Giống như những lần trước, sau khi cãi nhau đến mức không thể giải quyết, hắn đều sẽ bỏ mặc Hạ Trừng ở chỗ đó gánh vác tất cả trách nhiệm, để cô một mình đối mặt với mẹ hắn.
Vai trò của Tô phu nhân chính là người theo đuôi kiêm người ủng hộ trung thành nhất của Tô Hằng, bà là Thường Thắng tướng quân (1) bất bại trong hôn nhân của hắn. Vì hắn, bà có thể phất cờ hò reo, trấn áp tất cả bạo động, đồng thời tiêu diệt những ai dám có tư tưởng nổi loạn.
(1)Thường Thắng tướng quân: vị tướng đứng đầu một đội quân thường có những quyết sách đúng đắn để đi đến thắng lợi.
“Hạ Trừng, cô xuống đây, tôi có chuyện muốn nói với cô.”
Lúc ra khỏi cửa phòng, Hạ Trừng có hơi ngừng bước, có lẽ cô vẫn còn mơ mộng hão huyền rằng lần này Tô Hằng không bỏ rơi cô, mà sẽ đứng bên cạnh cô.
Vừa vào phòng mình, Tô phu nhân đã bắt đầu hát bài ca muôn thuở:
“Chồng mình vất vả làm việc bên ngoài, đã làm vợ người ta thì cô phải biết chia sẻ sự khổ cực đó.”
“Ở bên ngoài làm ăn, dù sao cũng phải tiếp xúc với tình huống như vậy, người như vậy. Đến bây giờ mà cô vẫn không hiểu đây chỉ là diễn trò thôi sao?”
“Tuy là lần này A Hằng có hơi quá, nhưng cô không thể nể mặt nó đã bỏ rất nhiều công sức vào cái nhà này mà nhịn cơn tức xuống, nói chuyện đàng hoàng với nó sao?”
Đầu óc Hạ Trừng đã bay đến nơi nào rồi, mắt cô thì nhìn thẳng về phía Tô phu nhân, nhưng lời bà ta nói lại chỉ như âm thanh ầm ĩ của phông nền trước mắt cô mà thôi.
Tô phu nhân nhận ra điều đó, bà cầm ly nước bên cạnh lên uống một ngụm, sau khi đặt ly uống, giọng điệu của bà đã trở nên nghiêm túc, cứng rắn hơn: “Người lớn nói chuyện với cô mà thái độ của cô như thế là sao?”
Trương Xuân đứng bên cạnh, thấy thế liền vội vàng hòa giải:
“Lão phu nhân, làm vợ chồng có ai mà không cãi nhau, gây nhau vài lần? Tôi thấy bà nên để dành sức lực, nếu không lát nữa hai tiểu tổ tông kia về nhà tranh cãi náo loạn thì bà lại đau đầu, lúc đó cũng không có thời gian cho bà nghỉ ngơi.”
Vất vả lắm mới có thể thoát khỏi căn phòng đó, Hạ Trừng không muốn lên lầu, chỉ ngồi yên không nhúc nhích trên ghế salon ngoài phòng khách.
Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, cửa lớn kẽo kẹt mở ra, giọng nói trẻ con líu ríu lại mềm mại bay vào lỗ tai Hạ Trừng.
“Ba ơi, Ba muốn ra ngoài sao?
“Niết Niết ngoan, đêm nay ba có chút chuyện phải giải quyết, con ở nhà làm bài tập đàng hoàng nghe chưa.”
Gương mặt bé gái vừa từ nhà trẻ về kia trở nên vô cùng tủi thân: “Vậy lúc con đi ngủ, ba có trở về không?”
Tô Hằng im lặng một chút: “Con ngủ trước đi, hôm nay ba có việc bận rất khuya.” Hắn nhìn sang bé trai đứng kế bên: “Hạo Hạo, con dẫn em gái vào nhà đi.”
Lúc này, Hạ Trừng đã đi tới bên cửa, cô im lặng không nói, chỉ nhìn chằm chằm vào bóng lưng Tô Hằng.
Niết Niết mừng rỡ kêu to: “Mẹ!” Sao đó chạy tới chỗ Hạ Trừng.
Là một bé trai chín tuổi, Hạo Hạo chỉ lẳng lặng đi tới nhìn mẹ và em gái bé.
Ai nói con nít còn nhỏ không hiểu chuyện, suy nghĩ của bọn chúng rất sạch sẽ đơn thuần nhưng cũng vô cùng nhạy cảm mỏng manh, bọn chúng luôn có thể cảm giác được giữa cha và mẹ mình đã xảy ra vấn đề.
Bé gái làm nũng muốn cha ở nhà, bé trai lớn hơn thì lựa chọn yên lặng đứng bên cạnh mẹ.
Hạ Trừng kéo tay Hạo Hạo, cười với nó rồi lại ôm lấy Niết Niết, nói: “Vào nhà cởi giày rồi rửa tay đi, mẹ lấy bánh ngọt cho các con ăn.”
Nếu ví hôn nhân là một tòa thành thì Tô Hằng chính là vua trong thành, Hạ Trừng chỉ làm dân thường, hoặc tệ hơn là nô lệ, mẹ của hắn chính là cây roi quất lên lưng cô, ép buộc cô tiếp tục làm việc lại làm việc, không cần biết cô có mệt mỏi hay không, có muốn bỏ trốn khỏi tòa thành này hay không.
Là ai đã trao quyền lực to lớn như vậy vào tay Tô phu nhân?
Tô Hằng.
Vì sao Hạ Trừng cam tâm tình nguyện để Tô phu nhân điều khiển?
Lúc mới bắt đầu cô cũng là vì Tô Hằng, nhưng có một vài thứ quan trọng đã bị hao mòn tới mức gần như không còn, cuối cùng, cô chỉ không nỡ bỏ lại hai đứa bé.
Tử Ninh đã từng dẫn cô đến gặp một đại sư đoán chữ rất nổi danh. Có lẽ khi một người đã mất đi phương hướng và hi vọng, họ chỉ có thể nhờ đến loại chuyện mê tín coi bói này để bước tiếp.
Hạ Trừng muốn hỏi về hôn nhân, cô thành tâm viết ra từ “ngốc”.
Đại sư đã nói rất nhiều, cô cũng không nhớ rõ lắm, nhưng điều làm cô ấn tượng nhất chính là ông ấy đã di chuyển chữ “mộc” phía dưới vào trong chữ “khẩu” ở phía trên.
Ông lắc đầu nói: “Tô phu nhân, hôn nhân của cô chính là chữ “khốn” (2), quả thật chính là tình cảnh không chết không thôi.”
(2)Trong tiếng Trung, chữ “ngốc” được tạo thành từ chữ “khẩu” viết ở trên và “mộc” viết ở dưới, nếu bỏ “mộc” vào “khẩu” thì sẽ thành chữ “khốn”.
Hạ Trừng vốn không tin vào số mệnh, nhưng cho đến khoảnh khắc trước khi chết này, trong đầu cô lại hiện ra câu nói kia, có lẽ đây chính là lời giải thích cho cuộc đời ngắn ngủi của cô.
Điều cô cảm thấy nực cười nhất không phải là số mệnh có thể chi phối tương lai của mình, mà là đến cuối cùng, chính cô lại là người để nó linh nghiệm.
Lúc Tô Hằng được đưa vào phòng giải phẫu, trên bầu trời xuất hiện hiện tượng thiên văn trăm năm khó gặp.
Có một vệt đen đang nhanh chóng ăn sâu vào mặt trời, thậm chí người trên trái đất cũng có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Khi hắn tỉnh lại thì phát hiện mình đang ở trong một linh đường cỡ nhỏ, trên bàn có đốt mấy nén nhang, mấy làn khói trắng nhẹ nhàng bay lên, sau đó chậm rãi biến mất trong không khí.
Tô Hằng đứng yên tại chỗ, ngẩng đầu nhìn linh đường phía trước.
Hắn vừa xoay người liền nhìn thấy một người đàn ông tiều tụy đang dựa vào tường ngủ gật, bên cạnh ông ta là một bé gái đang ngồi ngay ngắn.
Quần áo cô bé có hơi lôi thôi, đầu tóc rối bời, nhưng lớn lên lại rất giống Niết Niết con gái hắn, cho nên trong lòng hắn không khỏi có ấn tượng tốt với cô bé.
Bé gái nhân lúc người đàn ông kia ngủ say, nhảy khỏi ghế, đi đến đứng trước bài vị.
Hai mắt dần đỏ lên, cô bé đưa tay lấy ra ba nén nhang rồi tìm thêm một cái bật lửa.
Tô Hằng ngẩn người, sau đó đi lên ngăn cản bé: "Cô gái nhỏ à, con không thể một mình nghịch lửa được, làm vậy rất nguy hiểm…"
Tô Hằng ngẩn người, sau đó đi lên ngăn cản bé: "Cô gái nhỏ à, con không thể một mình nghịch lửa được, làm vậy rất nguy hiểm…"
Dường như không nghe được lời hắn nói, cô bé vẫn tiếp tục thắp nhang, thành tâm quỳ xuống đất rồi lạy một cái, sau đó kéo một cái ghế đến, cố gắng cắm nhang vào trong lư hương.
Nhưng có lẽ bởi thân thể còn nhỏ, chiều cao không đủ nên bé cố gắng một lúc lâu mà vẫn không thể cắm nén nhang cho ngay ngắn được.
Tô Hằng không nhịn được, bước về phía trước định giúp bé, bàn tay hắn vô tình đụng vào nén nhang kia, xuyên thấu…
Hắn hơi không phản ứng kịp, thế nhưng dường như lúc này bé gái cũng nhìn thấy anh.
Bé xoay người, ngẩng đầu lên nhìn hắn không chớp mắt, dùng giọng nói mềm mại pha chút giọng mũi thút thít hỏi: "Chú là ai? Sao chú lại ở chỗ này?" Con ngươi đen nhánh của bé hiện lên sự kiên cường và khôn khéo trước tuổi.
Tô Hằng ngồi xổm xuống, hiện tại hắn đã nhớ ra rất nhiều việc.
Cuối cùng hắn không thể vượt qua cuộc giải phẫu đó, mà thứ hắn không yên tâm nhất bây giờ chính là hai đứa con và người mẹ già.
Người ta nói sau khi chết, hồn người chết có thể trở về được bảy ngày, nhưng hắn lại không biết mình phải làm thế nào mới có thể quay về bên cạnh họ.
Lúc này, sau lưng Tô Hằng truyền đến giọng nói khàn khàn trầm thấp của người đàn ông vừa mới tỉnh ngủ kia: "Trừng Trừng, con đang nói chuyện với ai vậy?"
Hạ Trừng bé nhỏ mở to đôi mắt xinh đẹp nhìn thoáng qua Tô Hằng, dùng đôi chân ngắn ngủn chạy đến lao vào ngực cha mình, ôm ông thật chặt.
Sau đó bé quay mặt lại, khuôn mặt nhỏ nhắn nhìn về phía Tô Hằng, dùng giọng điệu chỉ lúc trẻ con căng thẳng không yên mới có, nói: "Ba, có một chú rất kỳ lạ đang đứng ở đó, ba không thấy sao?"
Hạ Chấn Trì nhíu mày, cũng không nhìn chỗ Hạ Trừng chỉ đã ôm chặt bé hơn nữa, qua loa nói: "Trừng Trừng ngoan, con đã ở đây với ba lâu quá nên mệt mỏi phải không? Lát nữa dì Ngụy đến, con hãy cùng dì về nhà trước đi."
"Không, con không muốn, con muốn ở lại chỗ này với ba." Hạ Trừng rất kiên trì, nhưng dáng vẻ của bé lại khiến Hạ Chấn Trì cảm thấy đó chỉ là trẻ con làm loạn mà thôi.
Dù sao, nhà tang lễ không phải chỗ sạch sẽ gì, để một đứa bé ở đây với ông suốt ngày cũng không phải là chuyện thỏa đáng. Hơn nữa vừa rồi con bé còn nhìn thấy thứ không nên thấy.
Cùng lúc đó, dựa vào việc mọi người không nhìn thấy mình và cả tên của bé gái, Tô Hằng đã biết mình đang ở nơi nào.
Nói đúng hơn thì hắn không phải là người ở chỗ này.
Hắn đã chết, hắn đã là người không còn tồn tại.
Hoặc cũng có thể giải thích bằng khoa học hiện đại thế này, hiện tại hắn chỉ là một nhóm sóng điện tự do, không biết vì lí do gì mà xuyên về quá khứ, ngay tại thời điểm mẹ Hạ Trừng vừa mới mất.
Hắn cũng nhanh chóng phát hiện một việc, ngoại trừ Hạ Trừng còn nhỏ ra thì không một ai có thể nhìn thấy hắn.
Nhưng hắn cũng không thể lúc nào cũng ở bên cạnh cô.
Hắn thường xuyên rơi vào trạng thái choáng váng rồi ngất xỉu, khi mở mắt ra lần nữa thì thời gian đã trôi qua, ngắn thì vài ngày, đôi khi thì dài đến tận một hai năm.
Ban đầu, hắn cảm thấy rất khó chấp nhận chuyện này, nhưng dần về sau, hắn lại cảm thấy chuyện này cũng rất bình thường.
Dù cuộc sống có khó khăn đến thế nào, chỉ cần tập thành thói quen thì ai cũng có thể bình thản đối mặt với nó.
Hắn và Hạ Trừng tương kính như băng (*), vốn không quan tâm đến đối phương, thế mà cũng có thể đóng giả một cặp vợ chồng gương mẫu vài chục năm.
(*) Tương kính như băng: câu đúng là “tương kính như tân”, tức tôn trọng nhau như ngày mới cưới, nhưng ý tác giả là vợ chồng nữ chính lạnh lùng, xa cách, không quan tâm lẫn nhau như “băng” vậy.
Hiện tại hắn cứ vô tri vô giác sống qua ngày thế này cũng không khác lúc trước phải xã giao hết nơi này đến nơi khác là bao.
Cuộc sống thế này cũng không thể nói là rất vui vẻ sung sướng, nhưng nó cũng rất mới mẻ.
Cô bé Hạ Trừng có những điểm đáng yêu mà trước kia hắn chưa từng nhìn thấy, cho nên hắn cảm thấy theo dõi cô cũng là một chuyện thú vị.
Lúc còn trẻ, Tô Hằng vẫn thường nghe Hạ Trừng kể về chuyện hồi bé. Đương nhiên, sau này, lúc mà hai vợ chồng đã không còn lời nào để nói với nhau thì cô cũng chẳng nhắc đến nữa.