, thế nên dượng đi theo tôi ngay thậm
chí còn không hề hỏi lý do tại sao tôi không nhờ đến Bố hay Wyatt
– không phải là dượng biết tên Wyatt mà dượng biết là tôi sắp sửa
kết hôn vì thông báo đính hôn của chúng tôi đã được đăng trên báo,
chưa kể Tammny chắc đã kể cho dượng nghe. Dượng hỏi khi nào thì tổ
chức cưới, còn tôi trả lời là trong vòng hai mươi ba ngày nữa.
Có thể thôi, một giọng nói nhỏ xíu thì thầm vào tai tôi, và trái tim tôi nhói lên vì đau khổ và hoang mang.
Tôi đã cài đặt chế độ im lặng cho máy di động để tôi không bị phân tán vì tiếng chuông reo, nên khi vào xe ô tô
tôi lôi di động trong túi xách ra để xem liệu có cuộc gọi nào gọi
đến hay không. Tin nhắn hiện lên trên màn hình điện thoại cho biết tôi
có 3 cuộc nhỡ. Vừa nhìn điện thoại vừa trông chừng đường sá – rồi
rồi rồi, tôi thừa biết như thế là nguy hiểm mà, blah blah blah –
tôi truy cập vào mục các cuộc gọi đến. Mẹ đã gọi này, và Wyatt cũng gọi nữa.
Trái tim tôi nảy lên một nhịp – theo đúng nghĩa đen đấy. Wyatt đã gọi đến cho tôi. Tôi không biết đó là tốt hay xấu nữa.
Ngay lúc này tôi không gọi lại cho ai
hết, vì tôi còn phải tập trung vào việc của dượng Jazz. Tôi rất mừng
khi dượng cũng quan tâm đến, vì tôi không sẵn sàng tập trung suy nghĩ
tới việc trọng đại. Dù tôi vẫn quan sát đến những chiếc xe màu trắng,
songchẳng có bất kì một chiếc Chevrolets trắng nào bám theo tôi trên
đường tới văn phòng của dượng Jazz cả, nhưng thế không cónghĩa là tôi
cho phép mình xao lãng.
Khi tôi vòng xe vào cửa hàng của người
phục chế đồ nội thất, dượng Jazz trông có vẻ nổi cáu với tôi. “Không!
Chắc chắn là không! Dù thế nào đi nữa dượng cũng sẽ không chi thêm
bất kỳ một xu nào để mua thứ mà bà ấy sẽ không hề đánh giá cao đâu. Nếu
bà ấy mà thấy, ta không biết còn lỗ nẻ nào mà chui nữa khi nói đến trang trí…”
“Bình tĩnh đi nào; cháu đâu cần dượng
mua gì.” Tôi hồ như mất luôn cả đồng cảm với cả dượng và dì Sally
nên cất cao giọng. Thật kỳ quặc. Ý tôi là, Sally và Jazz thực sự
giống như là dì và dượng của tôi, nên việc sử dụng cái giọng người
lớn ra để nói với dượng quả là một bước thay đổi lớn. Trông dượng
cũng hơi giật mình, như thể trong suy nghĩa dượng vẫn coi tôi chỉ là
một đứa nhóc tì.
“Xin lỗi,” dượng lẩm bẩm. “Ta chỉ nghĩ…”
“Và dì đúng một điều là: dượng chả biết
tí gì về việc trang trí cả. Nhìn thoáng qua văn phòng của dượng cháu
có thể nói thế. Đó là tại sao cháu sẽ phải chuẩn bị một bài diễn văn dài với Monica Stevens.”
Dượng nghĩ ngợi một lúc, rồi trở nên đầy hy vọng. “ Cháu có nghĩ cô ta sẽ trả lại đồ đạc cho Sally không?”
Tôi khịt mũi. “ Nhiều cơ hội như thế.
Toàn những đồ vật gia truyền cả. Ai mà mua chúng khỏi cửa hàng ký
gửi của Monica sẽ không nhả chúng ra đâu.”
Dượng thở dài, quay về tâm trạng phiền
muộn như lúc trước. Dượng nhìn vào cửa hàng phục chế đồ nội thất, một
nơi bề bộn với những mảnh rác chất chồng lung tung khắp khoảng sân lát
bê tông. Một tấm sắt rỉ sét dựa ngay bên cạnh cửa ra vào. “Con nhìn
thấy cái gì mua được ở đây nhỉ?”
“Đó không phải lý do chúng ta ở đây. Thôi nào.”
Dượng ngoan ngoãn nghe theo tôi. Tôi bắt đầu hiểu dượng. Với tính bướng bỉnh cố hữu, dượng đã thu mình lại trong vỏ ốc và không có ý định bước ra. Tuy thế, vì dượng cũng rất yêu
dì Sally nên ông đã liều lĩnh mong có người làm gì đó để hoặc bắt ông
chui ra khỏi vỏ ốc của mình - dượng coi như mình không còn lựa chọn nào
khác – hoặc sẽ làm cho dì Sally tỉnh trí lại.
Tôi chả quan tâm ai sẽ phải nhúc nhích trước. Tôi đang vội, thời hạn cuối thì sắp hết rồi, còn tôi thì tuyệt vọng đây.
Chúng tôi bước vào một chỗ xoàng xĩnh,
nơi đồ đạc chất đống từ ngoài vào trong. Chuông cửa tự động reo lên lúc
chúng tôi bước vào, báo cho Ngài Potts, chủ cửa hàng, biết là ai đó
đang ở đây. Ông ta thò đầu ra khỏi căn phòng nhỏ phía sau, nơi màông ta
làm tất cả mọi công việc của mình.
“Tôi ở đằng sau này! Oh, xin chào, cô
Mallory!” Ông ta tiến thẳng về phía chúng tôi, lau hai bàn tay vào một
cái giẻ lau. Tôi chỉ mới mua một cái bàn làm việc ở đây và trò chuyện
với ông ta một lúc, thế mà ông ta đã nhớ tên tôi. Vẻ hơi bối rối hiện
trên khuôn mặt của ông. “Trông cô khác quá.”
“Do mái tóc đấy.” Tôi trả lời cụt ngủn,
lúc lắc đầu để cho tóc bung lên. Người đàn ông gặp tôi có đúng một lần
đã nhận ra mái tóc cắt ngắn của tôi -- ờ, cũng nhận ra phần nào thôi –
còn Wyatt thì không. Trái tim tôi lại nhức nhối. Tôi gạt mọi suy nghĩ
về Wyatt đi và tập trung vào vấn đề ngay trước mắt là giới thiệu
dượng Jazz và Ngài Potts với nhau. “
Tôi hướng ông ta về mục đích ban đầu
để ông ta tỉnh trí. “Chắc rồi, quay lại nào. Tôi đang tân trang lại
cái bàn sắt cổ tuyệt đẹpnày, nhưng tôi nói cho cô nghe là thật bực mình. Tôi mất cả 60 giờ đồng hồ mà chỉ tẩy được lớp sơn cũ của nó đi. Tôi
chả hiểu tại sao người ta lại phải sơn một vật bé tẹo như thế này nhỉ. “ Ông ta bình luận liếng thoắng trong lúc dẫn chúng tôi về phòng làm việc của ông ta.
Phòng làm việc còn lộn xộn hơn nhưng đủ
ánh sáng, với các cửa sổ lớn đều hai bên. Ông ta mở hết các cửa để thông gió, và cóthêm một quạt hút lớn phía trên mái. Mùi ôi mốc tỏa khắp nơi. Sàn nhà phủ bằng một lớp vải dầu dày; lớp vải trải sàn tự thành
một kiểu sưu tập theo kiểu Neimanesque các vệt bẩn và vệt sơn văng tung
tóe. Ở giữa sàn là một món hàng không thể nào mà đoán nổi, một cái bàn
bằng gỗ gụ hai cánh cao 8 foot có hoa văn trang trí cuộn lên xuống phức
tạp ở hai bên cánh và quanhkhung.
Dượng Jazz nhìn soi mói vào cái tủ to tướng. “Ông nói là ông đã mất bao nhiêu giờ để tân trang lại cái này?”
“Khoảng 60 giờ. Vật này là một tác phẩm
nghệ thuật đấy.” Ngài Potts lấy tay miết vào bề mặt gỗ một cách trìu
mến. “Nhìn vào hoa văn trang trí này xem. Cái này tân trang khó hơn,
vì cô phải cạo hết sơn và lớp vecni ra khỏi các kẽ, nhưng cái giá phải
trả cho nó cũng xứng đáng. Người ta không còn sản xuất những thứ như thế này nữa đâu.”
“ Mất bao lâu ông mới hoàn thành nó?”
“Không nói trước được. Khoảng hai tuần. Cạo hết những lớp sơn cũ này mà không tổn hại đến lớp gỗ bên trong mới khó.”
Dượng Jazz lượn vòng quanh cái tủ, hỏi
thêm vài câu nữa rồi chuyển sang những đồ vật nhỏ hơn trong phòng làm
việc, hầu hết trong số chúng đang trong những giai đoạn phục chế khác
nhau. Tất cả những gì dượng Jazz biết về đồ cổ, phục chế, và đồ đạc
trong nhà nói chung hoàn toàn là con số không – ngoài việc bạn ngồi lên
ghế, ngủ trên giường, và đại loại thế - nên Ngài Potts có thể giải
thích cặn kẽ thêm cho dượng Jazz. Lúc dượng nghe được là cái tủ đã
279 năm tuổi. dượng quay phắt lại và chiếu cái nhìn kinh ngạc. “Cái này
từ lúc George Washington sinh ra đấy à.”
Tôi hiểu biết được nhiều thứ trong cuộc
đời tôi, nhưng cái năm mà George Washington ra đời thì không hề nằm
trong số đó. Ngài Potts dẫu vậy cũng không thèm nháy mắt. “Chắc rồi. Ông có biết dòng họ Evers không?’’
Cả Jazz lẫn tôi đều lắc đầu.
“Cái này đã trải qua nhiều thế hệ. rồi.
Emily Tylo thừa kế nó từ bà ngoại…” Ông ta bắt đầu giải thích làm
thế nào mà cái tủ lại yên vị ở ngôi nhà hiện thời của Emily Tylo, dẫu là ai cũng thế cả thôi.
Cuối cùng dượng Jazz tập trung vào thứ mà dượng quan tâm tới nhất. “Cái này đáng giá bao nhiêu?”
Ngài Potts lắc đầu. “Không biết, vì nó
không để bán. Tôi không biết món đồ cổ này có giá trị bao nhiêu, song
Emlily Tylo cũng định giá nó kha khá vì nó từ đời bà cô ta. Nếu tôi bán, sẽ không dưới 5000 đô, vừa đủ cho những giờ làm việc mà tôi phải mất
công sức vào với nó.”
Tôi đoán được con số hình thành trong
đầu dượng Jazz. Năm ngàn! Không có gì thu hút sự chú ý của một thương
gia bằng những con số không. Nhiệm vụ đã hoàn thành. Phần khó khăn hiện
giờ là kéo dượng ra khỏi Ngài Potts, người bất ngờ chộp được một khán
giả đầy hứng thú đến như vậy. Cuối cùng tôi đành phải túm lấy tay
dượng Jazz và lôi ông thẳng ra phía cửa.
“Cám ơn Ngài Potts nhé, chúng tôi làm phiền ông đủ rồi.” tôi nói với qua vai.
Ông ta vẫy tay chào tạm biệt và quay lại làm nốt công việc với cái tủ gỗ của mình.
Dượng Jazz không im lặng nữa. Dượng biết đích xác lý do tôi đưa dượng tới chỗ của ngài Potts. Lúc chúng tôi ra
chỗ để xe, ông lên tiếng..” Đó thật sự là một người đàn ông tinh tế.”
Tôi không nói gì cả, phần vì dượng đã
tự mình khám phá ra sự việc một cách đúng đắn. “Ta không có khái niệm gì về công việc phục chế tốn thời gian đến thế nào.” Dượng lầm bẩm. “Sally luôn chuyển đồ xuống tầng hầm để làm việc, vì thế ta chưa bao giờ chú ý đến chuyện đó. Dù vậy bà ấy có vẻ không làm việc nhiều.”
“Đó là vì dì không làm việc trong lúc
dượng ở nhà. Dì hay nói là dì thích dành thời gian cho dượng hơn.”
Muối mặn tốt cho những vết thương. Giữ cho chúng khỏi mưng mủ và nhiễm
trùng.
Dượng cau mày nhìn ra ngoài cửa sổ xe
cả vài phút đồng hồ. Chúng tôi đã gần về tới văn phòng của dượng
thì dượng mới lên tiếng. “ Bà ấy yêu những món đồ cổ đó, phải không?”
“Đúng. Dì đã mất nhiều tháng để tìm từng món đồ tốt nhất.”
Đôi môi dượng mấp máy rồi mím chặt lại. Sau khi nuốt khan vài lần dượng mới lên tiếng. “Ta đoán cháu nghĩ ta nên xin lỗi.”
“KHông.”
Dượng liếc sang tôi với cái nhìn đầy ngạc nhiên. “Cháu không ư?”
“Trước đây thôi. Giờ thì không. Giờ cháu nghĩ dì ấy nên phải xin lỗi dượng trước. Rồi dượng sẽ xin lỗi dì sau.”
Thôi được, tôi cũng đang phải ngạc nhiên với chính bản thân mình đây.
Nhưng đó là sự thật. Jazz đã mắc sai lầm vì thiếu quan tâm đến vợ,
rồilại mắc sai lầm vì thiếu hiểu biết, nhưng dượng không cố ý làm
tổn thương dì. Sally đã chủ tâm đâm xe vào dượng. Wyatt đã đúng; đó
là hai sai lầm hoàn toàn khác nhau. Tình cảm bị tổn thương không đánh
đồng với tổn thương về mặt thể xác.
Mặt khác, tôi thà chống chọi với vết
thương ở đầu còn hơn là phải chịu đựng cảm giác hiện thời, như thể mọi
thứ đang đảo lộn xung quanh tôi còn tôi thì rơi tự do thẳng tuột từ trên cao xuống dưới đất vậy. Nỗi thất vọng hiển hiện thật rõ ràng. Tôi sẽ
không chết vì suy sụp nếu tôi và Wyatt chia tay nhau. Tôi sẽ không bỏ bê công việc của mình, tôi sẽ không trở thành một nữ tu; tôi giữ thái độ
kịch sĩ của mình với những việc ít quan trọng hơn, ví như việc tiếp
tục cuộc sống như trước kia của mình, thôi được, làchuyện khá quan trọng với tôi, chứ không phải chuyện sống hay chết. Nhưng thiếu anh tôi sẽ
không còn hạnh phúc, và có thể sẽ chẳng cảm thấy hạnh phúc nữa trong một thời gian rất dài.
Ngay lúc này đây tôi không thể làm gì trong chuyện đó, nhưng tôi sẽ tiếp tục hàn gắn cho dì Sally và dượng Jazz.
Tôi đỗ xe trước khu văn phòng của dượng
và chúng tôi ngồi im lặng ngắm nhìn nó. “ Đôi chỗ cần sửa chữa.”
cuối cùng tôi lên tiếng.
Dượng trao cho tôi cái nhìn trống rỗng, chả hiểu mô tê gì hết.
“Tòa nhà ấy,” Tôi cố giải thích thấu
đáo. “Nó giống như một cái hộp bé tí xấu xí dựng ngay ở kia. Dượng
cần phải trang hoàng lại. Và vì chúa, hãy tống khứ cái ghế dài ấy đi.”
***
Tôi có thể còn làm hơn nữa trong một
ngày, cả buổi sáng hầu như đã trôi qua. Tôi cố gắng tìm gặp Monica
Stevens, và dừng lại ở Sticks and Stones.
Giống y như tôi tả, thủy tinh và thép
là tính cách của cô ta, và cô ta là một chuyên gia trang trí được yêu
thích. Tôi không côngnhận, nhưng rồi tôi phải thế. Sticks and Stones,
hiển nhiên là được décor theo phong cách riêng của cô ta. Tôi bước vào
vàdừng lại, dành thời gian để tránh rùng mình trước khi tôi thực sự
bắt chuyện với ai đó.
Một người phụ nữ độ tuổi 40 trang nhã, gầy như cái que nhìn lướt qua tôi. “Tôi giúp gì được cô?”
Tôi nở nụ cười hết cỡ của một đội
trưởng đội cổ vũ ra với bà ta. “Xin chào, tôi là Blair Mallory, chủ
trung tâm thể hình Great Bods. Tôi muốn nói gặp Cô Stevens, nếu cô ấy
rảnh.”
“Rất lấy làm tiếc, nhưng cô ấy ra ngoài có việc rồi. Tôi nhắn cô ấy gọi lại cho cô được không?”
“Xin vui lòng.” Tôi đưa cho bà ta card
visit của mình và rời đi, đây chẳng còn gì để làm cho đến khi tôi nói
chuyện được với chínhMonica, và vì cô ta ko có mặt ở đây nên giờ tôi
phải ăn trưa, và trả lời vài cuộc điện thoại.
Tôi ăn trưa trước, theo lý thuyết thì
nếu mà tôi nói chuyện với Wyatt trước khi ăn thì tôi sẽ chả còn nuốt
nổi nữa. Nếu tôi buồn, tôisẽ phải mạnh mẽ lên. Khi quay trở lại xe, tôi
ngồi im trong bãi đỗ và gọi cho mẹ – phải, tôi đang trì hoãn. Rồi đến
Roberta. Mẹthông báo rằng cuối cùng mẹ cũng tóm được một thợ làm bánh
cưới và đang thương lượng một thỏa thuận khẩn cấp với cô ta. Roberta báo là hoa đã sẵn sàng, bà có một người bạn bán hoa tươi có thể sắp
xếp thời gian rảnh để giúp tôi, còn tôi cần phốihợp với người bạn đó để
kết bó hoa cưới theo đúng ý mình.
Tôi gần như òa khóc khi kết thúc cuộc
nói chuyện với cả hai người, vì tôi không biết liệu đám cưới có còn
diễn ra nữa hay không, nhưng tôi phải giả vờ là mọi thứ vẫn đang diễn ra trôi chảy. Tôi không cho phép mình òa khóc vì tôi không muốn mũi mình
đỏ lên, vì nếu nó đỏ lúc tôi nói chuyện với Wyatt, anh sẽ biết là tôi
khóc, nhưng… thôi đừng bận tâm. Rắc rối quá.
Tôi hy vọng là anh đừng nhấc máy. Tôi
ước anh đang họp với Đội trưởng Gray, hay với ngài thị trưởng và tắt
máy điện thoại, trừ việc tôi biết anh không bao giờ tắt máy, anh chỉ
để chế độ rung mà thôi. Thế nên sau đó tôi ước anh để rơi máy trong nhà
vệ sinh. Rõ ràng là tôi không ngừng lần lữa nghĩ về chuyện tối hôm
trước.
Nhưng tôi vẫn gọi cho anh. Đến tiếng chuông thứ ba, tôi càng hy vọng là anh không trả lời. Thế rồi anh nhấc máy.
“Blair.”
Tôi đã dự tính phần nào những điều tôi
sẽ nói, nhưng khi tôi nghe thấy giọng của anh tôi quên tiệt hết ý
định của mình. Thế là tôimở miệng thốt lên một từ hoàn toàn mừng
rỡ. “Wyatt.”
Anh trả lời lạnh nhạt. “Giờ chúng ta có vài quan điểm chung, chúng ta cần nói chuyện.”
“Em không muốn nói chuyện. Em chưa sẵn sàng thảo luận. Em vẫn còn đang suy nghĩ.”
“Anh sẽ ở chỗ em khi em hết giờ làm việc.” Anh kết thúc cuộc gọi đột ngột như lúc anh nhận điện vậy.
“Gã ngốc này!” tôi thét lên, cơn thịnh
nộ bất ngờ dâng lên, và tôi ném phịch cái điện thoại vào ngăn kéo xe
ô tô, dĩ nhiên là chẳnggiải quyết được gì vì đằng nào tôi cũng phải moi
ra. Thật tốt khi có một thân hình mềm dẻo, vì chiếc xe này quả là nhỏ.
Tôi chưa muốn nói chuyện với anh. Còn
bốn điều còn lại mà tôi chưa xem xét xem chúng nghiêm trọng đến cỡ nào.
Việc tôi sợ nhất là Wyatt sẽ thuyết phục tôi bỏ qua cuộc chiến này
và tiếp tục mối quan hệ, rồi sau đó những vấn đề lớn hơn sẽ hạ gục cả
hai chúng tôi. Anh đủ khả năng thuyết phục tôi, vì tôi yêu anh. CÒn anh
sẽ muốn thuyết phục tôi vì anh cũng yêu tôi.
Đó là điều làm tôi phiền muộn. Kể từ
lần đầu tiên tôi nhận ra Wyatt yêu tôi – tôi đã ngay lập tức hiểu mình
đem lòng yêu Wyatt, gã ngốc này – tôi cực nghi ngờ là chúng tôi có thể
tổ chức được đám cưới.
Tình yêu không thôi thì chưa đủ; và
không bao giờ đủ. Còn có rất nhiều điều khác nữa, ví dụ như sự quý
mến và sự tôn trong lẫnnhau; hoặc tình yêu sẽ mòn đi bởi những thực tế
của cuộc sống hàng ngày. Tôi yêu Wyatt. Tôi tôn thờ anh, thậm chí cả
những việc khiến tôi phát rồ lên, ví như là nỗ lực giành chiến thắng đã
biến anh thành một cầu thủ giỏi và trở thành một nét riêng trong tính
cách của anh. Wyatt đủ mạnh mẽ tôi không phải gò ép bản thân mình; anh
có thể giành lại bất cứ thứ gì mà tôi ném vào anh.
Một trong những việc mà tôi chưa giải
quyết xong đột nhiên hiện lên ngay trước mặt tôi: Wyatt có thể chẳng
muốn nhận lấy bất cứ thứ gì mà tôi ném vào anh.
Hai năm trước anh đã bước ra khỏi cuộc
đời tôi chỉ sau ba cuộc hẹn hò vì anh quyết định là tôi quá hợm hĩnh khó chiều - điều đó không đáng để anh dính vào rắc rối. Khi Nicole Goodwin
bị giết hai tháng trước trong bãi đỗ xe của tôi và trong phút giây anh
nghĩ tôi mới chính là nạn nhân, anh đã buộc phải thừa nhận rằng những gì đang diễn ra giữa hai chúng tôi là một sự cá biệt chết dẫm, giống
như điện giật vậy. Thế nên anh đã quay lại và thuyết phục tôi rằng
anh yêu tôi, và chúng tôi không xa rời nhau từ lúc đó – nhưng – lại là
một chữ “nhưng”.
Tôi không thay đổi. Tôi vẫn hợm hĩnh khó chiều như tôi đã luôn như thế.
Anh cũng chẳng hề thay đổi. Chúng tôi
thỏa hiệp một số điều, chúng tôi thích nghi bằng nhiều cách, nhưng về cơ bản chúng tôi vẫn giống như chúng tôi của hai năm trước, khi tôi không
đáng để anh phải dính vào. TRong vòng hai tháng vừa qua, điều mà tôi đã
thấy như một niềm vui tuyệt diệu, có lẽ anh chỉ đang cảm thấy nhẫn nại.
Hiển nhiên có quá nhiều điều về tôi mà
anh hoặc là không biết, hoặc là không hề thích thú gì. Và việc đối
mặt với chuyện này đang làm trái tim tôi tan vỡ.