Hồi thứ hai: Áo Mẫu Đơn
Chương 12: Huyễn Y
Trăng thanh gió mát, hoa lá sum suê.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu chuẩn bị đi Đại Minh Cung tìm áo mẫu đơn. Bạch Cơ gọi ra hai con ngựa mập mạp khỏe mạnh từ trong bức tranh "Bách Mã Đồ" ở đại sảnh, một con màu bạc, một con màu nâu đỏ. Ngựa ngẩng đầu hí vang dưới ánh trăng, trên lưng mọc ra hai chiếc cánh lớn như chim bay.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu cưỡi ngựa thần, trực tiếp đến Đại Minh Cung.
Thành Trường An chìm trong giấc mộng ngọt ngào yên tĩnh.
Ngựa thần đi dưới ánh trăng không một tiếng động, bờm bạc tung bay, phi nhanh như sao băng.
Ngựa thần đến phía đông bắc thành Trường An, bay qua cửa cổng Ngân Đài được canh gác nghiêm ngặt đến Đại Minh Cung, dừng dưới một cây liễu, không chạm đất.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu xuống ngựa, nhìn quanh dưới ánh trăng, xung quanh rất yên tĩnh không một bóng người. Tuy nhiên, không xa có một dãy nhà gọn gàng, mặc dù yên tĩnh như chết, nhưng thấp thoáng có ánh nến.
Nguyên Diệu nhỏ giọng hỏi: "Đó là nơi nào?"
Bạch Cơ nói: "Học sĩ viện. Đi thêm chút nữa là Hàn Lâm viện rồi. Hai nơi này là giấc mơ của văn nhân sĩ tử khắp thiên hạ, cái gọi là "nghìn đấu lúa", cái gọi là "ngôi nhà vàng" đều ở đây. Nếu Hiên Chi tham gia khoa cử, có lẽ có thể cũng sẽ làm quan ở hai nơi này."
Nguyên Diệu xua tay, nói: "Thôi, thôi, ta không có tài cũng không có năng lực, không làm nổi quan lớn, không hưởng nổi vinh hoa."
Bạch Cơ cười nói: "Hiên Chi vẫn rất có tài, chỉ là quá lương thiện chính trực, không thích hợp ở đây."
Nguyên Diệu nhìn Bạch Cơ, hơi cảm động: “Bạch Cơ, đây là lần đầu tiên ngươi khen ta."
Bạch Cơ vỗ vai Nguyên Diệu, nói: "Ta chỉ thuận miệng nói an ủi Hiên Chi thôi, Hiên Chi không cần để bụng."
Bạch Cơ, Nguyên Diệu trò chuyện mấy câu, hai con ngựa thần đột nhiên biến thành tranh thủy mặc, nét mực càng ngày càng nhạt rồi biến mất.
Nguyên Diệu ngạc nhiên: "Ơ, chuyện gì thế này?"
Bạch Cơ nhíu mày nói: " Để bảo vệ sự an toàn của thiên hậu, Quốc sư đã bố trí kết giới phòng vệ trong Đại Minh Cung. Một khi vào trong kết giới pháp thuật của phi nhân sẽ mất hiệu lực."
"Xin lỗi ta ít học, nhưng quốc sư là ai?"
Bạch Cơ nhìn về phía đông bắc một cái, nói: "Một kẻ nếu gặp phải thì chắc chắn phải tránh xa."
Bạch Cơ, Nguyên Diệu đi qua điện Minh Nghĩa, điện Trường An, điện Tiên Cư, đến bên hồ Thái Dịch. Trên đường, Bạch Cơ và Nguyên Diệu gặp một đội Ngự Lâm quân tuần đêm, một số thái giám, cung nữ đi nhanh qua nhưng họ đều làm ngơ trước Bạch Cơ, Nguyên Diệu.
Nếu nói Đại Minh Cung là một đóa hoa mẫu đơn rực rỡ, thì hồ Thái Dịch chính là hạt ngọc xanh được nâng lên từ nhụy hoa mẫu đơn, xanh như ngọc bích, lấp lánh mê người.
Dưới ánh trăng, hồ Thái Dịch gợn sóng lăn tăn, khói mỏng lượn lờ đẹp như một giấc mộng ảo. Từ xa xa, trong điện Hàn Lương, lấp ló phát ra vài tiếng nhạc tơ trúc, nghe như gió thoảng qua mây nước, mơ màng như sương khói.
Bạch Cơ chỉ vào hồ Thái Dịch, hỏi: “Hiên Chi sẽ cùng ta xuống đáy nước hay đợi ta trên bờ?”
Nguyên Diệu sợ nước, nói: “Tiểu sinh nên đợi cô nương trên bờ thì hơn.”
Bạch Cơ nói: “Cũng được.”
Dưới ánh trăng như bạc, Bạch Cơ nhẹ nhàng vén váy bước vào hồ Thái Dịch.
Nguyên Diệu thấy nước nuốt lấy Bạch Cơ thì trong lòng hơi lo lắng.
Gió thổi lá cây xào xạc vang lên, Nguyên Diệu chống cằm ngồi bên hồ Thái Dịch nhìn mặt nước chờ Bạch Cơ lên bờ. Đợi một lúc lâu, trăng đã ngả về tây nhưng Bạch Cơ vẫn chưa lên.
Nguyên Diệu đợi đến mức hơi mệt mỏi, nhắm mắt lim dim.
Một cơn gió thổi qua khiến Nguyên Diệu giật mình, mở bừng mắt.
Dải Ngân Hà trên trời phản chiếu trên mặt hồ Thái Dịch, sao trời mờ ảo, sóng nước dập dờn. Mặt nước hồ Thái Dịch đột nhiên gợn sóng, nước tách ra, có một nữ tử thân hình thướt tha nổi lên từ mặt nước.
Nữ tử mặc một bộ y phục màu khói đẹp đẽ, nàng múa trên mặt nước như lướt sóng, ca hát dưới ánh trăng. Vũ điệu của nàng nhẹ nhàng uyển chuyển, mỗi cử động đều mềm mại như khói sương bay múa theo gió. Trên cổ tay và mắt cá chân của nàng đeo những chiếc chuông nhỏ, mỗi bước đi tạo ra âm thanh trong trẻo giữa đêm tĩnh mịch.
Nguyên Diệu không khỏi ngẩn ngơ nhìn.
Nữ tử bước trên ánh trăng chậm rãi tiến về phía Nguyên Diệu. Nàng búi tóc Phi Thiên, đôi chân mày tằm, môi đỏ nở nụ cười, vẻ đẹp diễm lệ lấp lánh.
Ánh mắt Nguyên Diệu bị y phục của nữ tử thu hút, không thể rời mắt. Đó là một chiếc váy dài với họa tiết hoa mẫu đơn bằng gấm Thục, nhìn từ xa như một dòng khói màu. Nhìn gần thì như những bông mẫu đơn hoặc nở rộ, hoặc hé nụ trên váy, màu sắc rực rỡ sống động như thật. Một cơn gió thổi qua khiến Nguyên Diệu thậm chí có cảm giác những bông mẫu đơn trên váy đang rung rinh theo gió.
Nữ tử tiến đến gần Nguyên Diệu, càng ngày càng gần. Nguyên Diệu đã có thể nhìn thấy rõ ràng trang điểm trên má nàng, lông mi dài rậm như quạt, thậm chí cảm nhận được sự lạnh lẽo của dải lụa mềm mại đang phất trên tay mình.
Nữ tử chăm chú nhìn Nguyên Diệu, giọng nói u uất: “Thật đau khổ…”
“Hả?!!” Nguyên Diệu kinh ngạc.
Nữ tử nói rất u uất: “Thiếp chết thật đau khổ…”
Nguyên Diệu nổi da gà, biết mình gặp phải nữ quỷ trong hoàng cung. Hắn hơi sợ hãi nhưng không dám chạy trốn, chỉ đành gượng cười nói: “Người ta nói âm dương cách biệt, cô nương đã chết rồi thì có nói với tiểu sinh cũng chẳng có ích gì.”
“Hu hu…” Nữ quỷ nghe vậy thì đau lòng khóc.
Nguyên Diệu thấy vậy thì mềm lòng, khuyên: “cô nương đừng đau lòng nữa, hãy nghĩ thoáng mọi chuyện đi.”
Nữ quỷ ngẩng đầu, đôi mắt đẫm lệ: “Năm đó khi thiếp còn sống, là sủng phi của đế vương, được đế vương sủng ái, vinh quang vô cùng. Nay ở một mình dưới đáy nước lạnh lẽo, cô đơn buồn tủi, luôn nhớ lại nỗi đau khi chết đi.”
Thì ra nữ quỷ này khi còn sống là phi tần của đế vương. Nguyên Diệu không khỏi kính trọng cúi đầu, không dám nhìn nữ quỷ nhiều hơn: “Xin nương nương đừng nghĩ ngợi nhiều, mọi chuyện nên nghĩ thoáng ra.”
Nữ quỷ nhìn Nguyên Diệu, ánh mắt lấp lánh: “Công tử, ngài thấy thiếp có đẹp không?”
Nữ quỷ có dung nhan như hoa, phong tình vạn chủng, đẹp như một đóa mẫu đơn nở rộ.
Nguyên Diệu nói: “Nương nương quốc sắc thiên hương, tựa như tiên tử.”
Nữ quỷ nở nụ cười quyến rũ nắm lấy cánh tay Nguyên Diệu: “Công tử đã không chê thiếp xấu xí thì hãy cùng thiếp xuống đáy hồ. Ngài và thiếp có thể làm một đôi uyên ương, sống vui vẻ như thần tiên.”
Nguyên Diệu như bị sét đánh, vội đẩy nữ quỷ ra: “Âm dương cách biệt, xin nương nương trở lại đáy hồ, tiểu sinh còn phải đợi người.”
Nữ quỷ không buông tha cho Nguyên Diệu: “Thiếp một mình dưới đáy hồ quá cô đơn, mong công tử thương xót.”
Nguyên Diệu không chịu đi: “Tiểu sinh còn phải đợi người, xin nương nương hãy xuống một mình đi.”
Nữ quỷ không buông tay, vẫn kéo Nguyên Diệu dịu dàng dụ dỗ: “Công tử nếu xuống đáy hồ thì thiếp nguyện sớm tối hầu hạ công tử.”
Nguyên Diệu không bị lời ngọt ngào mê hoặc, mặc cho nữ quỷ kéo hắn trăm lần thì hắn cũng ôm chặt một cây liễu không buông tay: “Tiểu sinh sợ nước, và còn phải đợi người, xin nương nương tự đi.”
Nữ quỷ tức giận, đột nhiên biến thành một hình dạng đáng sợ với tóc tai bù xù, máu chảy ra khỏi thất khiếu dọa Nguyên Diệu, cố gắng kéo Nguyên Diệu xuống nước.
Nguyên Diệu không mạnh bằng nữ quỷ, lúc sắp bị kéo đi thì từ phía đông bắc Đại Minh Cung đột nhiên vang lên một tiếng giống như tiếng sư tử gầm, hồ Thái Dịch lập tức dậy sóng.
Nữ quỷ lập tức biến mất, chỉ để lại một vật cũ kỹ.
Một cơn gió lạnh thổi qua, Nguyên Diệu giật mình tỉnh giấc.
Ánh trăng như bạc, nước gợn sóng lăn tăn, Nguyên Diệu vẫn ngồi trên tảng đá bên hồ Thái Dịch ngáp ngủ, mọi thứ vẫn yên bình như trước.
Nguyên Diệu sờ lên đầu, chẳng lẽ nữ quỷ vừa quấy rầy hắn và tiếng gầm đuổi nữ quỷ kia đều là ảo giác? Khi hắn giơ tay lên, ống tay áo trượt xuống, trên cổ tay có một vòng vết bầm tím.
Không, không phải là ảo giác, đây là vết nữ quỷ để lại khi kéo hắn.
Nguyên Diệu quay đầu nhìn về phía cây liễu mà hắn ôm chặt không buông lúc nửa tỉnh nửa mê, phát hiện bên cạnh cây liễu có một vật cũ kỹ.
Nguyên Diệu đi tới, nhặt vật đó lên, hóa ra là một mảnh vải cũ kỹ, ướt đẫm. Hắn mở mảnh vải ra, thấy nó vừa cũ vừa bẩn vừa rách, hoàn toàn không thể nhìn ra đó là thứ gì.
Nguyên Diệu đang nhìn mảnh vải nghi hoặc thì đột nhiên có người vỗ vai hắn.
“Á!!” Nguyên Diệu sợ hãi hét lên.
Người đó vội bịt miệng Nguyên Diệu trước khi hắn kịp hét: “Hiên Chi à, là ta.”
Nguyên Diệu nhìn kỹ, thấy Bạch Cơ đứng trước mặt hắn, dưới ánh trăng, dải lụa trắng bay phấp phới, nhẹ nhàng như bướm.
Nguyên Diệu thở phào nhẹ nhõm, vỗ ngực trấn an: “Hóa ra là Bạch Cơ, làm tiểu sinh sợ chết khiếp. Ngươi có tìm được áo mẫu đơn không?”
Bạch Cơ đáp: “Không có. Hiên Chi, rời khỏi Đại Minh Cung trước đã, chúng ta bị Quốc sư phát hiện rồi.”
Nguyên Diệu kinh ngạc: “Quốc sư? Vậy phải mau chạy trốn sao?”
“Phải rời đi ngay lập tức,” Bạch Cơ nói, chợt nhìn thấy tấm vải trong tay Nguyên Diệu thì hơi bất ngờ, đưa tay lấy qua: “Hiên Chi, thứ này từ đâu ra vậy?”
Nguyên Diệu đáp: “Vừa rồi, một hồn của ma nữ đánh rơi.”
“Ma nữ như thế nào?”
“Một hồn ma nữ tự xưng là nương nương trong cung.”
Bạch Cơ cười, vỗ vai Nguyên Diệu: “Hiên Chi, đi thôi, chúng ta đã tìm được áo mẫu đơn rồi.”
“Hả?!” Nguyên Diệu ngạc nhiên.
Bạch Cơ không giải thích, dẫn Nguyên Diệu rời khỏi hồ Thái Dịch.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu theo lối cũ ra khỏi cung, Bạch Cơ không nói một lời, vội vã đi, dường như hơi lo lắng. Nguyên Diệu lần đầu tiên thấy Bạch Cơ trong bộ dạng như vậy, không khỏi thắc mắc: “Bạch Cơ sợ Quốc sư sao?”
Nghe vậy thì Bạch Cơ không vui: “Ta sao lại sợ Quốc sư?”
Nguyên Diệu nói: “Nếu không sợ, sao ngươi lại lo lắng như vậy?”
Bạch Cơ miễn cưỡng cười: “Ta lo gì chứ? Cũng đã lấy được áo mẫu đơn rồi, ta chỉ muốn mau chóng trở về Phiêu Miểu Các ngủ thôi.”
Nói dối, Nguyên Diệu nghĩ thầm, người có mắt ai cũng thấy được Bạch Cơ đang lo lắng. Hắn cảm thấy kỳ lạ, dù Quốc sư có là một người đạo hạnh cao thâm thì Bạch Cơ cũng không thể lo lắng như thể đã làm điều gì có lỗi vậy.
Nguyên Diệu hỏi: “Quốc sư là người như thế nào vậy?”
Bạch Cơ đáp: “Quốc sư tên là Quang Tạng, là đệ tử của Lý Thuần Phong, ở tại Đại Giác Quan phía đông bắc Đại Minh Cung, thông thạo thiên văn địa lý, rất được Thiên Hậu coi trọng và trọng dụng.”
“Hả?! Vậy hắn biết hàng yêu phục ma chứ?”
Bạch Cơ nói: “So với hàng yêu phục ma, Quang Tạng lại mê mẩn thuật luyện đan, mong muốn trường sinh bất lão. Lúc ta đến đã tính toán, hắn hẳn đang bế quan luyện đan, sao lại đột nhiên xuất quan thế không biết? Hiên Chi, chúng ta vẫn nên mau chóng rời đi thôi.”
Nguyên Diệu lại hỏi: “Vừa rồi tiếng sư tử hống, dường như phát ra từ phía đông bắc, đó là do Quốc sư tại Đại Giác Quan phát ra à?”
Bạch Cơ đáp: “Đó là Tiểu Hống phát ra. Chắc là Quang Tạng bảo Tiểu Hống cảnh báo chúng ta, hắn đã phát hiện ra chúng ta rồi.”
“Tiểu Hống là ai?” Nguyên Diệu thắc mắc.
Trong lúc nói chuyện, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đã quay trở lại gần viện Học Sĩ. Trong màn đêm tĩnh mịch, dưới gốc cây liễu nơi ngựa trời biến mất, có một con sư thử toàn thân tắm trong lửa đứng đó. Hình dáng sư tử mạnh mẽ, bờm bay phấp phới, hai mắt như hai chiếc đèn lồng đỏ rực.
Bạch Cơ thở dài, chỉ vào con sư tử vàng dưới gốc cây liễu, nói: “Hiên Chi, đó là Tiểu Hống.”
Nguyên Diệu nhìn kỹ, kinh ngạc: “Một con sư tử ư?!”
Sư tử không vui, ngửa mặt lên trời gầm lên một tiếng, tiếng gầm sấm sét vang rền: “Ta là Toan Nghê*, không phải sư tử!!”
*Toan Nghê: Ban đầu là để chỉ sư tử, sau có truyền thuyết nói rằng nó là một trong chín đứa con của rồng, hình dạng như sư tử, thích khói và thích ngồi, nên thường xuất hiện trên lư hương, hút khói và nhả khói.
Nguyên Diệu nghe như sấm bên tai, chân tay mềm nhũn, suýt nữa ngã xuống. Bạch Cơ đỡ Nguyên Diệu một cái, nói: “Tiểu Hống, Hiên Chi nhát gan, ngươi đừng có dọa hắn.”
Toan Nghê không vui, nói: “Cô cô, đã nói bao nhiêu lần rồi, bây giờ ta là linh thú hộ tòa của Quốc sư, tướng quân Thái Ất Thiên Sách do Thiên Hậu phong, đừng gọi nhũ danh của ta nữa. Ta tự đặt cho mình một cái tên mới gọi là Sư Hỏa. Thế nào, oai phong không?”
Bạch Cơ không nghe rõ, nói: “Thất hỏa?”*
*sư hỏa ví thất hỏa đều đọc là shihuo
Nguyên Diệu nghe rõ, sửa lại lời Bạch Cơ: “Là Sư Hỏa. Đặt cái tên như vậy, nó còn nói nó không phải sư tử.”
Bạch Cơ nói: “Cái tên này thật không may mắn.”
Toan Nghê tức giận: “Cô cô không cần phải cười người năm mươi bước trong khi mình đi một trăm bước, cái tên ‘Tự Nhân’ của ngươi cũng không may mắn hơn bao nhiêu.”
Nguyên Diệu lẩm bẩm hai lần "Tự Nhân", đồng ý với Toan Nghê: “Đúng là không may mắn thật. Không lạ gì Bạch Cơ ngươi ghét người khác gọi mình là Tự Nhân.”
Bạch Cơ không vui: “Nguyên Diệu, tên ‘Yêu Duyên’ của ngươi hay ‘Hiên Chi’ cũng chẳng thấy may mắn gì hơn.”
Nguyên Diệu đáp: “Dù sao đi nữa ‘Yêu Duyên’ cũng tốt hơn ‘Tự Nhân’.”
Ánh mắt của Bạch Cơ lóe lên một tia sắc lạnh như lưỡi dao, nhìn chằm chằm vào Nguyên Diệu, cười nói: “Hiên Chi nói lại lần nữa xem.”
Nguyên Diệu vội sửa lời: “Ừm… Nguyên Diệu và Tự Nhân thực ra cũng giống nhau thôi.”
Toan Nghê nói: “So với Tự Nhân và Nguyên Diệu, cái tên Sư Hỏa của ta vẫn may mắn hơn.”
“Chẳng may mắn chút nào!” Bạch Cơ và Nguyên Diệu đồng thanh phản đối.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Toan Nghê cười cợt nhau vì chuyện tên gọi, mãi cãi nhau quá nên dường như đã quên mất việc mình phải làm. Mãi đến khi tám tiểu đạo sĩ cầm kiếm gỗ đào chạy tới thì Bạch Cơ mới nhớ ra mình nên đi ngay, mà Toan Nghê cũng mới nhớ ra mình đến để bắt Bạch Cơ và Nguyên Diệu.
Bạch Cơ kéo Nguyên Diệu định tẩu thoát, nhưng Toan Nghê đã nhảy lên, chặn Bạch Cơ lại: “Cô cô hiếm khi đến Đại Minh Cung, ta theo lệnh Quốc sư đi mời cô cô đến Đại Giác Quan uống trà ngắm sao.”
Bạch Cơ lo lắng, cười nói: “Gần sáng rồi còn ngắm sao gì nữa? Ta phải về Phiêu Miểu Các rồi, hôm khác sẽ đến Đại Giác Quan thăm Quốc sư.”
Toan Nghê nói: “Quốc sư bảo không ngắm sao cũng được, nhưng cô cô phải trả lại bảy ngàn lượng vàng đã lừa của ông ấy.”
Bạch Cơ cười nói: “Chuyện từ ba năm trước rồi sao Quốc sư vẫn còn nhớ rõ như vậy. Nhưng ta đã dùng bảy viên ‘Huyền Thiên Trường Sinh Hoàn’ đổi lấy bảy ngàn lượng vàng của Quốc sư rồi, giá cả rõ ràng, giao dịch công bằng, sao có thể nói là ‘lừa’ được?”
Toan Nghê gầm lên một tiếng: “Ngươi nói ăn ‘Huyền Thiên Trường Sinh Hoàn’ do Hồng Quân Lão Tổ* luyện chế sẽ có thể trường sinh nên Quốc sư mới bỏ ra một số tiền lớn mua. Ai ngờ ăn xong còn chưa thấy trường sinh đâu thì tóc và lông mày của ông ấy đều rụng hết, đến giờ vẫn chưa mọc lại. Bây giờ, mỗi ngày Quốc sư đều phải đội tóc giả, vẽ lông mày giả, thật khổ sở không chịu nổi. Ngươi còn nói không phải là ‘lừa’ ư?”
*Hồng Quân Lão Tổ: là tổ tiên của các tiên nhân, cũng gọi là “Hồng Nguyên Lão Tổ”, là thầy của Thái Thượng Lão Quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, và Thông Thiên Giáo Chủ, có câu nói “Trước có Hồng Quân, sau mới có trời”, cũng có người nói Hồng Quân Lão Tổ chính là Bàn Cổ.
Nguyên Diệu không nhịn được nói: “Nếu đúng là như vậy thì Bạch Cơ ngươi thật quá đáng.”
Bạch Cơ lườm Nguyên Diệu một cái, cười nói với Toan Nghê: “Chắc Quốc sư chắc nhầm rồi, lúc đó ta không nói ‘Huyền Thiên Trường Sinh Hoàn’ có thể trường sinh, chỉ nói có thể kéo dài tuổi thọ. Còn chuyện rụng tóc, rụng lông mày thì vì đây là tiên đan do Hồng Quân Lão Tổ luyện chế, Quốc sư muốn trách thì phải đi tìm Hồng Quân Lão Tổ chứ.”
Toan Nghê nói: “Hồng Quân Lão Tổ đã không còn ở thế gian này nữa, Quốc sư biết đi đâu mà tìm ông ta?”
Bạch Cơ lại nói: “Tiên đan của Hồng Quân Lão Tổ không thể khiến người ta rụng tóc, rụng lông mày, Quốc sư chắc chắn là uống quá nhiều các loại đan dược kim thạch nên mới rụng tóc, rụng lông mày. Ngươi bảo Quốc sư uống ít đan dược lại, có lẽ tóc và lông mày sẽ mọc lại đấy.”
Toan Nghê nói: “Dù sao đi nữa thì ngươi phải trả lại tiền cho Quốc sư.”
Bạch Cơ không chịu: “Ông ấy đã ăn Huyền Thiên Trường Sinh Hoàn rồi, làm sao có lý trả lại tiền?”