Percy Jackson Tập 5: Vị Thần Cuối Cùng

Chương 9: Hai con rắn cứu cuộc đời tôi




Tôi yêu thành phố New York. Bạn có thể vọt lên từ Địa ngục ở ngay giữa Central Park, vẫy taxi, xuôi theo Đại lộ Năm cùng với một con chó ngao địa ngục khổng lồ đang chạy theo đằng sau xe bạn, và chẳng có ai nhìn bạn lấy một cái.

Tất nhiên là Màn Sương Mù cũng đã giúp. Mọi người chắc chắn không thể nhìn thấy con O’Leary, hoặc có lẽ họ nghĩ nó là chiếc xe tải kềnh càng, ầm ĩ, rất thân thiện.

Tôi mạo hiểm dùng điện thoại di động của mẹ gọi cho Annabeth lần thứ hai. Tôi đã gọi cho cô ấy một lần lúc ở trong đường hầm, nhưng chỉ liên lạc được với hộp thư thoại. Tôi đã có một sự chào đón đầy ngạc nhiên, liên qu đến việc tôi đang ở trung tâm thần thánh của thế giới và tất cả những gì liên quan đến đó, nhưng tôi không muốn nhìn thấy chi phí sử dụng dịch vụ roaming(2) của mẹ tôi sẽ phải trả sau này.

Lần này, Annabeth nhận cuộc gọi.

“Chào,” tôi nói. “Cậu nhận được tin nhắn của tớ không?”

“Percy, cậu đang ở đâu vậy? Tin nhắn của cậu chả nói lên điều gì. Bọn tớ lo chết đi được!”

“Tớ kể ngọn ngành với cậu sau,” tôi nói, mặc dầu tôi sẽ làm chuyện đó như thế nào thì tôi không rõ lắm. “Giờ cậu đang ở đâu?”

“Tụi tớ đang trên đường đi theo như cậu bảo, gần đến Đường hầm Midtown Queens. Nhưng Percy này, cậu đang tính làm gì thế? Tất cả bọn tớ đều ra đi, trại gần như không có người bảo vệ và không đời nào các thần...”

“Tin tớ đi,” tôi nói. “Tớ sẽ gặp cậu ở đó.”

Tôi cúp máy. Hai tay tôi đang run bần bật. Tôi không chắc liệu đây là phản ứng phụ từ việc đầm mình vào trong dòng sông Styx hay linh cảm về những gì tôi sắp làm. Nếu điều này không hiệu quả, việc không thể bị thương sẽ không thể cứu tôi khỏi bị nổ tung thành từng mảnh nhỏ.

Cuối giờ chiều, chiếc taxi thả tôi trước Tòa nhà Empire State. Con O’Leary nhảy nhót ngược xuôi trên Đại lộ Năm, liếm xe taxi và ngửi ngửi các xe bán hotdog. Mọi người dường như chẳng chú ý gì đến nó, mặc dầu mọi người né qua một bên và trông bối rối khi nó đến gần.

Tôi huýt sáo gọi nó đi theo tôi khi ba chiếc xe trắng tấp vào lề. Trên sườn xe sơn hàng chữ Dịch vụ Cung ứng Dâu tây Delphi, tên ngụy trang của Trại Con Lai. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cả ba xe cùng một lúc, mặc dầu tôi biết chúng thay phiên chuyên chở sản phẩm tươi của trại chúng tôi cho thành phố.

Chiếc xe đầu tiên do anh Argus cầm lái. Anh là trưởng nhóm bảo vệ nhiều mắt của trại. Hai chiếc còn lại được lái bởi các nữ yêu quái mình người cánh chim, một loại người lai giữa gà/người bị quỷ ám với tính cách cực kỳ khó chịu. Chúng tôi sử dụng các yêu quái mình người cánh chim phần lớn cho việc quét dọn ở trại, nhưng họ cũng làm khá tốt trong điều khiển phương tiện giao thông trong khu vực trung tâm thành phố.

Các cánh cửa mở ra. Một nhóm các trại viên leo xuống, một vài người trong số họ trông hơi xanh vì chuyến đi dài. Tôi mừng vì có nhiều người đã đến: Pollux, Silena Beauregard, anh em nhà Stoll, Michael Yew, Jake Mason, Katie Gardner và Annabeth, cùng với phần lớn các anh em thuộc nhà của họ. Bác Chiron từ chiếc xe cuối bước xuống. Phần nửa ngựa của bác được gắn chặt vào chiếc xe lăn ma thuật, vì thế bác ấy phải sử dụng bệ nâng dành cho người khuyết tật. Không một ai trong nhà thần Ares có mặt, nhưng tôi cố không quá giận dữ về chuyện đó. Clarisse là một tên ngốc cứng đầu. Hết chuyện.

Tôi thầm đếm trong đầu: bốn mươi trại viên cả thảy.

Không quá nhiều cho một trận chiến, nhưng đây vẫn là một nhóm con lai lớn nhất tôi đã từng thấy tụ tập cùng một nơi bên ngoài trại. Mọi người trông khá sợ hãi, và tôi hiểu lý do cho điều đó. Chúng tôi chắc chắn đã gửi đi quá nhiều mùi á thần đến nỗi mọi con quái vật ở vùng đông bắc Hoa Kỳ đều biết rõ chỗ chúng tôi đang đứng.

Khi tôi nhìn vào gương mặt họ – tất cả những trại viên tôi biết sau quá nhiều mùa hè bên nhau – một giọng nói mè nheo vang lên trong đầu tôi: Một trong số họ là gián điệp.

Nhưng tôi không thể suy nghĩ nhiều quá về chuyện đó. Họ là bạn tôi. Tôi cần họ.

Rồi tôi nhớ đến nụ cười nham hiểm của Kronos. “Mày không thể dựa vào bạn bè. Chúng luôn phụ lòng tin của mày.”

Annabeth đến gần tôi. Cô ấy mặc đồ rằn ri màu đen với con dao bằng đồng celestial đeo trên bắp tay và túi laptop khoác trên vai – sẵn sàng cho cả việc rút dao đâm và lướt mạng Internet, cho dù bất cứ điều gì xảy ra trước.

Cô ấy cau mày. “Có chuyện gì?”

“Có chuyện gì là gì?”

“Cậu đang nhìn tớ là lạ.”

Tôi nhận ra tôi đang nghĩ đến cảnh mộng kỳ lạ của tôi về việc Annabeth kéo tôi ra khỏi Sông Styx. “Là, ừm, không có gì.” Tôi quay sang các trại viên còn lại trong nhóm. “Cám ơn vì đã đến, các cậu. Bác Chiron, mơ bác đi trước!”

Người cố vấn già của tôi lắc đầu. “Ta đến chỉ để chúc cháu may mắn, cậu bé của ta. Nhưng bác đã tự hứa là nếu không có lệnh triệu tập, bác sẽ không bao giờ đến đỉnh Olympus.”

“Nhưng bác là chỉ huy của bọn cháu.”

Bác ấy mỉm cười. “Ta là thầy giáo, là huấn luyện viên của các cháu. Điều đó không giống với việc là người chỉ huy các cháu. Ta sẽ đi tập hợp thêm các đồng minh ta có thể. Giờ chắc cũng không quá muộn để thuyết phục các người anh em nhân mã của bác đến giúp một tay. Với lại, cháu đã gọi các trại viên đến đây, Percy. Cháu mới là người chỉ huy.”

Tôi muốn phản đối, nhưng mọi người lại đang nhìn tôi đầy hy vọng, kể cả Annabeth.

Tôi hít thật sâu. “Được rồi, như tớ đã nói chuyện qua điện thoại với Annabeth, có điều gì đó nguy hại sẽ xảy ra vào tối nay. Một loại bẫy nào đó. Chúng ta sẽ phải tiếp kiến thần Zeus và thuyết phục ông ấy bảo vệ thành phố. Hãy nhớ, chúng ta không thể có câu trả lời là Không.”

Tôi nhờ anh Argus trông chừng con O’Leary, và cả hai đều không vui vì điều đó.

Bác Chiron bắt tay tôi. “Cháu sẽ làm tốt, Percy. Hãy nhớ về các mặt mạnh và thận trọng với các điểm yếu của cháu nhé.”

Điều bác ấy nói giống hệt như lời Achilles dặn tôi. Rồi tôi nhớ ra bác Chiron đã từng dạy Achilles. Điều đó chính xác không mang lại cho tôi sự tự tin, nhưng tôi gật đầu và cố mỉm cười đầy tự tin với bác ấy.

“Chúng ta đi thôi.” tôi nói với các trại viên.

Một nhân viên an ninh ngồi phía sau một cái bàn ở sảnh, đang đọc một cuốn sách đen lớn có hình một bông hoa trên trang bìa. Anh ta ngước lên khi tất cả chúng tôi đi vào cùng với các loại vũ khí và tiếng kêu lách cách của áo giáp. “Một nhóm học sinh sao? Sắp đến giờ đóng cửa rồi.”

“Không,” tôi đáp. “Tầng sáu trăm.”

Anh ta chăm chú nhìn chúng tôi. Đôi mắt anh ta có màu xanh nhạt và đầu thì hói bóng lưỡng, không̣i tóc. Tôi không thể nói anh ta là người hay là không nữa, nhưng anh ta dường như nhận ra các vũ khí của chúng tôi, vì thế tôi đoán anh ta không bị Màn Sương Mù lừa.

“Không có tầng sáu trăm, nhóc.” Anh ta nói như thể không tin về tầng mà chúng tôi yêu cầu. “Đi chỗ khác chơi.”

Tôi nhoài người lên mặt quầy. “Bốn mươi á thần đủ thu hút đủ các loại quái vật khủng khiếp. Anh thực sự muốn bọn em đứng lãng vãng trong phòng đợi của anh sao?”

Anh ta nghĩ nghĩ về điều đó. Sau đó anh ta nhấn nút và cánh cửa an ninh mở rộng ra. “Vào nhanh đi.”

“Anh không muốn bọn em đi qua máy dò kim loại,” tôi thêm vào.

“Ừm, không,” anh ta đồng ý. “Thang máy bên phải nhé. Tôi cho là cậu biết rõ.”

Tôi ném cho anh ta một đồng vàng drachma và chúng tôi lần lượt theo nhau đi vào.

Chúng tôi quyết định sẽ chia thành hai nhóm để đưa hết được mọi người lên bằng thang máy. Tôi đi cùng nhóm thứ nhất. Nhạc trong thang máy đã được đổi thành bản disco cổ xưa Stayin’ Alive kể từ lần cuối cùng ghé đến đây của tôi. Một hình ảnh khiếp sợ lóe lên trong đầu tôi, đó là hình ảnh thần Apollo mặc quần ống loe và áo sơ mi lụa bó sát.

Tôi vui mừng khi các cánh cửa thang máy cuối cùng cũng mở ra. Trước mặt chúng tôi, một con đường với các phiến đá xuyên qua các đám mây, dẫn đến đỉnh Olympus, đang trôi lơ lửng khoảng gần hai ngàn mét phía trên Manhattan.

Tôi đã nhìn thấy đỉnh Olympus một vài lần, nhưng nó vẫn khiến tôi thấy ngạc nhiên. Các dinh thự trắng và vàng lấp lánh tựa vào các bên của ngọn núi. Các khu vườn khoe sắc rực rỡ ở một trăm mái hiên. Làn khói hương tỏa ra từ các lò than lấp đầy các con đường uốn lượn quanh co. Và ngay phía trên đỉnh núi phủ đầy tuyết là cung điện chính của các vị thần. Nó trông vẫn tráng lệ như vốn có, nhưng có thứ gì đó không đúng. Rồi tôi nhận ra ngọn núi hoàn toàn im lặng – không âm nhạc, không tiếng nói, không một tiếng cười.

Annabeth nhìn tôi đăm đăm. “Cậu trông... khang khác,” cô ấy nhận xét. “Chính xác là cậu đã đi đâu?”

C thang máy lại mở và nhóm con lai thứ hai gia nhập vào nhóm của bọn tôi.

“Sẽ kể cho cậu sau,” tôi nói. “Đi thôi.”

Chúng tôi đi băng qua cây cầu trên không đi vào các con đường của đỉnh Olympus. Các quầy hàng đều đóng cửa. Các công viên vắng tanh. Hai Nàng Thơ ngồi trên ghế dài đang gảy đàn lia, nhưng tâm trí họ để tận đâu đâu. Một Cyclops cô độc quét đường với một cây sồi nhổ bật rễ. Một tiểu thần nhìn thấy chúng tôi từ một ban công và nhanh chóng lùi lại, đóng tất cả các cửa chớp của nhà mình lại.

Chúng tôi đi băng qua bên dưới một cổng vòm bằng đá hoa cương lớn với các bức tượng của thần Zeus và nữ thần Hera ở mỗi bên. Cô ấy nhăn mặt làm trò với nữ hoàng của các vị thần.

“Ghét bà ta,” cô lầm bầm.

“Bà ta vẫn còn nguyền rủa cậu hay làm điều gì đó với cậu sao?” tôi hỏi. Năm ngoái, Annabeth đã để lại ấn tượng xấu với nữ thần Hera, nhưng Annabeth đã thật sự không nói nhiều về chuyện đó.

“Chỉ là những chuyện vặt vãnh không hơn,” cô ấy nói. “Con vật linh thiêng của bà ta là con bò, đúng không?”

“Đúng thế.”

“Bà ta cho lũ bò đuổi theo tớ.”

Tôi cố nín cười. “Các con bò? Ở San Francisco?”

“Ừm, đúng thế. Thường thì tớ không thấy chúng, nhưng chúng đã để lại cho tớ các món quà nhỏ khắp mọi nơi – ở sân vườn sau nhà tớ, trên vỉa hè, trong các hành lang ở trường. Tớ phải thật cẩn thận mỗi khi bước đi.

“Nhìn kìa!” Pollux hét lên, chỉ tay về phía chân trời. “Đó là cái gì?”

Tất cả chúng tôi đứng sững lại. Các ánh chớp xanh đang tỏa ra khắp bầu trời đêm về phía đỉnh Olympus như các sao chổi nhỏ tí xíu. Chúng dường như xuất hiện từ khắp nơi trong thành phố, hướng thẳng về phía ngọn núi. Khi đến gần, chúng phát ra âm thanh xèo xèo. Chúng tôi nhìn chằm chằm chúng trong một vài phút và chúng dường như vô hại, nhưng nó vẫn rất kỳ lạ.

“Như tầm ngắm tia hồng ngoại,” Michael Yew thì thầm. “Chúng ta đều nằm trong tầm ngắm.”

“Chúng ta đi vào trong lâu đài thôi,” tôi giục.

Không ai canh gác đại sảnh của các vị thần. Những cánh cửa bằng vàng và bạc mở toang. Tiếng bước chân của chúng tôi vang vọng khi chúng tôi bước vào phòng ngai.

Tất nhiên, “phòng” không phải từ đúng miêu tả nó. Nơi này có kích thước của nhà thi đấu Madison Square Garden. Tít trên cao là trần nhà màu xanh tỏa sáng lấp lánh với các chòm sao. Mười hai chiếc ngai khổng lồ trống rỗng được sắp đặt theo hình chữ U quanh bếp lửa. Trong một góc phòng, một quả cầu nước có kích thước của một ngôi nhà trôi lơ lửng giữa không trung, và vui sướng bơi lội bên trong là anh bạn cũ Ophiotaurus – nửa bò nửa rắn của tôi.

“Moooo!” nó kêu lên và chuyển động quay tròn đầy vui vẻ.

Bất chấp tất cả những chuyện nghiêm trọng đang diễn ra, tôi bật cười. Hai năm trước đây chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để cứu Ophiotaurus khỏi tay các thần Titan, và tôi đã rất mến nó. Nó dường như cũng mến tôi, dù lúc đầu tôi cứ tưởng nó là con gái và đã đặt tên cho nó là Bessie.

“Này, anh bạn,” tôi nói. “Họ đối xử với cậu vẫn tốt chứ?”

“Mooo,” Bessie kêu lên đồng ý.

Chúng tôi đi về phía các ngai và giọng một người phụ nữ vang lên: “Chào lần nữa, Percy Jackson. Ngươi và các bạn ngươi cứ tự nhiên.”

Nữ thần Hestia đứng bên bếp lửa, đang cời lửa bằng một cây gậy. Nữ thần mặc cùng một kiểu áo đầm màu nâu đơn giản, nhưng giờ bà ấy lại là một người phụ nữ trưởng thành.

Tôi cúi đầu. “Nữ thần Hestia.”

Các bạn tôi đều làm theo tôi.

Nữ thần nhìn tôi chăm chú với đôi mắt cháy đỏ. “Ta thấy ngươi đã hoàn thành kế hoạch của mình. Ngươi đã chấp nhận lời nguyền của

Các trại viên khác bắt đầu thì thầm với nhau: Nữ thần đã nói gì? Chuyện về Achilles là sao nhỉ?

“Ngươi phải cẩn thận,” nữ thần Hestia cảnh báo tôi. “Ngươi đã gặt hái nhiều thành công trên con đường của mình. Nhưng ngươi vẫn không nhìn thấy được sự thật quan trọng nhất. Có thể một cái nhìn thoáng qua là hợp lệ.”

Annabeth huých vào người tôi. “Ừm... nữ thần đang nói về chuyện gì vậy?”

Tôi nhìn chằm vào mắt nữ thần Hestia và một hình ảnh chợt hiện ra trong tâm trí tôi: Tôi nhìn thấy một con hẻm tối tăm ở giữa các kho hàng xây bằng gạch đỏ. Tấm biển phía trên một trong các cánh cửa đề: Xưởng Sắt Richmond.

Hai con lai ẩn mình trong bóng tối – một cậu bé khoảng mười bốn tuổi và một bé gái khoảng mười hai tuổi. Tôi nhận ra ngay cậu bé trai là Luke. Cô bé gái là Thalia, con gái thần Zeus. Tôi đang nhìn thấy cảnh quay trở lại những ngày khi họ bỏ nhà ra đi, trước khi Grover tìm ra họ.

Luke mang theo một cây dao bằng đồng. Thalia đã có ngọn giáo và cái khiên của sự khiếp sợ, Aegis. Cả Luke và Thalia đều trông đói khát và gầy còm, với đôi mắt của loài thú hoang dã, như thể họ quen với việc bị tấn công.

“Anh chắc không?” Thalia hỏi.

Luke gật đầu. “Có thứ gì đó ở bên dưới. Anh cảm nhận được nó.”

Một tiếng động lớn vọng ra từ con hẻm, như thể ai đó vừa đập mạnh vào một tấm kim loại. Hai con lai rón rén đi về phía trước.

Các thùng cũ xếp thành chồng ở một khu vực bốc dỡ hàng. Thalia và Luke tiến lại gần với vũ khí sẵn sàng trên tay. Một bức màn tôn lượn sóng rung lên như thể có thứ gì đó phía sau nó.

Thalia liếc nhìn Luke. Cậu ta đếm thầm: một, hai, ba! Cậu ta kéo tấm tôn ra và một bé gái nhỏ cầm búa xông thẳng vào hắn ta.

“Òa!” Luke nói.

Cô bé có mái tóc vàng rối bời và đang mặc bộ pyjama bằng vải lanh. Tuy mới chỉ lên bảcùng, nhưng nếu Luke không phản ứng nhanh hơn người, cô bé đã đập vỡ sọ hắn.

Luke tóm chặt cổ tay cô bé. Chiếc búa văng ra, trượt ngang trên nền xi măng.

Cô bé gái đấm và đá. “Không thêm yêu quái nào nữa! Cút đi!”

“Được rồi!” Luke phải vất vả mới ôm chặt cô bé. “Thalia, cất khiên của em đi. Em làm cô bé sợ!”

Thalia vỗ nhẹ cái khiên Aegis và nó thu lại vào trong chiếc vòng đeo tay bằng bạc. “Này, mọi việc ổn cả,” cô ấy nói. “Anh chị sẽ không làm hại em đâu. Chị là Thalia. Còn đây là anh Luke.”

“Yêu quái!”

“Không đâu,” hắn cam đoan. “Nhưng bọn anh biết rõ về các tên quái vật. Bọn anh cũng đã đánh nhau với chúng nữa.”

Dần dần, cô bé ngừng không đá đấm gì nữa. Cặp mắt xám to tròn thông minh chăm chú nhìn Luke và Thalia.

“Hai người giống em?” cô bé hỏi đầy ngờ vực.

“Đúng vậy,” Luke đáp. “Chúng ta... ừm, hơi khó giải thích, nhưng chúng ta là các chiến binh diệt yêu quái. Gia đình em ở đâu?”

“Gia đình em ghét em,” cô bé nói. “Họ không muốn em. Em đã bỏ nhà đi.”

Thalia và Luke nhìn nhau. Tôi biết cả hai người họ đều hiểu những gì cô bé đang nói.

“Nhóc tên gì?”

“Annabeth.”

Luke mỉm cười. “Tên dễ thương đấy. Anh nói với em điều này nhé, Annabeth – em thật là dũng cảm. Bọn anh có thể dùng một chiến binh như em.”

Mắt Annabeth mở to háo hức. “Anh có thể làm thế sao?”

“Ờ, đúng thế.” Luke xoay cây dao của mình lại và chìa cán dao về phía cô bé. “Em thích vũ khí giết chết một con quái vật thật sự như thế nào? Đây là đồng celestial. Hiệu quả hơn nhiều so với dùng búa

Trong phần lớn các tình huống, việc đưa dao cho một đứa bé bảy tuổi sẽ không phải là một ý kiến hay, nhưng khi bạn là con lai, thì các nguyên tắc thông thường lại không được xem xét đến. Annabeth nắm chặt cán dao.

“Các con dao chỉ dành cho các chiến binh dũng cảm nhất, nhanh nhẹn nhất,” Luke giải thích. “Chúng không có tầm với hay sức mạnh của một thanh kiếm, nhưng chúng dễ dàng giấu đi và chúng có thể tìm thấy các điểm yếu trên áo giáp kẻ thù của em. Chỉ có chiến binh thông minh mới sử dụng được dao. Anh có cảm giác là em khá là thông minh.”

Annabeth nhìn hắn ta với sự tôn sùng. “Em biết!”

Thalia cười. “Tốt hơn hết chúng ta nên đi thôi, Annabeth. Bọn chị có một ngôi nhà ở an toàn ở James River. Bọn chị sẽ lấy cho em một ít quần áo và đồ ăn.”

“Hai người... hai người sẽ không mang em quay về lại nhà đúng không?” cô bé nói. “Hứa nhé?”

Luke đặt tay lên vai cô bé. “Giờ em là một thành viên trong gia đình của chúng ta. Và anh hứa sẽ không để bất cứ điều gì làm hại đến em. Anh sẽ không bỏ rơi em như gia đình của chúng ta đã làm với chúng ta. Thỏa thuận nhé?”

“Thỏa thuận!” Annabeth nói đầy vui vẻ.

“Giờ thì đi thôi,” Thalia giục. “Chúng ta không thể ở lại đây quá lâu!”

Cảnh thay đổi. Cả ba á thần đang chạy xuyên qua các cánh rừng. Đây chắc là một vài ngày sau, thậm chí nhiều tuần sau lần gặp đầu tiên. Cả ba người họ trông mệt lử như họ vừa trải qua một vài trận chiến. Annabeth mặc quần áo mới – quần jeans và một chiếc áo khoác quân phục to quá khổ.

“Chỉ thêm một chút nữa thôi!” Luke cam đoan. Annabeth trượt chân và hắn ta đã chộp được tay cô bé. Thalia đã lấy cây giáo ra, khua khua cái khiên như thể cô ấy đang đẩy lùi bất cứ thứ gì đuổi theo họ. Cô ấy đang bị thương ở chân trái.

Họ trèo lên một mỏm đá và nhìn xuống căn nhà kiểu thuộc địa màu trắng – nhà bà May Castellan.

“Được rồi,” Luke vừa nói vừa thở hổn hển. “Anh sẽ lẻn vào, lấy ít đồ ăn, thuốc men. Chờ ở đây.”

“Luke, anh chắc không?” Thalia hỏi. “Anh đã thề sẽ không bao giờ quay về đây nữa mà. Lỡ bà ấy bắt được anh...”

“Chúng ta không có lựa chọn!” hắn ta càu nhàu. “Chúng đã đốt căn nhà an toàn gần nhất của chúng ta. Em cần phải chữa vết thương ở chân trái.”

“Đây là nhà anh sao?” Annabeth nói với sự kinh ngạc.

“Đó đã từng là nhà anh,” Luke lẩm bẩm. “Tin anh đi, nếu phải trường hợp khẩn cấp thì...”

“Mẹ anh thật sự đáng ghét đến thế sao?” Annabeth hỏi. “Chúng ta có thể gặp bà ấy không?”

“Không!” Luke nói cộc lốc.

Annabeth bước lùi lại, tránh khỏi Luke, như thể sự tức giận của hắn ta khiến cô sửng sốt.

“Anh... anh xin lỗi,” hắn ta nói. “Chờ anh ở đây nhé. Anh hứa mọi chuyện sẽ ổn thôi. Sẽ không có gì làm tổn hại đến cả hai đứa. Anh sẽ quay lại...”

Một ánh sáng vàng chói lọi chiếu sáng cả khu rừng. Ba á thần nhăn mặt, và giọng một đàn ông ồm ồm vang lên. “Ngươi không nên quay về nhà.”

Cảnh mộng vụt tắt.

Đầu gối tôi oằn xuống, nhưng Annabeth đã tóm được tôi. “Percy! Chuyện gì đã xảy ra thế?”

“Cậu... cậu có nhìn thấy chuyện đó không?” tôi hỏi.

“Thấy gì cơ?”

Tôi liếc nhìn nữ thần Hestia, nhưng khuôn mặt của nữ thần chẳng biểu hiện điều gì. Tôi nhớ lúc trong rừng, nữ thần đã bảo tôi: Nếu ngươi muốn hiểu được Luke – kẻ thù của mình, ngươi phải hiểu rõ về gia đình của hắn ta. Nhưng sao nữ thần lại cho tôi nhìn thấy các cảnh đó?

“Tớ ngất lâu trong bao lâu?” tôi thì thầm.

Annabeth nhíu mày. “Percy, cậu chẳng ngất đi gì cả. Cậu chỉ nhìn vào mắt nữ thần Hestia trong khoảng một giây và rồi khuỵu người xuống.”

Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt của mọi người đều đang đổ dồn vào tôi. Tôi không thể tỏ ra yếu đuối. Dù các cảnh mộng đó có ngụ ý gì đi chăng nữa, tôi vẫn phải tập trung cho nhiệm vụ của chúng tôi.

“Ừm, thưa nữ thần Hestia,” tôi nói, “chúng tôi đến vì có việc khẩn. Chúng tôi muốn gặp...”

“Chúng ta biết ngươi muốn gì,” giọng một đàn ông vang lên. Tôi run rẩy, vì nó giống hệt giọng nói tôi đã nghe được trong cảnh mộng.

Một vị thần tỏa sáng xuất hiện kế bên nữ thần Hestia. Vị thần trông khoảng hai mươi lăm tuổi, với mái tóc muối tiêu quăn tít và nét mặt tinh nghịch. Ông mặc quân phục của phi công lái máy bay chiến đấu, với một đôi cánh chim nhỏ đang vẫy vẫy trên chiếc mũ sắt và sau gót giày ống da đen của ông. Trong cánh tay đang gập lại của ông là một cây quyền trượng dài với hai con rắn còn sống quấn quanh.

“Giờ tôi để lại cho ngài,” nữ thần Hestia nói. Nữ thần cúi chào với viên phi công và biến mất trong làn khói. Tôi hiểu tại sao nữ thần lại lo lắng bỏ đi như thế. Thần Hermes, thần của những người đưa tin, trông không được vui cho lắm.

“Chào, Percy.” Đôi mày của ông ấy nhăn lại như thể đang khó chịu với tôi, và tôi tự hỏi liệu ông ấy đã biết được về cảnh mộng mà tôi vừa mới nhìn thấy. Tôi muốn hỏi sao ông ấy lại ở nhà bà May Castellan vào đêm hôm đó và chuyện gì đã xảy ra sau khi ông ấy bắt được Luke. Tôi nhớ lần đầu tiên khi tôi gặp Luke ở Trại Con Lai. Tôi đã hỏi hắn ta xem liệu hắn có bao giờ gặp cha của mình chưa, và hắn ta nhìn tôi đầy chua xót và nói: Một lần. Nhưng tôi có thể nói từ vẻ mặt của thần Hermes rằng đây không phải là lúc để hỏi.

Tôi ngượng ngập cúi đầu. “Thần Hermes!”

Ồ, chắc rồi, một trong hai con rắn nói trong đầu tôi. Không nói chào với bọn ta. Bọn ta chỉ là loài bò sát mà thôi.

George, con rắn còn lại quát. Phải lịch sự.

“Chào, George,” tôi nói. “Chào, Martha.”

Ngươi không mang cho bọn ta một con chuột sao? George hỏi.

George, ngừng ngay, Martha nói. Cậu ta đang bận rộn!

Quá bận không thể bắt chuột sao? George nói. Điều đó mới buồn làm sao.

Tôi quyết định tốt hơn là không nên đôi co với George về đề tài đó. “Ừm, thần Hermes,” tôi nói. “Bọn cháu cần nói chuyện với thần Zeus. Điều này rất quan trọng.”

Đôi mắt thần Hermes lạnh lùng, đầy nghiêm khắc. “Ta là người đưa tin cho thần Zeus. Liệu ta có thể nhận lời nhắn đó không?”

Phía sau tôi, các á thần khác sốt ruột đổi tư thế. Chuyện này nằm ngoài dự tính ban đầu. Có lẽ tôi nên thử nói chuyện riêng với thần Hermes...

“Các cậu,” tôi nói. “Sao các cậu không đi một vòng quanh thành phố nhỉ? Kiểm tra các hàng rào phòng thủ. Xem thử còn vị thần nào còn ở lại trên đỉnh Olympus không. Rồi đến gặp Annabeth và tớ ở đây trong ba mươi phút nữa nhé.”

Silena cau mặt. “Nhưng...”

“Đó là một ý tưởng rất hay,” Annabeth ngắt lời. “Connor và Travis, hai người dẫn đầu nhé.”

Anh em nhà Stoll dường như rất thích điều đó – được giao trách nhiệm quan trọng ngay trước mặt cha của họ. Họ không bao giờ được dẫn đầu trong bất cứ trận đánh nào ngoại trừ các trận chiến ném giấy toilet. “Bọn tớ đã sẵn sàng!” Travis nói. Họ đưa các trại viên khác ra khỏi phòng ngai, để lại Annabeth và tôi cùng với thần Hermes.

“Thưa thần,” Annabeth mở lời. “Kronos sắp tấn công vào New York. Ngài ắt đã nghi ngờ về điều đó. Mẹ cháu nhất định đã đoán trước việc này.”

“Mẹ của ngươi,” thần Hermes cằn nhằn. Ông gãi lưng bằng cây quyền trượng, và George cùng Martha càu nhàu, Ôi, ôi, ôi. “Đừng chọc tức ta với mẹ ngươi, quý cô trẻ đẹp. Bà ta là lý do cho việc ta phải ở đây. Thần Zeus không muốn bất cứ ai rời tiền tuyến. Nhưng mẹ ngươi không ngừng quấy rầy ông ấy, ‘Đây là một cái bẫy, đây là một chiến thuật nghi binh, blah, blah, blah.’ Bà ta muốn tự mình quay về, nhưng thần Zeus sẽ không thể để nhà chiến lược số một của mình rời khỏi ông ấy khi bọn ta đang chiến đấu chống lại Typhon. Và vì thế, tất nhiên, ông ta gửi ta về nói chuyện với các ngươi.”

“Nhưng nó đúng là một cái bẫy!” Annabeth khăng khăng. “Thần Zeus bị mù sao?”

Tiếng sấm rền vang khắp bầu trời.

“Ta sẽ thận trọng với các lời chỉ trích, cô gái,” thần Hermes cảnh cáo. “Thần Zeus không mù hay điếc. Ông ấy không để đỉnh Olympus hoàn toàn không chút phòng vệ.”

“Nhưng có các tia chớp xanh...”

“Rồi, rồi. Ta có thấy. Ta đánh cuộc đó chỉ là một vài trò tinh nghịch được thực hiện bởi nữ thần ma thuật quá quắt, Hecata, nhưng các ngươi có thể đã nhận ra chúng hoàn toàn vô hại. Đỉnh Olympus có các khu vực phép thuật mạnh mẽ. Ngoài ra, Aeolus, vua của các ngọn gió, đã gởi đến các thuộc hạ mạnh mẽ nhất của ông ta để bảo vệ thành trì. Ngoài các vị thần ra, không ai có thể đi vào đỉnh Olympus từ không trung. Họ sẽ bị đánh bật khỏi bầu trời.”

Tôi đưa tay lên. “Ừm... thế còn việc hiện ra/dịch chuyển mà các thần hay làm thì sao?”

“Đó cũng là một hình thức di chuyển trong không khí, Jackson. Rất nhanh, nhưng các thần gió còn nhanh hơn. Không – nếu Kronos muốn đỉnh Olympus, hắn ta phải tiến quân qua cả thành phố và sử dụng các thang máy! Các ngươi có thấy hắn làm điều đó không?”

Giọng thần Hermes khiến điều đó nghe khá là lố bịch: từng nhóm hai mươi quái vật đi thang máy mỗi lần, lắng nghe bản nhạc Stayin’ Alive. Tuy nhiên, tôi không thích điều đó.

“Có lẽ một vài người trong số các thần có thể quay trở lại,” tôi gợi ý.

Thần Hermes sốt ruột lắc đầu. “Percy Jackson, ngươi không hiểu. Typhon là kẻ thù lớn nhất của bọn ta.”

“Cháu nghĩ là Kronos mới phải chứ.”

Đôi mắt của vị thần phát sáng. “Không đâu, Percy. Từ những ngày xa xưa, đỉnh Olympus gần như bị lật đổ bởi Typhon. Hắn ta là chồng của Echidna...”

“Đã gặp bà ta ở cổng Arch,” tôi làu bàu. “Không tốt.”

“... và là cha của mọi quái vật. Bọn ta sẽ không bao giờ quên việc hắn đã gần như tiêu diệt hết tất cả – cách hắn ta làm bẽ mặt bọn ta! Giờ chúng ta mạnh hơn nhiều so với những ngày xa xưa kia. Giờ chúng ta không mong đợi sự giúp đỡ từ thần Poseidon vì ông ấy còn có trận đánh của riêng mình. Thần Hades vẫn ngồi trong vương quốc riêng và chẳng làm gì, còn Demeter và Persephone thì chỉ biết làm theo lệnh ông ta. Điều đó dẫn đến việc bọn ta phải sử dụng tất cả sức mạnh để đối phó với tên khổng lồ bão đó. Bọn ta không thể chia tách lực lượng, hoặc phải chờ cho đến khi hắn ta đến được New York. Chúng ta phải chiến đấu với hắn ngay lúc này. Và chúng ta đang có các tiến triển tốt.”

“Tiến triển tốt?” tôi nói. “Hắn ta gần như phá hủy cả St. Louis.”

“Đúng thế,” thần Hermes thừa nhận. “Nhưng hắn ta chỉ phá hủy một nửa Kentucky mà thôi. Hắn ta đang chậm lại. Đang mất dần sức mạnh.”

Tôi không muốn tranh cãi, nhưng nghe có vẻ như thần Hermes đang tự lên dây cót tinh thần cho chính mình mà thôi.

Trong góc phòng, con Ophiotaurus kêu lên đầy buồn bã.

“Làm ơn, thần Hermes,” Annabeth nói. “Ngài nói mẹ cháu đã muốn quay về. Vậy bà có nhờ ngài gửi cho bọn cháu bất cứ thông điệp nào không ạ?”

“Các thông điệp,” ông ấy lẩm bẩm. “ ‘Đó là một công việc thật tuyệt,’ họ đã bảo với ta như thế. ‘Không nhiều việc lắm. Có lắm người thờ cúng.’ Hừm. Không ai quan tâm đến những gì ta nói. Đó luôn là các thông điệp của những người khác.”

Loài gặm nhấm, George nghĩ. Ta không được loài gặm nhấm yêu thích.

Shhh, Martha gắt gỏng. Chúng ta quan tâm đến những gì thần Hermes nói. Đúng không George ?

Ồ, đúng như thế. Chúng ta có thể quay lại trận chiến ngay bây giờ không? Tôi muốn thực hiện lại chế độ laser đó. Điều đó cực kỳ vui nhộn.>

“Im lặng, cả hai đứa,” thần Hermes gầm lên.

Thần nhìn Annabeth, người hiện đang nhìn ông bằng đôi mắt xám to đang nài xin.

“Ừm,” thần Hermes nói. “Mẹ ngươi nói rằng ‘Các ngươi phải tự thân vận động. Các ngươi phải giữ Manhattan mà không có sự giúp đỡ của các vị thần.’ Như thể ta không biết điều đó vậy. Sao mọi người lại ca tụng bà ta là nữ thần thông thái, ta thật không sao hiểu nổi.”

“Còn gì nữa không ạ?” Annabeth hỏi.

“Bà ta còn nói ngươi nên thử kế hoạch hai mươi ba. Bà ta nói ngươi sẽ biết được điều đó có nghĩa là gì.”

Mặt Annabeth trở nên xanh mét. Chắc chắn, cô ấy hiểu điều đó có nghĩa là gì, và cô ấy không thích nó lắm. “Thần cứ nói tiếp đi ạ.”

“Điều cuối cùng.” Thần Hermes nhìn tôi. “Bà ta nói, nói với Percy: ‘Hãy nhớ các dòng sông.’ Và, ừm... điều gì đó về việc tránh xa con gái bà ta ra.”

Tôi không chắc mặt ai đỏ hơn: của Annabeth hay là của tôi.

“Cảm ơn, thần Hermes,” Annabeth nói. “Và cháu... cháu muốn nói... cháu lấy làm tiếc về chuyện của anh Luke.”

Khuôn mặt thần đanh lại như thể ông ấy biến thành đá cẩm thạch. “Ngươi lẽ ra không nên nhắc đến chủ đề đó.”

Annabeth hốt hoảng bước lùi lại. “Xin lỗi?”

“XIN LỖI cũng chẳng làm được gì!”

George và Martha cuộn tròn quanh cây quyền trượng, giờ đang tỏa sáng và biến đổi thành thứ gì đó trông khá giống với cây gậy đuổi gia súc điện áp cao.

“Ngươi lẽ ra nên cứu nó khi ngươi có cơ hội,” thần gào lên với Annabeth. “Ngươi là người duy nhất có thể làm điều đó.”

Tôi bước lên giữa hai người họ. “Người đang nói chuyện gì vậy? Annabeth không...”

“Đừng bảo vệ cô ta, Jackson!” thần Hermes quay gậy đuổi gia súc về phía tôi. “Cô ta biết chính xác những gì ta đang nói.”

“Có lẽ người nên tự trách chính mình ấy!” Tôi biết lẽ ra mình nên im miệng lại, nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ là lôi kéo sự chú ý của ông ấy khỏi Annabeth. Hóa ra từ đầu đến giờ, ông ấy không giận dữ với tôi. Ông ấy tức giận cô ấy. “Có lẽ nếu người không bỏ rơi Luke và mẹ anh ta!”

Thần Hermes nâng cây gậy đuổi gia súc lên. Ông ấy bắt đầu biển đổi cho đến khi ông ấy cao cỡ hơn ba mét. Tôi nghĩ: Ừm, tốt thôi.

Nhưng ngay khi ông ấy chuẩn bị tấn công, George và Martha ghé sát vào và thì thầm vào tai ông ấy điều gì đó.

Thần Hermes nghiến răng. Ông ấy hạ cây gậy đuổi gia súc xuống và nó lại biến trở về thành cây quyền trượng.

“Percy Jackson,” ông ấy nói, “vì cháu đã chấp nhận lời nguyền của Achilles nên ta tha cho đó. Giờ sinh mạng cháu do ba Nữ thần Mệnh quyết định. Nhưng cháu sẽ không bao giờ được nói với ta kiểu như thế lần nữa. Cháu không biết ta đã phải hy sinh như thế nào, ta...”

Giọng thần nghẹn ngào và ông ấy quay trở lại hình dáng của con người. “Con trai của ta, niềm tự hào lớn nhất của ta.... May tội nghiệp của ta...”

Ông ấy trông khổ sở đến nỗi tôi không biết phải nói gì. Một phút trước ông ấy sẵn sàng làm cho chúng tôi bốc hơi. Giờ ông ấy lại trở nên yếu đuối, cần một người an ủi.

“Nghe này, thần Hermes,” tôi nói. “Cháu xin lỗi, nhưng cháu cần phải biết. Chuyện gì đã xảy ra với bác May? Bà ấy đã nói điều gì đó về số mệnh của Luke, và đôi mắt của bác ấy...”

Thần Hermes nhìn tôi trừng trừng và giọng tôi trở nên ấp a ấp úng. Tuy thế nét mặt ông ấy không phải là sự giận dữ. Đó là sự đau đớn – nỗi đau sâu kín, không thể nào hình dung được.

“Ta sẽ để các ngươi ở lại,” ông ấy nói một cách khó khăn. “Ta còn có một cuộc chiến đang chờ đợi.”

Ông ấy bắt đầu tỏa sáng. Tôi quay người lại và chắc rằng Annabeth cũng đã làm thế, vì cô ấy vẫn đang đông cứng người vì sốc.

Chúc may mắn, Percy, con rắn có tên Martha thì thầm.

Thần Hermes tỏa sáng rực rỡ với ánh sáng của một ngôi sao băng. Sau đó ông ấy biến mất.

Annabeth ngồi ở chân ngai mẹ cô ấy và khóc. Tôi muốn ai ủi cô ấy, nhưng tôi không chắc lắm về việc làm như thế nào.

“Annabeth,” tôi nói, “đó không phải là lỗi của... Tớ chưa bao giờ thấy thần Hermes cư xử như thế. Tớ đoán... tớ cũng không biết nữa... chắc ông ấy cảm thấy có lỗi về chuyện của Luke. Ông ấy chỉ đang tìm ai đó để đổ lỗi đấy mà. Tớ không biết tại sao ông ấy trách mắng cậu. Cậu đã không làm bất cứ điều gì để đáng phải chịu chuyện đó.”

Annabeth lau nước mắt. Cô ấy nhìn chăm chăm vào đống lửa như thể đó là giàn thiêu của chính mình.

Tôi bứt rứt chuyển chuyển chân. “Ừm, cậu đã không làm, đúng không?”

Cô ấy không trả lời tôi. Con dao bằng đồng celestial của cô ấy được cột vào cánh tay cô – là con dao tôi đã nhìn thấy trong cảnh mộng của nữ thần Hestia. Trong chừng ấy năm trôi qua, tôi đã không nhận ra nó chính là món quà của Luke. Tôi đã nhiều lần hỏi sao cô ấy lại thích dùng dao để chiến đấu thay cho kiếm, và cô ấy không bao giờ trả lời câu hỏi đó của tôi. Giờ thì tôi đã rõ.

“Percy,” cô ấy nói. “Lúc nãy cậu nói về mẹ Luke là có ý gì? Cậu gặp bác ấy sao?”

Tôi miễn cưỡng gật đầu. “Nico và tớ đã ghé thăm bác ấy. Bác ấy có hơi chút... không bình thường. Tôi mô tả bà May Castellan, và khoảnh khắc kỳ lạ khi đôi mắt bà ấy phát sáng và bà ấy nói về số phận con trai mình.

Annabeth cau mày. “Điều đó không đúng. Nhưng sao cậu lại ghé...” Mắt cô ấy mở lớn. “Thần Hermes đã nói cậu chịu lời nguyền của Achilles. Nữ thần Hestia cũng bảo thế. Thế cậu đã... cậu đã tắm trong dòng Sông Styx?”

“Đừng đổi đề tà“Percy! Cậu có hay không?”

“À... chỉ là một chút thôi.”

Tôi kể cho cô ấy nghe về thần Hades và Nico, về chuyện tôi đã xóa sổ đội quân người chết như thế nào. Tôi bỏ qua đoạn tôi mơ thấy Annabeth kéo tôi ra khỏi dòng sông. Tôi vẫn không hiểu rõ lắm về phần đó, và chỉ nghĩ đến nó thôi cũng khiến tôi ngượng chín người.

Cô ấy lắc đầu đầy hoài nghi. “Cậu có hình dung được điều đó nguy hiểm như thế nào không?”

“Tớ không còn lựa chọn nào khác,” tôi nói. “Đó là cách duy nhất tớ có thể đối đầu với Luke.”

“Ý cậu là... trở nên bất tử, đúng là vậy rồi! Đó là lý do vì sao Luke đã không chết. Anh ấy đã đến sông Styx, rồi... Ôi, không, Luke. Anh đang nghĩ gì vậy?”

“Vậy giờ cậu lại lo lắng cho Luke,” tôi càu nhàu.

Cô ấy nhìn tôi chằm chằm như thể tôi vừa mới rớt xuống từ một hành tinh nào đó. “Cậu mới nói gì?”

“Quên đi,” tôi lẩm bẩm. Tôi tự hỏi ý của thần Hermes là gì khi đề cập đến việc Annabeth không cứu Luke khi cô ấy có cơ hội. Rõ ràng là cô ấy đã không nói cho tôi biết điều gì đó. Nhưng vào lúc đó, tôi không có tâm trạng để hỏi. Điều cuối cùng tôi muốn được nghe là thêm nhiều hơn nữa lịch sử của cô ấy với Luke.

“Vấn đề là hắn đã không chết trong dòng sông Styx,” tôi nói. “Tớ cũng thế. Giờ tớ phải đối đấu với hắn. Chúng ta cùng bảo vệ đỉnh Olympus.”

Annabeth vẫn đang nhìn chằm chằm vào mặt tôi, như thể cô ấy đang cố tìm ra các điểm khác biệt sau khi tôi tắm trong Sông Styx. “Tớ đoán cậu nói đúng. Mẹ tớ đã nhắc đến...”

“Kế hoạch hai mươi ba.”

Cô ấy mò mẫm trong balô là lấy chiếc laptop của Daedalus. Biểu tượng Delta chớp sáng trên mặt chiếc laptop. Cô mở một vài tập tin và bắt đầu chăm chú đọc.

“Tìm ra rồi,” cô ấy nói. “Thánh thần ơi, chúng ta có rất nhiều việc phải là

“Một trong các sáng kiến của Daedalus à?”

“Rất nhiều các sáng kiến... có những cái rất nguy hiểm nữa. Nếu mẹ tớ muốn tớ sử dụng kế hoạch đó, bà ắt đã nghĩ mọi việc sẽ rất tồi tệ.” Cô ấy nhìn tôi. “Thế còn thông điệp của bà ấy với cậu: ‘hãy nhớ các con sông’ thì sao hả? Điều đó có nghĩa là gì?”

Tôi lắc đầu. Như mọi khi, tôi không thể giải thích được điều mà các thần đang nói với tôi. Tôi phải nhớ các con sông nào đây? Sông Styx? Sông Mississippi?

Ngay lúc ấy, anh em nhà Stoll chạy ùa vào phòng ngai. Connor hổn hển:

“Các cậu cần phải thấy điều này,” Connor nói. “Ngay bây giờ.”

Các tia sáng xanh trên bầu trời tắt hẳn, vì thế lúc đầu tôi không biết có chuyện gì đã xảy ra.

Các trại viên khác đã tập hợp lại trong một công viên nhỏ ở rìa chân núi. Họ tập trung ở thành lan can, đang nhìn xuống Manhattan. Dọc lan can xếp đầy các ống nhòm tầm xa, loại dành cho khách du lịch. Bạn có thể bỏ vào một đồng vàng drachma, và có thể quan sát toàn thành phố. Các trại viên đang dùng hết ống nhòm trên lan can.

Tôi nhìn xuống thành phố. Từ đây tôi có thể thấy phần lớn mọi thứ bên dưới – Sông Đông và Sông Hudson hợp nhau tạo thành hình dáng của Manhattan, mạng lưới đường phố đan xen nhau, bóng tối trãi dài của Công viên Central Park ở phía bắc. Mọi thứ trông có vẻ bình thường, nhưng có gì đó không ổn. Tôi cảm nhận rõ điều đó trước khi tôi nhận ra đó là gì.

“Tớ không... nghe thấy gì hết,” Annabeth nói.

Bất ổn chính ở đó.

Thậm chí ở độ cao này, tôi sẽ phải nghe được tiếng ồn của thành phố – tiếng của hàng triệu người hối hả đi lại, tiếng của hàng vạn xe hơi và máy móc các loại – tiếng ngân nga của một đô thị rộng lớn. Bạn không nghĩ về điều đó khi bạn sống ở New York, nhưng nó luôn ở đó. Ngay cả lúc nửa đêm, New York vẫn không bao giờ im lặng.

Nhưng lúc này, điều đó lại

Tôi có cảm giác như thể một người có bạn thân của mình đột nhiên lăn ra chết.

“Chúng đã làm gì?” Giọng tôi đanh lại, đầy giận dữ. “Chúng đã làm gì thành phố của tôi?”

Tôi đẩy Michael Yew ra và chiếm lấy ống nhòm của cậu ta.

Trên các con đường bên dưới, các phương tiện giao thông đứng khựng lại. Khách bộ hành nằm trên các vỉa hè, hay cuộn tròn ở các cửa. Không hề thấy dấu hiệu của bạo lực, hay phá hoại, không hề. Đơn giản như thể mọi người ở New York đồng loạt quyết định ngừng bất cứ việc gì họ đang làm và lăn ra ngủ.

“Họ chết cả rồi ư?” Silena hỏi với sự kinh ngạc.

Tôi lạnh toát cả người. Một câu trong đoạn tiên tri vang lên bên tai tôi. Và nhìn thế giới trong giấc ngủ triền miên. Tôi nhớ lại câu chuyện của Grover về việc gặp thần Morpheus ở Central Park. May cho ngươi là ta đang cần giữ sức cho trận chính.

“Không chết,” tôi nói. “Thần Morpheus đã làm cho mọi người trên đảo Manhattan chìm vào giấc ngủ. Cuộc xâm lược đã bắt đầu.”