Lúc Mạc Lăng Tiêu mặc kiện áo giáp cuối cùng vào thì thị vệ bẩm báo có Tần Thiên Sinh cầu kiến.
Kỳ thật Mạc Lăng Tiêu trong lòng hiểu rõ, giấu ai cũng sẽ không giấu được Tần Thiên Sinh. Hắn vốn là phi tặc trên giang hồ, dù hắn không mang Trữ Hạ đi được nhưng cũng không thể lừa dối hắn.
Mạc Lăng Tiêu vuốt vuốt chiếc nhẫn trên ngón út, nhàn nhạt nhìn bảo kiếm trước mặt, nói: “Trẫm muốn đi dẹp phản loạn ở thành Kính An, mong Tần công tử đồng ý.”
Tần Thiên Sinh nhìn hắn, hỏi: “Nói đi, nàng ở đâu?”
Mạc Lăng Tiêu nhìn thẳng vào mắt hắn, cười khẽ: “Nàng tới thành Kính An rồi.”
Tần Thiên Sinh sững sờ nhìn hắn, sau nửa ngày mới lạnh lùng hỏi lại: “Thành Kính An sao?”
Ai cũng biết thành Kính An hiện đang bị vây khốn, là nơi hỗn loạn nhất ở Hán Thống.
“Nàng trốn trong đội vận chuyển quân lương ra ngoài, trẫm đã nhận được báo cáo, nói trên một chiếc xe ngựa phát hiện lương thảo lộn xộn, còn có lương khô bị bỏ lại… Việc này, ngoại trừ nàng liệu còn có thể do ai làm ra chứ?” Nói xong lời này, Mạc Lăng Tiêu cười nhạo một cái.
“Nàng quả thực là…” Tần Thiên Sinh thật sự có cảm giác muốn giết người.
Mạc Lăng Tiêu lạnh nhạt liếc nhìn hắn, nói tiếp: “Còn tưởng rằng ngươi phải lo cho an nguy của Lôi đại nhân hơn chứ?”
Tần Thiên Sinh cười: “Ngươi cho rằng hắn rời khỏi thành Tử Du là sẽ có chuyện sao? Buồn cười! Nếu như Lôi Nhược Nguyệt muốn thì đoạt lấy thiên hạ này chẳng khác gì lấy đồ trong túi cả. Ngươi cho rằng hắn dựa vào cái gì có thể trong một đêm lật đổ cả một vương triều? Trong thiên hạ này, người có thể động vào hắn còn chưa xuất hiện.”
Nói xong lời này, Tần Thiên Sinh dường như đang rất phẫn nộ, cả người run lên.
Trong thiên hạ, ngoại trừ nàng, đúng là không ai có thể động vào hắn… Thế nhưng mà ngoại trừ nàng…
Cũng chỉ có nàng. Sẽ chỉ là nàng…
Lôi Nhược Nguyệt ném đi cả thiên hạ chỉ để đổi lấy một người, mà người này lại hết lần này tới lần khác làm tổn thương hắn. Hắn có thể trở thành một kẻ hèn mọn chỉ để đổi lấy một nụ cười của nàng, chuyện gì hắn cũng có thể làm vì nàng, dù cho đó là mạng của hắn.
Thật đúng là một sự châm chọc lớn vô cùng.
Tại biên cảnh phía nam Bang Thập có một trấn nhỏ, cách trấn hai mươi dặm có một cái hồ nhỏ, bên cạnh hồ nước có một biệt viện, trên hành lang biệt viện treo đèn lồng đỏ, bên trên đèn lồng viết một chữ “Lôi” màu đen theo lối chữ Khải.
Đây là biệt viện của Lôi gia, so với Lôi phủ ở kinh thành thì rất nhỏ, nhưng lại rất tinh tế và đẹp mắt. Giữa hồ có một đảo nhỏ, được nối liền với chính viện bởi chín nhịp cầu.
Đảo rất nhỏ, trên đó chỉ có ba gian phòng, một thư phòng, một gian phòng ngủ và một phòng khách.
Trong phòng khách có một cửa sổ rất lớn, màn trúc trên cửa sổ hiện tại bị vén lên, bệ cửa sổ rất thấp, nhìn ra phía ngoài có thể thấy một hồ sen tươi tốt.
Sau vài ngày ngồi xe, cuối cùng Lôi Nhược Nguyệt cũng tới được đây, bèn nói với xa phu nghỉ lại một đêm.
Ánh hoàng hôn màu hồng nhạt phủ lên toàn bộ đảo nhỏ, ngay cả màu nước cũng trở thành màu trời, yêu dị quỷ mị.
Trước mặt Lôi Nhược Nguyệt là một bộ dụng cụ pha trà, chén sứ màu trắng, bên trên điểm xuyết hoa đào đỏ. Hắn vừa pha một bình trà, ngồi trước cửa sổ, ngón tay dài sạch sẽ lướt qua chén trà màu trắng một vòng.
Thầy giáo nói, uống trà cũng phải có đạo.
Sau lưng truyền tới tiếng gió, sau đó là tiếng va chạm của binh khí “leng keng” rất chói tai.
Lôi Nhược Nguyệt nhấc chén trà lướt qua dưới mũi. Thầy giáo nói, uống trà trước phải thưởng hương. Thiết Quan Âm cực phẩm có mùi thơm nồng đậm thực hợp với lòng người.
Hắn ưa thích uống trà, chỉ có Hạ Trữ tới giờ vẫn không thể nào phân biệt được các loại trà. Có lần Hoàng Thượng thưởng cho thầy giáo một lon trà đại hồng bào cực phẩm, thầy giáo bừng bừng hứng khởi gọi bọn hắn tới cùng nhấm nháp. Đúng lúc thầy giáo trưng ra bộ mặt cực kỳ hưởng thụ thì Hạ Trữ ngây thơ một ngụm uống hết cả chén, sau đó còn nói: “Thật nóng quá đi, đợi nguội một chút uống không phải tốt hơn sao? Trà lạnh dễ uống.” Một câu này khiến cho thầy giáo tức run người.
Nghĩ tới đây, khóe miệng Lôi Nhược Nguyệt hơi cong lên, hoa đào màu đỏ trên chén chạm nhẹ vào môi hắn, hệt như một cánh bướm nhẹ nhàng đậu lại.
Âm thanh sau lưng càng lớn, xen lẫn tiếng gió là âm thanh của kiếm khí.
“Rầm!” Màn trúc bị cắt mất non nửa, một đầu dây thừng bị cắt, bên kia còn treo trên cửa sổ, màn trúc rủ xuống theo hình vòng cung.
Ánh trời chiều rọi vào, theo cánh rèm rơi xuống từng mảng bóng loang lổ, đỏ hồng như máu…
Tiếng đao kiếm cắt vào da thịt, máu tươi phun lên nửa mành trúc đang rủ xuống.
Lôi Nhược Nguyệt nhẹ nhàng nhấp một ngụm trà, mắt rủ xuống.
Nước trà sóng sánh màu vàng óng, trong suốt mà tinh khiết, màu sứ trắng thanh tịnh.
Mùi máu tanh xộc vào mũi. Sau lưng hắn là giết chóc, trước mặt hắn là hoàng hôn.
Chén trà thơm như bị mất vị, bị mùi máu tanh lấn át.
Lôi Nhược Nguyệt tiếc nuối nhìn chén trà, ngón tay nhẹ mơn trớn miệng chén, cuối cùng dừng lại trên hình in hoa đào, ngẩn ngơ nhìn về phía trước.
Thanh âm huyên náo sau lưng nhỏ dần, cuối cùng trở thành một mảnh yên tĩnh.
Lúc này hắn mới đứng lên, xoay người, không nhìn tới đám thi thể trên mặt đất, chỉ nhẹ giọng nói với thị vệ đang đứng thành một hàng sau lưng: “Xử lý sạch sẽ!”
Chén sứ màu trắng vẫn ở trong tay hắn, đóa hoa đào màu đỏ đẹp đến yêu dị.
Trà đã nguội, hắn uống hết trong một ngụm, khóe môi vểnh lên, khẽ mỉm cười.
Nàng nói không sai, trà lạnh uống cũng rất tuyệt.
Sau khi uống hết, hắn tiện tay quăng chiếc chén đi. Một tiếng vỡ thanh thúy vang lên, đóa hoa đào tan thành từng mảnh nhỏ.
Người hầu đứng ở đầu cầu cúi đầu, cung kính khom lưng, đợi Lôi Nhược Nguyệt đến gần mới dùng hai tay dâng lên một vật, nói: “Lôi đại nhân, vừa có tin của Tần công tử gửi bồ câu đưa tới.”
Lôi Nhược Nguyệt dừng lại, nhận lấy thư, chậm rãi rời đi.
Tần Thiên Sinh nói, công chúa Hạ Trữ đã tới thành Kính An, mà Mạc Lăng Tiêu cũng đem quân về trấn áp phản loạn. Khế Sa hiện tại không có động tĩnh gì, không biết A Mộc Đồ đang nghĩ gì.
Ngón tay Lôi Nhược Nguyệt nhẹ mơn trớn lên hai chữ “Hạ Trữ”, hắn cơ hồ có thể nghe được cả tiếng tim mình đang đập. Chỉ có hai chữ thôi mà đã khiến tim hắn đập nhanh như thế.
“Nghỉ ngơi một đêm, ngày mai lên đường.” Hắn nhẹ nói.
“Vâng.” Người hầu xoay người cáo lui.
Lôi Nhược Nguyệt quay đầu ngắm nhìn hoa sen trong hồ, trong lòng thảm thiết, nơi bị Trữ Hạ đâm lại dấy lên một trận đau đớn.
Tổn thương này, e rằng cả đời cũng sẽ không nhạt đi.
Hắn vô lực nhìn những bông sen đang nở rộ, miệng khẽ cười, chợt nhớ lại những chuyện xưa cũ…
…
Nàng ngồi trên lan can bằng ngọc, hai chân thả vào trong hồ nước, nói với hắn: “Nhược Nguyệt ca ca, nếu có một ngày huynh bỏ ta đi, huynh có thể một lần nữa tìm lại ta không?”
Hắn cười nhẹ nói: “Có chứ!”
“Năm năm, mười năm, sẽ tìm không ngừng chứ?”
“Tất nhiên rồi!”
“Vậy nếu ta chết thì sao?” Nàng nghiêng đầu, ra sức phát huy sức tưởng tượng kỳ diệu của mình, lại nói: “Hoặc là, ta trốn đi để huynh không thể tìm thấy ta thì sao?”
Hắn cười với nàng đầy yêu chiều: “Muội ở đâu, ta sẽ ở đó.”
“Hắc hắc, ta biết ngay Nhược Nguyệt ca ca sẽ luôn quan tâm ta mà.” Nàng sờ sờ cánh mũi. “Sáng hôm nay tên hỗn đản Xuyên Trữ kia dám lừa gạt ta.”
Hắn khiêu mi, hỏi: “Chuyện gì?”
Nàng ngượng ngùng: “Không… Không có gì…”
Hắn nhẹ cười với nàng: “Hạ Trữ, nếu có một ngày ta bị lạc mất muội, muội phải ở nguyên tại chỗ chờ ta, không được rời đi. Ta nhất định sẽ quay lại tìm muội.”
Nàng nhu thuận gật đầu đáp: “Được.”
Thế nhưng cuối cùng khi ngày đó đến, hắn để lạc mất nàng, nàng lại không hề đợi hắn. Hơn nữa, nàng còn chạy đi càng lúc càng xa hắn, xa đến mức hắn vươn tay cũng không thể chạm được vào nàng nữa.
Đại khái, nàng đã quên lời hắn nói, mà chính hắn cũng đã sớm quên những lời hứa của mình.
Hạ Trữ, dù nàng ở đâu ta cũng muốn ở đó.
Dù là chân trời xa xăm hay góc biển mịt mờ, dù là bầu trời hay là dưới hoàng tuyền!
Ánh hoàng hôn chiếu lên người hắn, áo choàng màu nguyệt bạch bị ánh sáng phủ lên trở thành màu hồng nhạt.
Lôi Nhược Nguyệt nhẹ cười, tay ôm lấy ngực.
Bị thương nơi này thật tốt, nơi đau nhức gần sát với trái tim hắn.
Rất gần, giống như hắn và nàng, đã từng, đã luôn gần như thế… Cho nên mỗi lần nhớ nàng, hắn mới biết cái gì gọi là khắc cốt, cái gì gọi là ghi tâm.
Trái tim hắn đau nhức và rét lạnh như bị dao cắt. Có đau nhức mới biết mình vẫn còn sống.
Hắn sống dựa vào nỗi đau đớn này, sống một cuộc sống đau khổ không có thuốc nào cứu chữa nổi.