Nữ Thám Tử Nancy Drew - Không Dấu Vết

Chương 3: Cuộc gọi cầu cứu




TÔI GIẬT MÌNH HÁ HỐC MIỆNG trước cảnh tượng không hề mong đợi ấy, hình ảnh những dây bí bị dập nát nhảy múa trong đầu. “Chú đang làm gì với cái đó thế?”

Chú Harold Safer chớp mắt, có phần bối rối trước phản ứng của tôi. “Chú đang làm gì với cái gì cơ?” chú hỏi, liếc nhìn cái vồ và thở dài. “À, cháu bảo cái này ấy hà? Chú đang cố treo một cái thanh màn cửa trong bếp, nhưng hôm nay cứ lóng nga lóng ngóng, làm mãi chẳng được.”

“Chú định treo màn bằng thứ đó á?” Bess hỏi. “Chẳng trách mà lại vất vả thế. Có lẽ cháu giúp được đấy, chú có thùng dụng cụ không?”

Chú Safer có vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn ra hiệu mời bọn tôi vào. “Có, ở dưới hầm,” chú nói với Bess.

Con bé gật đầu, “Cháu quay lại ngay,” vừa dứt lời nó đã biến mất xuống hành lang.

“Cô bé có biết mình đang làm gì không vậy?” chú Safer hỏi George và tôi, vẫn còn vẻ ngạc nhiên.

“Biết chắc luôn ấy chứ ạ,” George cam đoan. “Bess là thiên tài về các loại dụng cụ đấy - mà dụng cụ thì không chỉ là mấy cái cọ trang điểm thôi đâu.”

Tôi gật đầu. Hầu hết mọi người đều ngạc nhiên khi phát hiện ra Bess là người tháo vát thế nào. Trông bạn tôi có vẻ ngoài giống cái kiểu con gái mà việc thay một cái bóng đèn thôi cũng là cả một khó khăn to lớn, nhưng kỳ thực, Bess có một khả năng bẩm sinh lạ lùng trong chuyện sửa chữa đồ đạc, từ cái lò nướng bánh bị kẹt cho đến cái ô tô bị chết máy. Nó làm được tất. Một thanh treo màn đối với nó chỉ là cái bánh con con, có đáng là gì.

“Chú đừng lo, chú ạ,” tôi thêm vào. “Bạn ấy sẽ làm xong ngay thôi mà.”

“Được thế thì may quá có cô bé ở đây,” chú Safer nói, rồi dẫn chúng tôi xuống bếp ở sau nhà. “Không treo được cái màn đó thì chú đến phát điên mất. Chú cứ tưởng đâu chỉ mất một phút thôi; còn phải quay lại làm việc nữa chứ. Đã thế lại còn cái tên hàng xóm gàn dở cứ trừng trừng liếc sang đây mỗi lần chú vô bếp. Tin nổi không, chỉ vì có kẻ nào đó phá tanh bành khu vườn của hắn thế là hắn nghĩ ngay chú là thủ phạm. Phải chi các cháu thấy cảnh tối qua - hắn ra ngoài nhổ cỏ, và nhìn chú bẩn thỉu đến nỗi chú muốn đi tắm ngay lập tức!”

Chúng tôi vào bếp. Căn bếp rộng rãi và sạch sẽ, những bức tường trắng được trang trí bằng áp phích của các buổi diễn tại nhà hát Broadway lồng trong khung. Những cửa sổ lớn nhìn ra sân sau và sân bên hông nhà. Một thanh treo màn bằng đồng sáng bóng, một bộ màn bằng vải lanh, nhiều cây đinh cong queo, và một đống bụi nhỏ đang nằm trên sàn nhà - dưới cửa sổ bên hông.

“Vâng, bọn cháu cũng nghe về chuyện mấy dây bí rồi,” tôi nói. “Thật ra, chính vì thế mà bọn cháu đến đây, để tìm kẻ nào đã thật sự gây ra chuyện đó.”

“Thế hả? Tốt lắm,” chú Safer vừa nói vừa ngồi phịch xuống một cái ghế đẩu cao bên quầy bếp. “Vì tới giờ phút này chú sợ phải đi ra ngoài lắm rồi!”

Tôi biết câu nói ấy có hơi quá, nhưng nó nhắc tôi cần phải xem xét vụ bí ẩn này một cách nghiêm túc, ngay cả khi tụi bạn tôi không thèm quan tâm đi chăng nữa. Một mối giao hảo xóm giềng đang bị đe dọa. Nếu giờ vì ông Geffington mà chú Safer phải treo một tấm màn làm che khuất một phần tầm ngắm cảnh quý báu của mình thì mọi việc hẳn đã tồi tệ lắm rồi.

Ngay lúc đó Bess bước vào, tay cầm một cái búa nhỏ và vài dụng cụ khác. “Chúng ta bắt đầu thôi,” nó vui vẻ nói. “Thứ này được việc hơn cái vồ hồi nãy nhiều đấy ạ. Nào, George, phụ em một tay.”

Khi hai chị em họ bắt tay vào làm việc, tôi ngồi cạnh chú Safer bên quầy. “Chú có thể trả lời giúp cháu vài câu được không ạ?” tôi lên tiếng.

“Cứ hỏi đi, Nancy,” chú nhún vai. “Chú chẳng có gì phải giấu cháu hay bất kỳ ai cả, dù cái tên láng giềng thiếu suy nghĩ bị bí ngòi ám kia có nói thế nào đi chăng nữa. Lời buộc tội của hắn quả thật buồn cười. Cháu có thể tưởng tượng ra cảnh chú lẻn vào vườn nhà hắn trong đêm tối, tay cầm một cái dùi cui thô thiển và đập phá đám rau củ quý báu của hắn không? Dẫu vậy cảnh tượng đó cũng khiến chú nhớ đến câu đùa tếu xưa kia: Bạn sẽ được gì khi một con voi bước qua vườn nhà bạn?”

“Được gì ạ?” tôi hỏi.

“Nát bét[4]!” chú Safer cười.

“Đúng là thế thật,” tôi lịch sự cười theo. Có thể nhận thấy, như thường lệ, thật khó mà ngắt lời một khi chú Safer đã bắt đầu nói. “Chú có thấy hay nghe được điều gì bất thường hồi tối thứ Ba không ạ?”

[4] Chơi chữ, nguyên gốc “Squash” trong tiếng Anh vừa có nghĩa quả bí, vừa có nghĩa là bị đạp nát bét.

“Chẳng gì cả,” chú nhún vai. “Chú nhớ tối hôm đó ngắm hoàng hôn xong là chú vào nhà ngay và nghe vở Fiddler on the Roof[5]. Đó là một trong những vở chú thích nhất nên đã mở âm thanh khá to. Thật ra, chú gần như không nghe thấy cả tiếng chuông cửa khi cô Zucker và nhóc Owen ghé qua sau bữa ăn tối để vận động tiền cho Ngày Hội Đe Búa nữa cơ mà. Cho nên, dĩ nhiên là chú chẳng nghe thấy gì đang xảy ra ở nhà kế bên, trừ phi có đại bác nổ thì còn may ra.”

[5] Tạm dịch: “Người chơi vĩ cầm trên mái nhà”, tên một vở nhạc kịch của nhà hát Broadway.

“Cháu hiểu rồi,” tôi nói. “Thế chú có thấy hiện trường sáng hôm sau không? Ý cháu là mấy dây bí nát bét đó.”

“Không,” chú đáp. “Cháu cũng biết đấy, đến mười giờ sáng chú mới mở cửa tiệm, và hầu như chẳng có sáng nào chú dậy trước chín giờ cả. Lúc chú nhìn ra cửa sổ thì chắc là Bradley đã dọn dẹp mớ lộn xộn kia rồi. Ít nhất thì chú chẳng để ý thấy gì cả - thậm chí cho tới khi hắn xông vào tiệm và nguyền rủa chú.”

“Bác ấy đến tiệm phô mai và kết tội chú á?” tôi hỏi.

“Đúng, cháu có tưởng tượng được cảnh bực bội ấy không?” chú Safer có vẻ bị xúc phạm. “May sao lúc đó trong tiệm không có khách. Cho đến khi hiểu ra hắn đang la ó gì, chú đã nói là chú không làm chuyện đó, hắn lầm bầm nghe như có chữ kiện cáo rồi lao đi. Không thể tưởng tượng nổi sao hắn lại có thể nghĩ rằng chú đi làm cái chuyện như vậy chứ!”

“Có lẽ bác Geffington nghĩ chú bực mình vì mấy cái lồng cà chua của bác ấy đã choán mất tầm ngắm cảnh của chú,” tôi nói.

“Hả?” trông chú Safer kinh ngạc thật sự. “Cháu đùa hả, Nancy? Đó là chuyện từ tháng trước rồi còn gì! Chú đã biết ngay hắn sẽ chẳng đời nào chịu dời mấy lồng cà chua đó đi - nhưng sao chúng lại phải cao thế chứ? Cứ như thể hắn định dùng cà chua để hồi sinh Little Shop of Horrors[6] hay gì đó không bằng - thế nên chú chỉ đơn giản là dời cái ghế dài của mình sang phải một chút, và Voila! Cảnh hoàng hôn nguyên vẹn đã quay lại.”

[6] Tạm dịch: “Cửa tiệm nhỏ kinh hoàng”, tên một vở nhạc kịch của nhà hát Broadway.

Tôi chớp mắt, cố gỡ những lời bình phẩm lộn xộn của chú Safer ra cho thẳng thớm, rõ ràng. “Cháu hiểu rồi,” tôi nói, khi rốt cuộc đã nắm được những ý chú vừa nói. “Giờ cháu cũng chẳng nghĩ được gì hơn. Có lẽ cháu nên tiếp tục dò hỏi quanh đây thử xem có ai thấy chuyện gì xảy ra vào tối hôm đó không.”

Chú Harold Safer gật đầu. “Cháu đã hỏi mấy người ở nhà bên kia chưa? Chú nghe nói có một cô trẻ trẻ mới dọn đến hồi đầu tuần. Chú chưa gặp cô ấy nhưng đang rất mong được gặp đây, nghe đâu là con gái của một người châu Âu giàu sang có máy bay riêng cơ đấy. Không chừng lại thuộc một hoàng gia nho nhỏ nào đó cũng nên. Cháu tưởng tượng được không, ngay tại thị trấn River Heights nhỏ bé cổ xưa này!”

“Bọn cháu mới gặp chị ấy xong,” tôi nói. “Chị ấy tên Simone, rất dễ thương, nhưng chẳng thấy kể gì về hoàng gia hay có liên quan gì cả. Chị Simone cũng chẳng thấy gì ở bên vườn nhà bác Geffington vào đêm hôm đó.”

“Tệ thật,” chú Harold Safer đảo mắt. “Chú vẫn nói với cái tên Geffington không thể chịu nổi kia là chỉ có mấy con gấu trúc mới thèm phá bí của hắn thôi. Và dĩ nhiên, hắn một mực không chịu tin, nói rằng trừ phi mấy con gấu trúc đã học cách sử dụng búa tạ.”

Tôi mỉm cười vẻ thông cảm, liếc về phía Bess và George đang trượt thanh treo màn vào mấy cái khớp mới mắc xong. Ngay lúc đó chú Safer cũng nhìn qua và thấy những gì hai đứa nó đang làm.

“Ồ, tuyệt vời!” ông kêu to, vỗ tay và nhảy cẫng lên. “Các cháu đúng là thiên tài! Chú không biết làm sao mà cảm ơn cho hết được đây. Các cháu đã cứu chú khỏi sự lú lẫn rồi đó.”

“Không có gì đâu, chú Safer ạ,” Bess đáp. “Chắc bọn cháu phải đi thôi.”

“Làm sao thế được! Ít nhất cũng phải để chú cảm ơn các cháu bằng một ít xô-đa ngon lành mát lạnh đã chứ.” Rồi chú bước vội về phía tủ lạnh. “Này, chú không chấp nhận lời từ chối nào đâu nhé! Hơn nữa, chú phải kể ai đó nghe về vở A Chorus Line[7] mà chú vừa được xem dưới phố River cuối tuần trước...”

[7] Tên một vở kịch của Broadway.

Tôi liếc nhìn Bess và George. Rõ ràng lần này không thể chuồn sớm được rồi. Nhưng thật ra cũng chẳng sao. Ngồi yên lặng nghe chú Harold Safer huyên thuyên kể về buổi đi xem kịch gần đây sẽ cho tôi cơ hội suy nghĩ về vụ án này.

Tôi bắt đầu nghĩ vụ này thật sự khó nhằn rồi đấy. Bề ngoài có vẻ như chẳng hề quan trọng, nhưng không có nghĩa là dễ giải quyết chút nào. Cho tới giờ tôi chưa có nhân chứng, không chút manh mối, chưa tìm ra động cơ phạm tội, cũng chẳng có một hướng điều tra nào cho ra hồn. Nhất là hiện trường đã được dọn sạch từ lâu, không sót lại bất kỳ chứng cứ nào, nếu có. Làm cách nào tôi tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra khi mà tuyệt nhiên chẳng có gì để bắt đầu chứ?

Manh mối ắt hẳn phải nằm đâu đó, tôi tự nhủ trong khi chú Safer đem xô-đa ra cho cả bọn và tiếp tục huyên thuyên một cách hết sức vui vẻ. Luôn luôn phải có manh mối chứ. Chỉ còn chờ mình tìm thấy thôi.

Nghĩ vậy làm tôi cảm thấy đỡ hơn một chút. Tôi hớp một ngụm xô-đa, điểm lại những gì đã làm. Chẳng có gì nhiều, nhưng ít nhất thì cũng là một bước khởi đầu.

Chú Safer đã nói thì chẳng biết làm sao ngưng chú lại được. Chú hết miêu tả chi tiết đến đáng ngạc nhiên về vở kịch đã xem, lại nhất định cho bọn tôi xem bức ảnh cảnh hoàng hôn trên sông chú chụp gần đây nhất. Sau đó chú muốn cả bọn lắng nghe một đoạn ghi âm mới tải được từ internet. George khá hào hứng với vụ này, cái vụ tải từ internet ấy. Nó thích nói chuyện về máy tính với những ai có cùng niềm đam mê đó, nhất là khi cả Bess lẫn tôi đều chẳng mặn mà gì với máy tính ngoài chuyện kiểm tra email hay thỉnh thoảng truy cập thông tin.

Cuối cùng bọn tôi cũng được thả cho về. Chú Safer đưa cả bọn ra cửa. “Rất cảm ơn các cháu đã ghé qua đây, các cháu gái ạ,” chú vui vẻ nói. “Chú thật sự cảm kích việc mấy cháu đã treo giúp cái màn cửa sổ. Đó là chưa kể còn quan tâm đến toàn bộ chuyện bầu bí lộn xộn này giúp chú nữa. Nếu có ai đó chịu đi đến cùng sự việc thì đó chính là siêu thám tử vùng River Heights của chúng ta, Nancy Drew.” Chú nháy mắt với tôi. “Một ngày nào đấy chắc chắn chú sẽ viết một vở nhạc kịch về cháu, cháu gái thân mến ạ!”

Tôi mỉm cười. Chú Safer lúc nào cũng nói vậy kể từ lần đầu tiên tôi xuất hiện trên báo nhờ phá được một vụ án khó. “Cảm ơn chú đã giúp cháu, chú Safer,” tôi nói. “Cháu sẽ liên lạc lại sau.”

Chẳng mấy chốc tôi đã cùng Bess, George vội vã bước trên lề đường về phía nhà mình. “Ước gì hôm nay có thêm thời gian để nói chuyện với vài người nữa,” tôi bình luận, liếc nhìn đồng hồ. “Càng nói chuyện với chú Safer lại càng thấy là phải làm rõ vụ này sớm chừng nào hay chừng đó.”

“Ừ, tao hiểu ý mày,” George nói. “Chú Safer hình như khá bực bội về chuyện này đấy.”

Bess gật đầu. “Trước đây chú ấy và ông Geffington từng có bất đồng rồi, nhưng chưa lần nào như thế cả. Bọn mình cần làm điều gì đó trước khi mọi việc đi xa hơn.”

“Một tiếng nữa tao phải gặp Ned để đi xem phim,” tôi nói khi đã tới trước nhà mình. Cả đám dừng lại trước cái xe của Bess đang đậu ngay lề đường. “Nhưng tụi mình vẫn có thể tiếp tục vụ này vào lúc nào đó cuối tuần, nếu hai người không bận.”

“Chắc rồi,” Bess nhận lời thay cho cả hai. “À này, nếu sắp sửa đi chơi với Ned thì bà nên mặc cái áo kiểu màu hoa oải hương mà bà không bao giờ mặc ấy. Cái áo đỏ tôn màu mắt bà lắm. Và đừng có quên đánh son! Đã nói rồi mà, chỉ đánh tí son thôi là khác hẳn cho xem.”

Bess lúc nào cũng cố thuyết phục George và tôi chú ý nhiều hơn đến áo quần và trang điểm - hai đề tài đặc biệt thu hút nó rất nhiều, còn với hai đứa tôi thì chẳng được bao nhiêu. Tôi cũng thích thỉnh thoảng đi mua sắm một bữa xả giàn như mọi cô gái khác, và cũng thích mặc những bộ đẹp đẹp vào những dịp đặc biệt chứ, chỉ tại tôi hầu như chẳng có lúc nào để quan tâm đến những chuyện đó cả. Còn George vốn đã là một con bé tinh nghịch ngay từ lúc mới sinh; nếu đến giờ này mà Bess còn chưa biến chị họ nó thành một kẻ nghiện thời trang thì tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ làm được đâu.

“Ừ, biết rồi, tôi sẽ cố làm sao cho giống con người nhất,” tôi nói với Bess, nháy mắt với George. “Hẹn gặp ngày mai nhé.”

Cả bọn tạm biệt nhau, và tôi bước vội vào nhà. Không thấy bố đâu cả, nhưng quản gia của chúng tôi, bà Hannah Gruen, đang ở trong bếp chuẩn bị bữa tối. Bà Hannah đã ở với bố con tôi kể từ khi mẹ tôi mất; với tôi, bà đã là một phần của gia đình này. Bà rất nhanh nhẹn và giỏi giang, và bên dưới vẻ ngoài nghiêm trang là một trái tim bao la như cái vòng một rất đáng kể của bà vậy.

“Ồ, con đây rồi, Nancy,” bà Hannah vừa nói vừa lau tay vào tạp dề. “Con vừa lỡ một cú điện thoại đấy. Một phụ nữ trẻ, nghe giọng chừng như đang thất vọng lắm, số điện thoại của cô ấy ghi trên giấy kia kìa.”

“Cảm ơn bà ạ.” Tôi bước vội đến nhìn vào tờ giấy kế bên điện thoại. Tên và số điện thoại của Simone được viết trên đó bằng nét chữ gọn gàng của bà Hannah. “À, là chủ mới của căn hộ cũ nhà Peterson đấy bà. Bọn cháu mới gặp chị ấy hồi chiều. Có chuyện gì đây không biết?”

Chỉ có một cách để biết thôi, tôi bấm số điện thoại. Simone trả lời, giọng chị nghe thất vọng đến nỗi tôi gần như không nhận ra. “Nancy!” chị la lên khi nhận ra giọng tôi. “Thật mừng được nghe giọng em. Em cũng biết đấy, Pierre và chị gần như chưa gặp ai ở River Heights này, và chị không biết phải gọi đến đâu nữa cả.”

“Có chuyện gì vậy, chị Simone?” tôi nôn nóng hỏi. Sự lo lắng hiện rõ trong giọng chị cho tôi biết là có chuyện gì đó không ổn - rất rất không ổn.

“Quả trứng Faberge,” Simone đáp. “Chị vào phòng khách và phát hiện nó biến mất rồi!”