Anh nên ăn cái gì đó”, Uzi Navot nói.
Gabriel lắc đầu. Anh đã ăn trưa trên tàu từ Luân Đôn.
“Ăn súp củ cải đỏ đi”, Navot đề nghị. “Anh không thể đến Jo Goldenberg mà không ăn súp củ cải đỏ”.
“Tôi không muốn ăn”, Gabriel đáp. “Màu đỏ sẫm làm tôi lo lắng”.
Navot bảo bồi bàn cho một tô ngoại hạng xúp củ cải đỏ và một ly rượu vang đỏ. Gabriel nhíu mày nhìn ra ngoài cửa sổ. Cơn mưa lớn đang xối xả rơi xuống nền đá lát rue de Rossiers, trời nhanh chóng chuyển tối. Anh đã muốn gặp Navot ở một nơi khác hơn là nhà hàng nổi tiếng nhất trong quận người Do Thái đông đúc nhất ở Paris, nhưng Navot nhất định gặp ở Jo Goldenberg, dựa trên niềm tin rằng nơi tốt nhất để giấu cây thông chính là trong rừng.
“Nơi này làm tôi lo lắng”, Gabriel nói nhỏ. “Chúng ta đi dạo đi”.
“Trong thời tiết này? Anh quên đi. Với lại không ai nhận ra anh trong bộ dạng này. Thậm chí cả tôi cũng gần như không nhận ra khi anh bước qua cửa”.
Gabriel nhìn khuôn mặt mờ mờ phản chiếu qua gương. Anh đội chiếc mũ bê rê bằng vải nhung sọc, đeo kính sát tròng khiến mắt anh chuyển sang màu nâu, và bộ râu dê giả làm tăng thêm nét gầy gò của gương mặt. Anh đã đến Paris bằng hộ chiếu Đức giả dưới tên Heinrich Kiever. Sau khi đến ga Nord, anh dành hai tiếng đi dạo dọc bờ sông Seine để kiểm tra xem mình có bị bám đuôi không? Trong chiếc túi đeo trên vai là một quyển Voltaire sờn rách anh mua tại một bouquet tại Quai Montebello.
Anh quay người nhìn Navot. Anh ta có bờ vai rộng, trẻ hơn Gabriel vài tuổi, tóc màu vàng dâu và mắt xanh nhạt. Theo thuật ngữ của Văn phòng, anh ta là katsa, điệp viên tác nghiệp có vỏ bọc và là sỹ quan tình báo. Biết nhiều ngôn ngữ, có vẻ bề ngoài quyến rũ, cộng với vẻ ngạo mạn bẩm sinh, Navot đã thâm nhập được vào các nhóm khủng bố người Palestine và tuyển mộ nhân viên trong các đại sứ quán Arập ở Tây Âu. Anh có nguồn tin ở hầu hết các Cục Tình báo và An ninh châu Âu, và quản lý một mạng lưới sayanim rộng khắp. Anh luôn được dành bàn tốt nhất tại phòng trong khách sạn Ritz ở Paris vì người quản lý khách sạn và bồi bàn trưởng là những người cung cấp tin được trả tiền. Bây giờ Navot đang mặc áo khoác ngoài bằng vải lanh màu xám và áo len cổ tròn màu đen, vì danh tính của anh ở Paris là Vincent Laffont, một người chuyên viết về du lịch tự do, quê quán ở Breton và hay đi đó đây. Ở Luân Đôn anh được biết đến như là Clyde Bridges, một Giám đốc tiếp thị người châu Âu của một công ty Canada kinh doanh phần mềm không mấy tiếng tăm. Ở Madrid, anh là người Đức giàu có hay la cà ở những quán cà phê và quán bar, và thường đi du lịch để giải tỏa những gánh nặng của một tâm hồn phức tạp không yên ổn.
Navot thò tay vào cặp lấy ra một bìa hồ sơ đặt lên bàn trước mặt Gabriel. “Trong này có thông tin về người sở hữu bức tranh Van Gogh của anh”, anh ta nói. “Anh xem đi”.
Gabriel cẩn thận mở bìa ra. Bức ảnh cho thấy một phụ nữ trung niên hấp dẫn có mái tóc đen gợn sóng, làn da ngăm ngăm, và mũi khoằm dài. Cô ta cầm chiếc ô che đầu và đang bước xuống những bậc thang bằng đá ở Montmatre.
“Hannah Weinberg”, Navot nói. “Bốn mươi bốn tuổi, không kết hôn, không con cái. Người Do Thái điển hình. Con một và không người thân thích. Với tốc độ này, chúng ta sẽ không cần đến diện tích một tiểu bang thì cũng đủ chỗ cho toàn bộ dân Do Thái”. Navot nhìn xuống buồn bã, anh tiếp tục ăn đến món gà và rau. Anh có xu hướng chán nản mỗi khi nhắc đến tương lai người Do Thái. “Cô ta sở hữu một cửa hàng thời trang ở Monmatre tại rue Lepic. Tên cửa hàng là Lepic. Tôi chụp bức hình khi cô ta đang đi ăn trưa. Tôi có cảm giác cửa hàng được mở ra vì sở thích của cô ta hơn là vì nghề nghiệp. Tôi đã kiểm tra tài khoản ngân hàng của cô ta. Marc Weinberg để lại cho con gái rất nhiều tiền”.
Bồi bàn mang tô canh cải đỏ đến đặt trước mặt Gabreil. Ngay lập tức anh đẩy nó ra giữa bàn. Anh chưa bao giờ ưa mùi cải đỏ. Navot bỏ một miếng bánh mì vào nước canh và nhấn xuống bằng thìa.
“Weinber là một người rất thú vị. Ông ta là luật sư rất giỏi ở Paris. Ông cũng luôn đấu tranh cho những việc đã xảy ra. Ông gây nhiều sức ép lên chính phủ về việc thú nhận vai trò của người Pháp trong Vụ thảm sát. Kết quả là một số giới ở Paris không ưa thích ông cho lắm”.
“Còn cô con gái thì sao? Quan điểm chính trị của cô là gì?”
“Cô ta là một nhà xã hội châu Âu ôn hòa, nhưng đây không phải là tội ác ở Pháp. Cô cũng thừa hưởng chút ít tính chiến đấu của người cha. Cô tham gia vào nhóm chiến đấu với chủ nghĩa bài Do Thái ở đây. Cô đã gặp Tổng thống Pháp một lần. Hãy nhìn bên dưới tấm hình đó”.
Gabreil nhìn thấy một bài cắt ra từ tạp chí Pháp về làn sóng chống chủ nghĩa bài xích dân Do Thái ở Pháp. Bức ảnh kèm theo cho thấy những người phản đối dân Do Thái đang đi diễu hành qua một trong những cây cầu của sông Seine. Đứng đầu hàng, mang theo biển hiệu có ghi dòng chữ HÃY CHẤM DỨT NGAY SỰ CĂM GHÉT, là Hannah Weinberg.
“Cô ta đã trở về Israel lần nào chưa?”
“Ít nhất là bốn lần. Shabak đang điều tra ở đầu bên kia để chắc chắn rằng cô ta không ngồi ở Ramallah vạch ra âm mưu cùng bọn khủng bố. Tôi dám cá họ sẽ không tìm được gì ở cô ta. Cô ta là vàng, Gabriel. Cô ta là món quà từ các vị thần tình báo”.
“Sở thích tình dục thì sao?”
“Đàn ông, theo như chúng tôi biết. Cô ta đang có quan hệ với một viên chức”.
“Người Do Thái?”
“Cám ơn Chúa”.
“Cậu đã vào căn hộ của cô ta chưa?”
“Tôi vào đó cùng một đội neviot”.
Đội neviot chuyên môn thu thập thông tin từ những mục tiêu cứng như căn hộ, văn phòng, và phòng khách sạn. Đơn vị này thuê một vài nghệ nhân đột nhập và trộm tốt nhất trên thế giới. Gabriel có những kế hoạch khác cho họ trong vụ này - dĩ nhiên là với điều kiện Hannah Weinberg chịu xa bức họa Van Gogh của cô ta.
“Cậu đã thấy bức họa chưa?”
Navot gật đầu. “Cô ta giữ nó trong phòng ngủ thời thơ ấu”.
“Bức họa trông thế nào?”
“Anh muốn tôi đánh giá về một bức tranh của Van Gogh?”. Navot nhún đôi vai rộng. “Đó là bức vẽ rất đẹp về một cô gái đang ngồi bên bàn trang điểm. Tôi không có khiếu thẩm mỹ như anh. Tôi thích ăn thịt gà và thích xem phim tình cảm tại rạp chiếu phim. Anh không ăn súp kìa”.
“Tôi không thích món súp này, Uzi. Tôi đã bảo với cậu là tôi không thích”.
Navot dùng thìa của Gabriel khuấy để làm nhạt màu món canh đỏ tía.
“Chúng tôi đã nhìn sơ qua giấy tờ của cô ta”, Navot nói. “Chúng tôi lục lọi tủ đồ và ngăn kéo. Chúng tôi cũng gài máy ghi âm vào điện thoại và máy tính. Không có gì là quá cẩn thận trong trường hợp như thế này”.
“Theo dõi?”
Navot trông có vẻ bị chạm tự ái vì câu hỏi. “Dĩ nhiên”, cậu ta đáp.
“Vậy trạm nghe ở chỗ nào?”
“Hiện tại đang là xe tải. Nếu cô ta đồng ý giúp chúng ta sẽ cần thứ cố định hơn. Một trong số những cậu bé thuộc đội neviot đang đi tìm quanh khu này xem có căn hộ nào thích hợp không”.
Navot đẩy phần thừa của tô gà sang một bên và bắt đầu tấn công sang tô súp của Gabriel. Mặc dù có những nét tinh tế của người châu Âu, về bản chất cậu vẫn là nông dân xuất thân từ một trang trại.
“Tôi có thể thấy chuyện này đang dẫn đến đâu”, cậu nói giữa các lần húp canh. “Anh sẽ lần theo dấu vết của kẻ xấu, còn tôi phải mất cả năm theo dõi cô gái. Nhưng mọi chuyện luôn như vậy giữa hai chúng ta, đúng không? Anh giành được mọi vinh quang trong khi những người lâm trận trực tiếp như chúng tôi phải làm công việc xúc xẻng. Chúa ơi, anh đã cứu được Giáo hoàng. Làm sao một kẻ phàm phu tục tử như tôi dám ganh tị với điều này?”
“Ngậm miệng lại ăn súp đi, Uzi”.
Là người được Shamron lựa chọn không phải là không có giá của nó. Gabriel đã quen với sự ganh tị trong công việc của các đồng nghiệp.
“Mai tôi phải rời Paris”, Navot nói. “Tôi chỉ đi một ngày”.
“Cậu đi đâu?”
“Amos muốn trao đổi với tôi”. Navot dừng lại, sau đó nói thêm. “Tôi nghĩ là về Lực lượng Đặc nhiệm. Công việc mà anh đã từ chối”.
Một sự lựa chọn đúng đắn, Gabriel nghĩ. Navot là một điệp viên thực địa tài năng đã tham gia vào nhiều phi vụ lớn, trong đó có một vài vụ cộng tác với Gabriel.
“Đó có phải là điều cậu muốn không, Uzi? Một công việc tại Đại lộ King Saul?”
Navot nhún vai. “Tôi đã bôn ba trận mạc lâu rồi. Bella muốn kết hôn. Rất khó có cuộc sống ổn định khi anh sống như thế này. Nhiều sáng thức dậy tôi không biết cuối ngày mình sẽ ở đâu. Tôi có thể điểm tâm ở Berlin, ăn trưa ở Amsterdam, và ngồi tại đại lộ King Saul vào nửa đêm để báo cáo với Giám đốc”. Navot mỉm cười đồng lõa với Gabriel. “Đây là điều người Mỹ không bao giờ hiểu được về chúng ta. Họ đặt sỹ quan tình báo vào những cái hộp nhỏ và vả vào cổ tay họ khi những người này bước qua vạch. Văn phòng không bao giờ như vậy. Chưa bao giờ như vậy. Điều này khiến đây là công việc vĩ đại nhất trên thế giới - và lí do tại sao Cục của chúng ta làm việc tốt hơn họ nhiều. Họ sẽ không biết cách làm gì với một người như anh”.
Navot đã chán món súp. Anh ta đẩy tô súp qua bên kia bàn, để trông có vẻ như Gabriel đã ăn tô canh này. Gabriel giơ tay định lấy ly rượu, nhưng anh lại thôi. Anh vẫn còn bị nhức đầu do đi xe lửa và thời tiết ẩm ướt ở Paris, thêm vào đó, rượu kosher có mùi như nước sơn pha loãng.
“Nhưng công việc này để lại hậu quả đối với hôn nhân và các mối quan hệ của chúng ta, đúng không Gabriel? Bao nhiêu người trong số chúng ta ly dị? Bao nhiêu người cặp bồ khi đi làm việc? Ít nhất nếu tôi làm việc ở Tel Aviv, tôi sẽ ở gần nhà hơn. Vẫn có nhiều chuyến đi do công việc nhưng ít hơn lúc này. Bella có một nơi gần bãi biển ở Caesarea. Cuộc sống sẽ rất thú vị”. Navot lại nhún vai. “Hãy nghe tôi. Tôi đang cư xử như thể Amos đã đề nghị tôi làm công việc đó. Nhưng thực ra Amos chưa nói gì. Tất cả theo như tôi biết là ông ta triệu tôi về đại lộ King Saul để sa thải tôi”.
“Đừng ngớ ngẩn thế. Cậu là người có khả năng nhất cho công việc này. Cậu sẽ là sếp tôi, Uzi”.
“Sếp anh? Cho tôi xin. Không ai là sếp của anh cả, Gabriel. Chỉ có ông già”. Vẻ mặt của Navot đột nhiên trở nên nghiêm túc. “Ông ấy như thế nào rồi? Tôi nghe nói là không được tốt lắm.
“Ông ấy sẽ ổn thôi”, Gabriel trấn an.
Họ im lặng khi người bồi đến dọn bàn. Đợi anh ta đã rời đi, Gabriel đưa tập hồ sơ cho Navot. Anh ta bỏ nó lại vào trong cặp.
“Anh dự định làm gì với Hannah Weinberg?”
“Tôi dự định yêu cầu cô ta nhả bức hoạ trị giá tám mươi triệu đô ra. Tôi phải nói với cô ta sự thật - hay ít nhất một phần sự thật. Sau đó chúng ta sẽ phải giải quyết những hậu quả về an ninh”.
“Cách tiếp cận như thế nào? Anh dự định sẽ nhảy múa một chút hay đi thẳng vào vấn đề?”
“Tôi không khiêu vũ, Uzi. Tôi chưa bao giờ có thời gian để khiêu vũ”.
“Ít nhất anh cũng không phải thuyết phục cô ta tin anh là ai. Nhờ vào cục An ninh Pháp, mọi người dân ở Paris đều biết tên và khuôn mặt của anh. Anh muốn bắt đầu khi nào?”
“Tối nay”.
“Nếu vậy thì anh may mắn đấy”.
Navot nhìn ra ngoài cửa sổ. Gabriel nhìn theo ánh mắt anh ta và thấy một người phụ nữ tóc đen đang đi trên rue des Rosiers dưới chiếc ô. Anh đứng dậy, lao ra phía cửa mà không nói một lời. “Đừng lo, Gabriel”. Navot tự nói với mình. “Tôi sẽ lo thanh toán hóa đơn”.
Đến cuối đường, Hannah Weinberg quẹo trái rồi biến mất. Gabriel dừng lại ở góc phố nhìn những người đàn ông Chính Thống giáo mặc áo khoác đen xếp hàng vào giáo đường lớn cầu kinh buổi tối. Sau đó anh nhìn xuống rue Pavée và thấy bóng Hannah Weinberg dần đi khuất vào những chỗ tối. Cô dừng lại trước lối vào một căn hộ chung cư và tìm chìa khóa trong chiếc túi xách tay. Gabriel đi về hướng căn hộ và dừng lại cách cô vài bước, ngay khi tay cô đưa ra chuẩn bị tra chìa vào ổ.
“Thưa cô Weinberg?”
Cô quay lại điềm tĩnh nhìn anh. Trong bóng tối, mắt cô ánh lên sự bình thản và thông minh. Chẳng biết cô có giật mình vì sự tiếp cận của anh hay không, bởi cô không để lộ điều này.
“Cô là Hannah Weinberg, đúng không?”
“Tôi có thể làm gì cho ông, thưa ông?”
“Tôi cần sự giúp đỡ của cô”, Gabriel đáp. “Tôi tự hỏi không biết liệu chúng ta có thể nói với nhau vài lời ở chỗ riêng tư được không?”
“Chúng ta có quen nhau không, thưa ông?”
“Không”, Gabriel đáp.
“Nếu vậy thì làm sao tôi có thể giúp ông được?”
“Sẽ tiện hơn nếu chúng ta bàn chuyện này ở chỗ riêng tư, thưa cô”.
“Tôi không có thói quen vào chỗ riêng tư với đàn ông lạ, thưa ông. Bây giờ xin phép ông”.
Cô quay người đi và đưa chìa vào ổ khóa lần nữa.
“Chuyện này là về bức hoạ của cô, thưa cô Weinberg. Tôi cần nói chuyện với cô về bức họa Van Gogh”.
Cô cứng người lại và nhìn anh một lần nữa. Ánh mắt của cô vẫn điềm tĩnh.
“Tôi rất tiếc phải làm ông thất vọng, thưa ông, nhưng tôi không có bức tranh nào của Van Gogh. Nếu ông muốn ngắm vài tác phẩm của Vincent, mời ông đến bảo tàng d’Orsay”.
Cô lại nhìn đi chỗ khác.
“Marguerite Gachet bên bàn trang điểm”, Gabriel điềm tĩnh nói. “Bức hoạ được ông cô mua từ Johanna, người vợ góa của Van Gogh, và ông cô đã tặng cho bà cô làm quà sinh nhật. Bà cô có nét giống với cô Gachet. Khi cô còn bé, bức vẽ treo trong phòng ngủ của cô. Tôi cần tiếp tục kể không?”
Vẻ điềm tĩnh của cô biến mất. Khi cất tiếng lại sau một khoảng thời gian yên lặng vì sững sờ, giọng cô có vẻ bất ngờ. “Làm sao ông biết về bức vẽ?”
“Tôi không được phép tiết lộ”.
“Dĩ nhiên là không”. Cô nói câu này với mục đích lăng mạ. “Cha tôi luôn cảnh báo với tôi rằng một ngày nào đó sẽ có một gã buôn tranh người Pháp tham lam cố gắng cướp bức tranh khỏi tôi. Bức tranh này không để bán, và nếu nó bị mất, tôi chắc chắn sẽ mô tả về ông với cảnh sát”.
“Tôi không phải là người buôn tranh - và cũng không phải là người Pháp”.
“Vậy thì ông là ai?”, cô hỏi. “Ông muốn làm gì với bức tranh của tôi?”