Người Phồn xuất thân từ vùng cao nguyên lạnh lẽo, vạm vỡ khỏe mạnh, thường nhân lúc Trung Nguyên suy yếu kéo quân xâm lược, cướp bóc trắng trợn, bắt thanh niên trai tráng làm nô binh, đồng thời giết hại người già trẻ nhỏ, hủy diệt sinh cơ của cả một vùng. Khi Trung Nguyên mạnh mẽ còn có thể chống cự, đến lúc suy yếu đành mặc chúng xâm lăng. Gần trăm năm trôi qua, đất Hà Tây đánh mất chưa thể lấy về, cũng cắt đứt tuyến đường giao thông giữa các nước Tây Vực và đất Hán.
Chẳng ai ngờ rằng khi triều đình không còn sức lo liệu, vùng đất bị đánh mất gần cả thập kỷ vẫn chưa quên cố quốc, như một kỳ tích đã đánh đuổi được quân thù, vượt khói bụi gửi tin tức về Trung Nguyên.
Hàn Nhung Thu, vị anh hùng thời đại, vượt ngàn dặm đến thành Thiên Đức chính là để quy phục triều đình, đưa Hà Tây trở về đất Trung Nguyên.
Cùng với tấm bản đồ Hà Tây từ từ mở ra, nào quân thư ghi lại chiến tích huy hoàng, nào hộ tịch của dân chúng năm châu, ấn vàng, roi vàng cùng châu báu thu hoạch từ quân Phồn đều khiến người ta kinh ngạc tán thưởng.
Các quan lớn có mặt không kìm nổi cảm thán, thành Thiên Đức là một thành quân sự, mỗi người đến đây trấn thủ biên cương đều đã từng nhìn về Hà Tây nơi xa, từng nghe kể về thảm cảnh sau khi mất đất, hiểu rõ ý nghĩa của mảnh đất ấy đối với Trung Nguyên.
Mọi người đều rõ, dù Hàn Nhung Thu dâng tấu xưng thần nhưng trong tay ông nắm giữ hùng binh, có khả năng sẽ lợi dụng vùng đất ấy để đề cao địa vị, trở thành một mầm hoạ khác sau người Phồn.
Mọi người cũng biết, người Phồn vẫn đang dòm ngó hòng cướp đoạt lại, Hà Tây kiên cường đối địch, trong phủ Phồn cơ đã có cuộc đấu máu.
Mọi người càng hiểu rõ, triều đình còn chưa tỏ ý, chưa biết rốt cuộc nên coi Hà Tây là bạn hay thù.
Nhưng lúc này, trong lòng mọi người đều sinh lòng tôn kính, một loại cảm phục vô hình vô chất. Người đàn ông khiêm tốn, ngoại hình chất phác này lại là một anh hùng chân chính.
Hàn Nhung Thu không nói nhiều về mình mà chỉ khen ngợi thuộc hạ nhập thành, chỉ vào một người trung niên sắc sảo giới thiệu, “Đây là Phương Cảnh, hậu duệ người Túc Đặc, tinh thông thương pháp, anh dũng thiện chiến, đầu lĩnh giặc ngoại xâm chiếm Sa Châu đã chết dưới tay ông ấy.”
Mọi người trầm trồ tán thưởng, nhìn người với ánh mắt nể phục.
Hàn Nhung Thu lại vỗ vai một đại hán khác, lưng hùm vai gấu, chỉ nhìn qua đã biết mạnh mẽ nhường nào, “Đây là Triệu Anh đến từ bộ lạc Thông Giáp, chỉ huy Huyền Thủy quân, khởi binh tấn công quân Phồn ở Qua Châu, một trận đã đánh chết đại tướng.”
Người thứ ba Hàn Nhung Thu chỉ vào lại là một tăng nhân, “Đây là thượng sư Hoằng Hải, có Phật tâm mà cũng có sức mạnh to lớn, được đại sư Quan Chân truyền thụ, thống lĩnh mười mấy nghìn tăng binh của Hậu Thổ quân.”
Hoằng Hải đầu trọc, mặc cà sa, toàn thân cuồn cuộn cơ bắp, dũng mãnh uy nghiêm như kim cang lực sĩ ngồi dưới đài Bồ Tát.
Các nơi Tây Vực sùng tín Phật giáo, người Phồn coi dân chúng như trâu ngựa nhưng lại khoan dung với tăng lữ, nhiều đại tộc còn cho con cháu xuất gia nhằm bảo tồn gia sản, đưa ruộng đất nhập vào chùa, khuếch trương chùa miếu. Tăng nhân có võ thuật mạnh mẽ, trong chùa thường chuẩn bị đao binh thiết thuẫn, khi khởi binh phản Phồn liền trở thành một cánh quân hùng mạnh.
Thiên Đức quân tán thưởng xong, lại có chút nghi ngờ, Đỗ Hòe hỏi, “Lần này sao không thấy Nhuệ Kim quân?”
Quân Hà Tây không chỉ gồm một quân mà là năm quân hợp xưng, gồm Thanh Mộc và Xích Hỏa quân của nhà họ Hàn, Nhuệ Kim quân của nhà họ Bùi, Huyền Thủy quân của nhà họ Triệu và Hậu Thổ quân của tăng gia. Hàn Nhung Thu đến đây chỉ thiếu mỗi nhà họ Bùi, lẽ nào thật như lời đồn là Hàn – Bùi bất hòa?
Hàn Nhung Thu bình tĩnh đáp, “Dã tâm của người Phồn chưa tắt, tất phải có nhân thủ ở lại đề phòng, vị đại nhân đây nếu rảnh rỗi đến Hà Tây sẽ gặp được.”
Ngụy Hoằng cười, “Đỗ đại nhân đừng mắc bẫy, nghe nói Sa Châu phồn hoa không thua Trung Nguyên, mỹ nhân lại vô số, đi rồi khó tránh bị mê hoặc, quên cả trở về.”
Mọi người cười lớn, bầu không khí rất vui vẻ, hai bên bàn luận chính sự, đột nhiên có người xông vào.
Người đến chính là Phó sứ Đồng Thiệu, đi theo sau là Lư Tốn, hắn lẽ ra phải bị cấm túc trong phủ nay lại ngang nhiên xông vào, kiêu ngạo nói, “Sứ giả Hà Tây đến hội đàm, ta cũng là Phó sứ, sao lại không ai báo tin, suýt nữa đã lỡ mất!”
Chu Nguyên Đình lão luyện, không lộ cảm xúc, “Đồng đại nhân đã đến, vậy chi bằng cùng nghe.”
Đồng Thiệu cười lạnh ngồi xuống, nói với Hàn Nhung Thu, “Chỉ nghe sao đủ, ta còn phải thay Thánh thượng phòng ngừa, ít nhiều cũng phải hỏi mấy câu! Hà Tây cách đây ngàn dặm, bao năm không có tin tức, nay các hạ đến rốt cuộc là muốn đoạt thành Thiên Đức hay chiếm đoạt Trung Nguyên?”
Lời lẽ sắc bén đầy địch ý, rõ ràng hắn ta đến nhằm mục đích phá rối, sắc mặt mọi người thoắt thay đổi.
Hàn Nhung Thu điềm nhiên đối đáp, “Cả hai đều không phải, cớ gì Phó sứ đại nhân lại nói vậy.”
Đồng Thiệu bức bách, “Hàn đại nhân giả vờ phục tùng chẳng qua là để lừa lấy sự ủng hộ của triều đình. Quân đội Hà Tây lợi hại cỡ nào, một khi xâm lược Trung Nguyên, còn hung hãn hơn người Phồn. Chó nhà còn nuôi được, hổ dữ sao dung, dù các hạ có thề thốt, bọn ta cũng không dám tin!”
Hàn Nhung Thu từ tốn nói, “Tổ tiên ta quê ở Lũng Sơn, gia tộc nhiều đời làm tướng thủ thành Sa Châu. Khi Trung Nguyên nội loạn, điều Lũng Hữu quân đi, người Phồn kéo quân xâm lược, tổ tiên một mình đưa quân Hà Tây chống trả, không nhận được một viện binh cứu trợ. Khuếch Châu, Lương Châu, Lan Châu, Qua Châu lần lượt thất thủ, chỉ có Sa Châu kiên cường phòng thủ hai mươi sáu năm, trước khi qua đời tổ tiên để lại di ngôn, tự vấn không thẹn với triều đình và dân chúng Hà Tây.”
Đồng Thiệu sầm mặt, “Tổ tiên nhà ông như vậy, con cháu chưa chắc đã được bằng. Hà Tây bị dị tộc thống trị gần trăm năm, mặc đồ Hồ, nói tiếng Hồ, tập tục chẳng khác gì người Hồ? Chẳng qua là muốn mượn danh đất xưa để lừa triều đình lấy tiền của!”
Bầu không khí ngột ngạt tột đỉnh, song Hàn Nhung Thu vẫn chậm rãi đối đáp, “Đồng đại nhân có biết Hà Tây sau khi thất thủ ra sao không? Người Phồn coi chúng tôi như chó lợn, bắt làm nô tì, đến mùa thu còn cướp bóc thuế ruộng và phụ nữ, luồn thừng qua xương vai để trói, dùng tay cụt móc mắt làm trò. Dân chúng chịu đựng nhục nhã, một lòng nhớ đến triều đình, như con trẻ bị bắt nạt muốn được trở về vòng tay cha mẹ.”
Thảm cảnh Hà Tây từ nhiều năm qua đã truyền đi khắp nơi, mọi người có mặt rưng rưng xúc động.
Hàn Nhung Thu lại nói, “Hơn mười năm trước, Thánh thượng cử sứ giả kết minh với người Phồn, sứ giả đi qua Hà Tây, dân chúng hay tin có sứ giả cố quốc tới đều kéo đến bái kiến, quỳ khóc không ngừng, hỏi Thánh thượng có bình an không? Con cháu chúng tôi không quên cố quốc, triều đình còn nhớ không? Hôm nay Hàn mỗ đến đây cũng muốn thay mặt vạn dân hỏi Thánh thượng, liệu triều đình có còn nhớ con dân Hà Tây đã chịu tủi khổ? Có muốn cứu cốt nhục thất lạc nhiều năm khỏi kiếp nạn này?”
Một câu nói chân thành đầy cảm xúc, khiến nhiều người cảm thấy xót xa, không khỏi thở dài.
Đồng Thiệu nhất thời câm lặng, nhưng sau đó còn hỏi, “Nếu đã đánh bại được người Phồn, vì sao Hà Tây vẫn rèn luyện binh mã, có dám nói không có dã tâm chiếm đoạt Trung Nguyên?”
Một lời nói làm không khí thay đổi, đâm trúng tim đen của Thiên Đức quân.
Hàn Nhung Thu đối đáp tự nhiên, bình tĩnh nói, “Đại nhân thật sự nghĩ Hà Tây đã an toàn hay là cố tình không biết? Tuy hiện tại đã lấy lại năm châu song vẫn còn bảy châu nằm trong tay người Phồn, lại thêm phía bắc có Hồi Hột, phía tây có Vu Điền, phía đông có Thổ Hồn, bốn phía thụ địch, khó được một đêm yên ổn. Hà Tây khẩn thiết quy phục chính là mong được che chở bởi Thiên uy, không còn phải ngày ngày lo sợ.”
Đồng Thiệu không tìm được lời phản bác, cố ý móc mỉa, “Hàn đại nhân dùng binh như thần, trong mắt người Phồn chẳng khác nào mãnh hổ, vì sao lại ở đây tỏ vẻ trẻ con.”
Hàn Nhung Thu điềm nhiên, “Đại trượng phu dũng mãnh nơi chiến trận, liệu về nhà cũng như vậy sao? Trung Nguyên là quê hương, là cha mẹ, là nơi ta luôn mong đợi, vào đến đây như con trẻ về nhà. Chỉ có người Phồn hận ta thấu xương, tuyệt không muốn buổi đàm phán suôn sẻ, thậm chí tìm trăm phương nghìn kế hòng ly gián người thân, may mắn các vị đại nhân sáng suốt, chắc chắn không bị che mắt.”
Đồng Thiệu đã nhận hối lộ từ người Phồn, muốn chèn ép người Hà Tây hết mức có thể, không ngờ Chu Nguyên Đình ra tay trước, hắn tức tối cố ý đến đây gây sự, muốn ép Hàn Nhung Thu lỡ lời để bắt lỗi, làm hỏng chuyện sáp nhập, không ngờ đối phương đối đáp khôn khéo, không chút sơ hở.
Chu Nguyên Đình lạnh lùng quan sát, đến lúc này nói, “Lương đại nhân hãy thu bản đồ và quân sách lại, tất cả đóng hòm niêm phong, những điều đã bàn ghi vào tấu chương, sai người cưỡi khoái mã nhanh chóng đưa về Trường An. Hàn đại nhân ở xa tới là khách, nếu đã bàn xong chính sự thì nên chuyển sang tiệc đãi khách.”
Không khí dịu xuống, các quan viên nói cười, di chuyển đến Tây Đường Các.
***
Trần Bán Phường xách cổ Lục Cửu lang về rồi lại bận tối mày tối mặt, đến nửa đêm mới về phủ, vừa mệt vừa nóng nảy hệt như một cây pháo sắp nổ.
Tú Hương ở trong Các học được cách hầu hạ chiều khách, lúc này cúi đầu ngoan ngoãn dùng khăn lau mặt, đưa canh nóng cho gã lót dạ, hết sức xoa bóp gân cốt, cởi giày ngâm chân.
Trần Bán Phường cảm thấy thân tâm thoải mái, dần dần khuây khỏa, “Coi như ngươi lanh lợi, còn biết báo tin.”
Tú Hương ngoan ngoãn đáp, “Nô tỳ không làm được việc gì khác, chỉ có thể lưu ý những việc vặt, may mà không để tiểu thư bị lừa lần nữa.”
Trần Bán Phường lại bùng lên lửa giận, rút chiếc trâm vàng từ trong tay áo ném xuống cạnh giường, “Tên nhãi đó mồm miệng lẻo mép, cho chút đồ là lừa được nó quay đầu, sao mà ngu muội thế!”
Tú Hương nhấc chân gã ra khỏi chậu nước nóng, tỉ mỉ dùng khăn lau khô.
Trần Bán Phường vẫn còn tức giận, bỗng nhìn chăm chăm vào mỹ tỳ đang hầu hạ, bóp cằm nàng ta, chất vấn, “Hắn thuyết phục đàn bà giỏi như thế, đến chủ cũ của ngươi cũng bị lừa, ngươi có thoát được không? Lần trước Kiều nó nói thấy các ngươi ôm ấp nhau, có phải từ lâu đã có quan hệ mập mờ?”
Tú Hương thấy gã hung ác thì sợ nhũn người, “Trước đó gia đã hỏi rồi mà, biết hắn ta là tên phóng đãng, nô tỳ nào dám dây dưa, gia thực sự không tin, nô tỳ chỉ còn cách đâm đầu chết thôi.”
Nàng ta làm bộ muốn đập đầu vào cột để tỏ lòng, Trần Bán Phường mới vơi bớt nghi ngờ, mắng, “Ta chỉ hỏi một câu, ngươi việc gì phải làm quá lên?”
Tú Hương lập tức ngừng khóc, quỳ xuống bóp chân cho gã.
Mỹ tỳ hầu hạ vô cùng ngoan ngoãn, Trần Bán Phường cuối cùng cũng hài lòng, nhặt trâm vàng lên cài vào tóc nàng ta, “Hôm nay lập công, trâm này thưởng cho ngươi, ngày mai ra tiệm chọn một mảnh vải, may một bộ y phục mới.”
Người này nóng nảy dễ giận, lật mặt vô tình, Tú Hương nhận thưởng mà nơm nớp sợ, song vẫn cố tỏ ra vui vẻ.
Trần Bán Phường vừa định nghỉ ngơi, không ngờ Đỗ Hòe lại phái người gọi gấp khiến gã ta tức điên ném vỡ mấy cái chén, cố kìm nén cơn giận mà ra ngoài.
Hoá ra là tiểu Thất nói đi ra ngoài tìm tỷ muội, không ngờ phố xá đông đúc, hộ vệ mất dấu, quản gia thấy nàng đến tối vẫn chưa về bèn đi báo với Đỗ Hòe đang dự tiệc ở Tây Đường Các.
Đỗ Hòe vừa mất một mỹ nhân, nay lại thêm một người nữa mất tích, hỏi sao không tức giận.
Trần Bán Phường giả bộ an ủi, trong bụng thầm mắng người này mê luyến cái đẹp, không hề nghi ngờ bản thân đã trúng kế của bọn lừa đảo.
Ai ngờ gã ta chưa dứt lời, Đỗ Hòe đột ngột hỏi, “Ta đã phái người hỏi Phùng phủ, quản gia nói các nàng được Trần phường chủ đưa tới, rốt cuộc ngươi mua từ đâu, chẳng lẽ là bọn bán người bắt các nàng về?”
Lần này ngay cả Trần Bán Phường cũng bị nghi ngờ, gã vội vàng cười cầu hòa, “Ngày đó Phùng phủ cần gấp, người là do hàng xóm giới thiệu, thảo dân cũng chưa hỏi kỹ, đại nhân nghi ngờ cũng hợp lý, thảo dân sẽ lập tức cho người điều tra kỹ.”
Đỗ Hòe đương lo lắng, sợ Trần Bán Phường làm không xong việc nên mới thuận miệng nhắc nhở vài câu, không ngờ kẻ ác bá bị xúc phạm, tự muốn truy tìm.
Trần Bán Phường vừa quay lưng liền cau mày, ra lệnh cho thuộc hạ, “Về đánh chết thằng chó kia cho ta, rồi đi tìm kẻ môi giới đã gây ra rắc rối này, đòi lại tiền công!”