Quỷ Sứ kế thừa pháp thuật của bà La Sát, hơn nữa A Âm được Trúc Hàn che chở nên không bị thương quá nhiều. Luồng Phật quang kia thực sự quá chói mắt, đến quỷ Âm Ma La cũng phải nhượng bộ lui binh.
Hắn quở trách: “Ngươi tự xem mình giờ là kẻ không sợ trời không sợ đất rồi sao? Lần này thì hay rồi, lại đi gây sự với Thành Thiện, dồn tiểu hòa thượng đến chùa Tây Minh, ngươi hài lòng chưa?”
A Âm vẫn giống như đang bị vây khốn giữa luồng sáng lóa mắt, không thể di chuyển kia, nàng cúi đầu ôm gối, tràn ngập sầu bi. Quỷ Sứ giơ tay giật giật ống tay áo của nàng, xác định không nổi ban đỏ mới dịu giọng xuống: “Quả thực quỷ có thể ung dung ra vào chùa miếu nhưng điều kiện tiên quyết là không được can thiệp vào chuyện của nhau. Trụ trì không thả Trúc Hàn thì ngươi cứ chờ là được, đằng này lại xem Thành Thiện là một con quỷ, đánh nhau cãi lộn với ông ta làm gì? Định giống như ở nước La Sát sao?”
Nàng không nói một lời, im lặng rơi lệ, bị Quỷ Sứ lau đi.
“Ngươi nói gì đi, biết sai rồi hả?”
“Biết sai rồi.”
Tốt, biết sai là tốt. Hắn thật sự xem A Âm như em gái ruột, định đi kiếm chút âm khí cho nàng bồi bổ nhưng không ngờ, từ trong rừng quay lại quán rượu chỉ mất một lát mà không thấy A Âm đâu nữa. Hắn giận nhưng vẫn tin nàng sẽ không đến chùa Bàn Nhược nữa.
A Âm đến Âm phủ.
Đầu tiên nàng lật xem danh sách câu hồn trong sách quỷ của mình, xác nhận trước đêm trừ tịch không có hai chữ “Thành Thiện”, nàng quyết định di tìm Thôi phán quan xem Sổ Sinh Tử. Nàng chỉ mất năm trăm năm đã thành hình nhờ chấp niệm, lại đi La Sát xa xôi mười năm vì chấp niệm làm người, bây giờ ngoài tiểu hòa thượng ra thì còn có thêm một chấp niệm ngắn ngủi khác, đó là khi nào pháp sư Thành Thiện mới viên tịch.
Nàng muốn tự tay câu hồn ông ta, đưa ông ta vào Quỷ Môn Quan, đi qua suối Hoàng Tuyền, lại dõi mắt nhìn ông ta uống canh Mạnh Bà, qua cầu Nại Hà. Phật gia giảng sáu đường luân hồi, xem những con quỷ như A Âm và Quỷ Sứ là ác quỷ, vậy thì kiếp sau Thành Thiện bị đọa vào cõi Súc Sinh mới là tốt nhất.
Nói A Âm xấu đúng là xấu, nói A Âm khờ đúng là khờ. Thực tế thì ngàn vạn thiện nam tín nữ trên thế gian này đều vậy, rất dễ vì yêu sinh hận, muốn tất cả người ngăn cản tình yêu của mình đều chết không yên thân.
Bây giờ Âm Ti đang thiếu người làm việc, Thôi Giác bận bịu không có thời gian viết Sổ Sinh Tử nhưng không muốn cho A âm xem bảo bối của mình, chỉ nói thẳng, “Sống chết có số, không thể tiết lộ thời gian trước được.”
Nàng ở lại Âm Ti chép số mệnh cho ông ta cả đêm, lúc đầu Thôi Giác không yên tâm, đứng bên cạnh xem nàng viết, còn khen ngợi vài câu, “Chữ viết không tệ lắm.”
A Âm nghĩ thầm, còn không phải do chữ của công xấu quá sao, chữ của ta cũng chỉ xem là dễ nhìn thôi, nhưng ngoài mặt nàng cười nói, “Vẫn kém xa chữ của Thôi phán quan, không bằng chữ viết rồng bay phượng múa của ngài, vừa mạnh mẽ có thần lại vừa mềm mại, đến Âu Dương Tuân và Ngu Thế Nam cũng kém cạnh đôi phần.”
Thôi Giác cười đến mức râu mép sắp lệch, “Giá mà lần trước ngươi trộm pháp khí của ta, nếu hôm đó ngươi không bắt được Ngũ Thông thì Chung Quỳ đã ném người vào Địa Ngục thăm quan mấy ngày rồi.”
Không phải Sổ Sinh Tử này của ngài cũng là “pháp khí” à, A Âm nghĩ thầm.
Rốt cục đến nửa đêm ông ta đi vào phòng ngủ nghỉ ngơi, A Âm nhìn lén tờ giấy viết tên Thành Thiện, thấy mấy chữ “Chín mươi tuổi tròn, thọ đến cuối đời” to đùng thì tức đến độ suýt ngất đi. Đúng lúc đó Quỷ Sứ chạy đến, nàng quăng bút cho hắn, nói mình phải nhân lúc trời chưa sáng đến gặp tiểu hòa thượng ngày nhớ đêm mong một lần.
Người đàn ông áo xanh giận tím mặt, lại không thể la hét ở Âm Ti, chỉ có thể chịu đựng nàng thấy sắc quên bạn, vứt bỏ mình không thèm để ý.
Nàng tạt qua chùa Bàn Nhược, trong chùa yên tĩnh đến độ có thể nghe thấy tiếng tuyết tan. Phòng nghỉ của Trúc Hàn tối đen như mực, ánh trăng mờ mịt, có mây đen kéo qua.
Bảo bối Trúc Hàn của nàng ngoan đến mức không thể ngoan hơn, chàng nằm ngang, hai tay đặt nghiêm chỉnh bên người, chăn đắp đến nách. A Âm khẽ sờ soạng người chàng, thấy tay chàng hơi lạnh liền nhét tay chàng vào trong rồi kéo chăn lên. Chàng mẫn cảm, vì hành động nhỏ này mà nhíu mày. Nàng ngừng tay, cũng không dám kề sát quá, chỉ ghé vào bên giường, say sưa ngắm nhìn gương mặt chàng lúc ngủ.
Lúc này trong lòng nàng cảm thấy rất thỏa mãn.
Nàng mơ màng thiếp đi một lát. Quỷ rất nhạy cảm với với ánh sáng, vậy nên trời vừa sáng nàng đã tỉnh. Nàng lặng lẽ đặt một nụ hôn lên trán tiểu hòa thượng rồi lặng lẽ tan biến trong chùa Bàn Nhược, phảng phất như trời vừa sáng, tất cả mọi chuyện đều bị ánh trăng cuốn đi, không để lại dấu vết.
Ngày hôm sau, ngày hai mươi tháng Chạp, Trúc Hàn lại một mình đến thành Trường An, bước vào chùa Tây Minh, được trụ trì và sư huynh đạp tuyết đưa tiễn. Thành Thiện trầm ngâm nhìn chàng bước xuống từng bậc thang, cuối cùng trở nên mơ hồ giữa gió tuyết bay bay.
Trong rừng, A Âm và Quỷ Sứ đứng trước cửa sổ ở lầu hai của quán rượu, nhìn bóng lưng quen thuộc dần đi xe, vẻ mặt nặng nề.
Dưới lầu đã kín khách, mọi ngươi đang ồn ào nâng cốc chúc mừng, trên lầu lại yên tĩnh có phần thê lương giống như không khí trong rừng.
Quỷ Sứ hỏi: “Không đi cùng hắn sao?”
A Âm lắc đầu, “Bây giờ ta bắt chàng đi được chứ?”
“Được.”
“Như thế không hay lắm.” Lần này đổi thành nàng trách cứ hắn.
Hắn không nhịn được khuyên bảo, “A Âm, đừng cố chấp nữa. Cả ngươi và ta đều biết, chuyện tình này không có kết quả.”
Nàng cười nhạt: “Vậy ngươi nói xem, phải làm sao mới có kết quả? Người đời tham lam, chuyện nào cũng mong được viên mãn, ta thì khác. Bây giờ trong lòng cả ta và chàng đều có nhau, đây mới là kết quả tốt nhất.”
“Hắn có pháp lý không thay đổi được, ngươi có dã tính khó thuần của ngươi, huống hồ còn có người bên cạnh cản trở, cho dù…”
“Không phải ta thay đổi rồi sao? A Dược, bất kể là người hay quỷ đều sẽ thay đổi. Chàng vĩnh viễn không sai, vậy nên ta nghe lời chàng.”
Quỷ Sứ hoàn toàn im lặng, chỉ cảm thấy nàng càng lúc càng không giống dáng vẻ mà quỷ nên có. Hắn chợt nghĩ đến, tình thâm bất thọ, cường cực tắc nhục*, quá trầm mê cố chấp rồi sẽ có ngày bị phản phệ.
Câu này có nghĩa là mối tình sâu đậm thường không kéo dài, người nào yêu nhiều hơn sẽ chịu tổn thương nhiều hơn.
Đúng lúc ấy, người làm trong quán gõ cửa thùng thùng, “Chướng Nguyệt công tử đến.”
Ngày hôm ấy tuyết lớn bay đầy trời, là một ngày đẹp để uống rượu. Trong quán rượu vô danh nằm giữa rừng, trên chiếc bàn đặc biệt nhất có ba con quỷ hình người đang ngồi, một vị nương tử xinh đẹp yêu kiều, hai vị lang quân tuấn tú. Bọn họ mặc quần áo hoa lệ, nâng ly cạn chén, những lời ra khỏi miệng cũng không phải ngôn ngữ ở đây, tạo thành cảnh tượng xa hoa lãng phí mà quỷ dị.
Người ngồi bàn bên cạnh cảm thán hoàn cảnh sống ở Đại Đường đúng là rất tốt, là nơi mà nhiều người ngoại bang dị vực mong mỏi đặt chân đến.
A Âm say, nàng cũng không biết mình đã ngã vào lòng ai, nghẹn ngào nói, “Tối nay ta sẽ không đi tìm chàng… Thật sự tối nay ta sẽ không đi tìm chàng…”
Nàng cảm thấy tủi thân đồng thời lại oán trách chính mình, nhất thời cảm xúc ngổn ngang trăm mối, lòng dạ rối như tơ vò, bối rối không biết phải làm sao. Nhưng đây chẳng phải là dáng vẻ bình thường của chúng sinh sao?
Chướng Nguyệt không có biểu cảm gì, vuốt ve gương mặt của người trong lòng, bị Quỷ Sứ vội vàng vươn tay đẩy ra. Nhưng A Âm lại cầm bàn tay ấy, dán vào mặt mình cọ cọ. Trong lòng hai người họ đều biết rõ hành động này của nàng là thế nào. Quỷ Sứ hết cách đành phải đứng dậy, mạnh mẽ kéo nàng ôm lên lầu, miệng còn làu bàu mấy câu bằng tiếng quỷ.
Tuyết vẫn đang rơi, A Âm say giấc trong chăn ấm, Trúc Hàn vượt gió lạnh lên đường, Quỷ Sứ và Chướng Nguyệt vẫn đang uống rượu dưới lầu.
Đêm xuống, một vạt áo xám biến mất ở hành lang trong chùa Tây Minh.
Cuối cùng nàng vẫn đến.
Ở trong phòng, Trúc Hàn ngồi ngay ngắn trên giường, tay cầm cuốn sách toàn là chữ Phạn mà nửa chữ A Âm cũng không biết. Nàng gối đầu lên đầu gối chàng, nắm lấy một bàn tay khác, nhìn vân tay dày đặc trên tay chàng, cả căn phòng tràn ngập dịu dàng, không ai nói một lời.
Bỗng nhiên chàng cảm thấy nhoi nhói, hóa ra là A Âm cắn tay chàng một cái, bên trên để lại một dấu răng nhàn nhạt và cả một ít nước bọt.
Tiểu hòa thượng cau mày hỏi, “Nàng làm gì thế?”
Gương mặt A Âm rạng rỡ, “Trừng phạt chàng.”
Chàng khẽ thở dài, “Vậy ta nên trừng phạt nàng thế nào? Nàng làm việc lỗ mãng, xem như đã giúp đỡ sư phụ ép ta đến chùa Tây Minh.”
Nàng dịch người ngả vào vai chàng, trong lúc di chuyển váy bị kéo lên, Trúc Hàn lặng lẽ giơ tay kéo xuống cho nàng.
“Ta làm bậy nhưng cũng do chàng không cho ta đánh ông ấy. Ta cứ tưởng nói là xong, đâu tính ra tay, sao ông ta còn lấy pháp khí ra? Bát Vàng kia chiếu vào người làm ta đau đầu, đầu óc không được tỉnh táo.”
“Bát Vàng là vật mà Phật Tổ để lại, đã là bảo vật trấn chùa thì ắt có chỗ huyền diệu.” Nàng gối đầu vào người chàng nhưng không ngoan ngoãn mà nhích tới nhích lui. Trúc Hàn bỗng ngừng nói, ngượng ngùng vì cảm nhận được nơi mềm mại ấy, “Nàng đừng xoay lung tung nữa.”
“Quan Trừng ngốc, bây giờ chàng đã đến chùa Tây Minh, tóm lại là chàng phụ ta.”
Chàng đặt kinh thư xuống, nghiêm túc nhìn nàng, “Ta không phụ nàng.”
“Vậy bao giờ chàng mới đi cùng ta?”
“Sư phụ muốn ta đến chùa Tây Minh, để sư trụ trì dẫn dắt tiến vào chùa Đại Hưng Thiện, nhưng ta sẽ không đi, nàng cũng đừng gây chuyện thêm nữa. Kinh Kim Cương là Mật tông Phật pháp đại thành, ta không thể làm việc qua loa. Đợi dịch xong ta sẽ về chùa Bàn Nhược từ biệt sư phụ.”
A Âm giơ tay vuốt ve khóe mắt đuôi mày của chàng, ánh mắt phức tạp. Nàng chỉ thấy bây giờ cảm xúc của chàng rất phức tạp, trong lòng cũng đang vướng mắc khó xử, nàng không muốn chàng mệt mỏi như thế nhưng lại không thể làm gì.
Nếu như A Âm chưa từng về tìm chàng, lúc này chàng vẫn là tiểu hòa thượng một lòng hướng Phật, nhiều nhất chỉ thỉnh thoảng nhớ lại giọng nói thê lương của quỷ Âm Ma La vào đêm khuya mà thôi. Mười năm không hiểu, hai mươi năm sẽ tự giải thoát.
Bây giờ, nàng tủi thân khó chịu nhưng lại nghĩ đến chàng cũng đang khó xử, chàng cũng đâu dễ chịu hơn nàng. Làm quỷ tự do hơn làm người đôi chút, bởi vậy mà đối với hoàn cảnh trước mắt lại càng không cam lòng.
Khi đó A Âm nghĩ thầm: mọi chuyện phải từ từ, nhưng rồi sẽ tốt lên. Không phải bà lão tập tễnh đi ngang qua rừng cũng nói vậy sao?
Giữa lúc buồn ngủ, Trúc Hàn mở miệng, giọng nói trầm thấp vững vàng, A Âm cảm thấy giọng nói ấy như cái quan tài nàng thường nằm, giúp nàng ổn định tinh thần, cảm thấy đại thiên thế giới hay là hồng trần cuồn cuộn chẳng khác gì nhau. Mà đã rất lâu rồi nàng không ngủ trong quan tài, tất nhiên là vì bây giờ nàng đã có chỗ ở mới, không khí mà nàng hít thở tràn ngập mùi đàn hương làm say lòng người.
Trên đời này, cũng chỉ có một mình A Âm nói mùi đàn hương làm say lòng người mà thôi.
“Sắp đến Giao thừa, bởi vì trong chùa đang tập trung dịch kinh nên không đón khách hành hương. Chỉ có vào ngày Tết Thượng Nguyên, thánh nhân muốn cả thành Trường An cùng chúc mừng, trụ trì cũng đồng ý cho chúng tăng ra ngoài ngắm đèn.”
A Âm từ từ nhắm mắt lại, vô thức cọ cọ ống tay áo của chàng, đáp lời chàng câu được câu không, “Hửm?”
“Mọi người đều muốn đến chùa Đại Hưng Thiện hoặc đài hoa và lầu gác xem náo nhiệt nhưng ta không muốn. Ta muốn cùng nàng đi dạo chợ ngắm đèn hoa, có được không?”
…
“Nàng không lên tiếng, ta xem như nàng đã đồng ý.”
“A Âm, năm tháng sau này ta sẽ cùng nàng ngắm đèn hoa đăng trên đường Chu Tước ở Trường An.”
Khi ấy ánh trăng vừa vặn, tuyết và mây vừa khéo tôn nhau lên.
Giữa đêm khuya đôi tình nhân thân mật với nhau, rất tin tưởng bình yên mãi mãi.