PHẦN 2: CON GÁI BÁC SĨ GACHET
Cuộc đời Gilah Shamron là một chuỗi những ngày cầu nguyện trong căng thẳng. Bà đã chịu đựng từ những nhiệm vụ bí mật, những vùng đất nguy hiểm, chiến tranh và khủng bố cho đến các cuộc khủng hoảng và những cuộc họp Nội các hầu như không bao giờ kết thúc trước nửa đêm. Bà luôn sợ kẻ thù cũ của Shamron đột ngột nhảy ra trả thù. Bà luôn biết một ngày nào đó mình sẽ nhận được tin chồng bị thương nặng, thậm chí là chết vì sự trả thù này.
Gabriel thấy bà ngồi bình tĩnh trong phòng chờ riêng ở khu chăm sóc đặc biệt của trung tâm Y tế Hadassah. Chiếc áo khoác chống bom đặc biệt của Shamron nằm trên lòng bà, và bà đang thẫn thờ cầm chỗ rách tại ngực phải mà Shamron chưa bao giờ thấy cần phải sửa lại. Gabriel luôn thấy nét của Golda Meir trong ánh nhìn buồn bã và mái tóc xám hoang dại của Gilah. Anh---- ------ ------ ----- không thể nhìn Gilah mà không nhớ lại ngày Golda gắn huy chương vào ngực áo bí mật của anh, nước mắt lưng tròng, và cám ơn anh đã trả thù cho mười một người Israel bị giết ở Munich.
“Chuyện gì xảy ra vậy, Gabriel? Làm sao chúng tìm được Ari ngay giữa Jerusalem?”
“Có lẽ ông ấy đã bị theo dõi trong một khoảng thời gian khá dài. Khi rời căn hộ của tôi tối hôm đó, ông bảo rằng sẽ quay lại văn phòng Thủ tướng để làm chút việc”. Gabriel ngồi xuống cầm tay Gilah. “Chúng nổ bom tại chỗ đèn giao thông trên phố King George”.
“Đánh bom tự sát à?”
“Chúng tôi nghĩ có hai tên. Chúng ngồi trong xe tải hóa trang thành người Do Thái chính thống. Quả bom rất lớn”.
Bà ngước nhìn chiếc truyền hình treo cao trên tường. “Tôi có thể thấy trong tivi. Thật thần kỳ nếu có ai đó còn sống sót”.
“Một nhân chứng thấy xe Ari tăng tốc trước khi bom nổ. Ắt hẳn Ari đã nhìn thấy điều gì đó không ổn. Lớp bọc sắt của xe hơi chịu được áp lực của vụ nổ, nhưng chiếc xe bị hất tung trong không khí. Có vẻ như nó đã lộn hai vòng”.
“Ai làm việc này? Hamas? Hay cảm tử quân Hồi giáo? Hay bọn al-Aqsa?”
“Hội Huynh đệ Allah đã lên tiếng”.
“Có phải chính tổ chức đã tấn công Vatican?”
“Đúng vậy, Gilah”.
“Anh có tin là chúng không?”
“Còn qua sớm để khẳng định bất kỳ điều gìá”, Gabriel trả lời. “Bác sỹ nói sao?”
“Ông ấy còn phải chịu phẫu thuật ít nhất ba tiếng nữa. Họ bảo chúng ta sẽ có thể gặp ông ấy khi ông được đẩy ra, nhưng chỉ một hai phút thôi. Họ đã cảnh báo với tôi ông ấy trông tệ lắm”.
Gabriel chăm chú nhìn bà một lúc, sau đó nhìn lên ti vi. “Bà lo ông ấy không qua khỏi, đúng không Gilah?”
“Đúng vậy”.
“Đừng lo”, Gabriel an ủi. “Shamron là người không thể bị hủy diệt. Ông ấy bất tử”.
“Họ nói gì với bà về những vết thương?”. Gabriel hỏi tiếp.
Gilah điềm tĩnh kể lại. Những liệt kê về các bộ phận bị hư hại, chấn thương đầu, và xương gẫy khiến Gabriel hiểu rõ Shamron thật sự đang ở trong tình trạng thập tử nhất sinh.
“Ari khá nhất trong ba người”, Gilah nói. “Dường như Rami và tài xế bị thương trầm trọng hơn nhiều. Tội nghiệp Rami. Anh ấy đã bảo vệ cho Ari nhiều năm. Bây giờ lại gặp chuyện này”.
“Yonatan đâu?’
“Nó đang đi công tác ở miền bắc. Nó đang trên đường trở về”.
Con trai duy nhất của Shamron là Đại tá trong Lực lượng Bảo vệ Israel. Ronit, cô con gái bướng bỉnh của ông, đã chuyển đến sống ở New Zealand để tránh người cha thích áp đặt. Cô và Shamron không nói chuyện với nhau đã nhiều năm.
“Ronit cũng đang tới”, Gilah nói. “Ai biết được? Có lẽ trong cái xui cũng có cái may. Sự vắng mặt của Ronit khiến ông rất đau khổ. Ông tự trách mình, nhưng ông đáng phải như vậy. Ari rất nghiêm khắc với các con. Nhưng anh biết tính ông ấy mà, phải không Gabriel?”
Gilah nhìn thẳng vào mắt Gabriel một lúc, sau đó đột ngột quay đi. Trong nhiều năm bà nghĩ anh là người ngồi bàn giấy biết nhiều về nghệ thuật và sống nhiều năm ở châu Âu. Giống như những người dân khác, bà chỉ biết bản chất thật sự công việc của anh qua báo chí. Cách xử sự của bà đã thay đổi từ khi anh bị lật mặt nạ. Bà ít nói hơn khi ở gần anh, bà chú ý không làm anh phật ý, và không thể nhìn lâu vào mắt anh. Trước đây Gabriel đã nhìn thấy cách xử sự này ở tất cả mọi người khi bước vào nhà mình. Thần Chết đã để lại dấu vết lên khuôn mặt Gabriel, giống như Birkenau đã làm hỏng khuôn mặt mẹ anh. Gilah không thể nhìn lâu vào mắt Gabriel vì bà sợ những gì mình có thể thấy trong đó.
“Trước vụ này ông ấy cũng không được khỏe. Dĩ nhiên, ông đã giấu nhẹm, thậm chí Thủ tướng cũng không biết”.
Gabriel không ngạc nhiên. Anh biết Shamron đã âm thầm chống đỡ bệnh tật từ nhiều năm nay. Sức khỏe, giống mọi thứ khác trong cuộc sống của ông, được xem là một điều tuyệt mật.
“Có phải là thận không?”
Gilah lắc đầu. “Căn bệnh ung thư đã quay trở lại”.
“Tôi tưởng là chúng đã được lấy ra hết”.
“Ari cũng nghĩ thế”, bà nói. “Nhưng chưa hết. Phổi ông ấy là một mớ hỗn độn do thuốc lá. Hãy khuyên ông ấy đừng hút thuốc nhiều nữa”.
“Ông ấy không bao giờ chịu nghe lời tôi”.
“Cậu là người duy nhất ông ấy chịu nghe. Ông ấy yêu cậu như con trai, Gabriel. Đôi khi tôi nghĩ ông ấy yêu cậu hơn Yonatan”.
“Đừng nghĩ thế, bà Gilah”.
“Ông ấy có những phút giây hạnh phúc nhất là khi ngồi với cậu trên sân thượng ở Tiberias”.
“Chúng tôi thường tranh cãi”.
“Ông ấy thích tranh cãi với cậu, Gabriel”.
“Tôi cũng thấy thế”.
Trên tivi, các Bộ trưởng Nội các và những người đứng đầu cơ quan an ninh đang đến văn phòng Thủ tướng họp khẩn cấp. Bình thường Shamron cũng có mặt ở đó cùng họ. Gabriel nhìn Gilah. Bà đang nắm chặt chỗ da bị sờn rách của chiếc áo khoác. “Chính Ari phải không?”. Bà hỏi. “Chính Ari là người đã lôi cậu vào cuộc sống này… sau vụ Munich”.
Gabriel nhìn đèn phòng cấp cứu nhấp nháy và lơ đãng gật đầu.
“Cậu ở trong quân đội à?”
“Không, lúc đó tôi đã ra khỏi quân đội. Tôi đang học tại Học viện Mỹ thuật Bezalel. Ari đến gặp tôi sau khi những con tin bị giết chết. Khi đó không ai biết chuyện này, nhưng Golda đã ra lệnh giết tất cả những ai có dính líu”.
“Tại sao ông ấy chọn anh?”
“Tôi nói nhiều thứ tiếng, và khi xem báo cáo về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của tôi, ông ấy nhận ra tôi có những đức tính cần thiết cho loại công việc mà ông đang dự tính”.
“Giết người ở khoảng cách gần, mặt đối mặt. Anh đã làm thế, đúng không?”
“Đúng vậy, Gilah”.
“Bao nhiêu?”
“Gilah”.
“Bao nhiêu, Gabriel?”
“Sáu”, anh trả lời. “Tôi giết sáu tên”.
Bà chạm đám tóc muối tiêu ở hai bên thái dương của anh. “Nhưng lúc đó anh mới là một thanh niên”.
“Chuyện này dễ làm hơn khi người ta còn trẻ. Càng lớn làm việc này càng trở nên khó khăn”.
“Nhưng dù sao thì anh cũng hoàn thành nhiệm vụ. Anh là người đi giết Abu Jihad, đúng không? Anh vào nhà hắn ở Tunis và giết chết hắn trước mặt vợ con. Rồi bọn chúng trả thù, chúng không trút lên quốc gia mà trút lên anh. Chúng đặt bom dưới xe anh ở Viên”.
Bà siết chặt vết rách trên áo Shamron. Gabriel nắm tay bà. “Không sao, Gilah. Chuyện đó xảy ra từ lâu rồi”.
“Tôi nhớ lúc điện thoại reo. Ari bảo với tôi bom đã nổ dưới xe hơi một nhân viên ngoại giao ở Viên. Tôi nhớ lúc đó mình vào bếp pha cho ông một tách cà phê. Khi quay trở ra tôi thấy ông đang ngồi khóc. Ông nói. ‘Lỗi của tôi, Gilah. Tôi đã giết vợ con anh ta’. Đó là lần duy nhất tôi thấy ông ấy khóc. Tôi không gặp ông ấy suốt một tuần. Cuối cùng, khi ông về nhà, tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra. Dĩ nhiên ông không trả lời. Lúc đó ông đã điềm tĩnh trở lại. Nhưng tôi biết ông đã luôn day dứt về chuyện này bao nhiêu năm qua. Ông tự trách mình vì chuyện xảy ra”.
“Ông ấy chẳng nên tự trách mình làm gì”, Gabriel nói.
“Anh không được phép đau buồn như bao người bình thường khác, đúng không? Chính phủ thông báo với thế giới rằng vợ và con của nhà ngoại giao đều đã chết. Anh chôn con mình ở đỉnh Olive - chỉ anh, Ari, và một vị giáo sỹ - và anh giấu vợ mình ở một nơi nào đó dưới tên giả. Nhưng Khaled đã tìm thấy cô ấy, và dùng cô ấy để nhử anh đến ga Lyon”. Một giọt nước mắt lăn trên gò má Gilah. Gabriel lấy tay lau nó đi, và cảm nhận được làn da nhăn nheo của bà vẫn mềm như nhung. “Tất cả những chuyện này xảy ra vì chồng tôi đã tìm gặp anh một buổi trưa tháng Chín cách đây lâu lắm rồi. Đáng lẽ anh có thể có một cuộc đời khác. Thay vì thế chúng tôi đã biến anh thành một tên sát nhân. Tại sao anh không trở nên cay độc, Gabriel? Tại sao anh không ghét ông ấy như các con của chúng tôi ghét bố chúng nó?”
“Hướng đi của đời tôi đã được vạch sẵn vào ngày người Đức chọn tên hạ sỹ người Áo nhỏ bé làm quốc trưởng cho chúng. Ari chỉ là người đưa đường dẫn lối mà thôi”.
“Cậu tin vào định mệnh đến thế sao?”
“Hãy tin tôi, Gilah, có một thời kỳ tôi cũng không thể chịu nổi khi nhìn mặt Ari. Nhưng tôi nhận ra mình giống ông hơn là tôi nghĩ”.
“Có lẽ đó chính là điều ông thấy trong bản báo cáo về khả năng của cậu”.
Gabriel cười mỉm. “Có lẽ đúng vậy”.
Gilah sờ vết rách trên áo Shamron. “Cậu có biết vì sao việc ấy lại xảy ra không?”
“Đó là một trong những bí ẩn lớn nhất của Văn phòng”, Gabriel đáp. “Có đủ loại giả thuyết điên rồ để phỏng đoán nguyên nhân và diễn biến, nhưng ông ấy không chịu nói sự thật”.
“Đó là đêm xảy ra vụ đánh bom ở Viên. Ari vội vàng đến đại lộ King Saul. Khi trèo lên xe, chiếc áo khoác bị mắc lại ở cửa, thế là ông kéo rách”. Bà đưa ngón tay mân mê chỗ rách. “Tôi nhiều lần muốn vá, nhưng ông ấy không chịu để tôi làm. Cứ để thế để tưởng nhớ Leah và Dani, ông nói. Ông ấy đã mặc chiếc áo rách nhiều năm nay vì những gì xảy ra với vợ con anh”.
Điện thoại reo. Gabriel nhấc ống nghe áp vào tai và lắng nghe một lúc trong yên lặng. “Tôi sẽ có mặt ngay, thưa ngài”, anh nói rồi cúp máy và quay sang Gilah.
“Điện thoại của Thủ tướng. Ông ấy muốn gặp tôi ngay lập tức. Tôi sẽ quay trở lại sau buổi họp”.
“Đừng lo, Gabriel. Yonatan sẽ đến đây ngay”.
“Tôi sẽ quay trở lại, Gilah”.
Giọng anh cương quyết. Anh hôn má bà, cảm thấy mình có lỗi, rồi đứng dậy bước đi. Gilah nắm tay Gabriel khi anh đi về phía cửa. “Mang theo cái này”, bà nói. “Ông ấy sẽ muốn anh giữ nó”.
“Đừng nói như thể Ari sẽ không qua khỏi”.
“Mặc áo vào và đi đi”. Bà mỉm cười cay đắng. “Anh không được để Thủ tướng chờ”.
Gabriel bước ra hành lang và đi vội đến thang máy. Anh không được để Thủ tướng chờ. Đó là những lời Gilah luôn nói với Shamron mỗi khi ông rời xa bà đi làm nhiệm vụ.
Xe hơi và đội cận vệ đang chờ anh ở bên ngoài. Họ chỉ mất năm phút để tới văn phòng Thủ tướng ở số 3 đường Kaplan. Những người cận vệ đưa Gabriel vào tòa nhà qua lối ngầm và dắt anh lên cầu thang vào một văn phòng lớn đơn giản đến bất ngờ trên lầu cao nhất. Căn phòng tranh tối tranh sáng. Thủ tướng đang ngồi tại bàn làm việc trong một chùm ánh sáng chiếu vào. Trông ông nhỏ bé hẳn đi trong tương quan với bức vẽ chân dung cao lớn của nhà lãnh đạo Do Thái Theodore Herzl đang treo trên tường. Đã hơn một năm Gabriel mới được diện kiến ông. Trong khoảng thời gian này, tóc ông đã chuyển từ màu bạc sang trắng, và đôi mắt màu nâu đã có ánh nhìn mệt mỏi của người già. Cuộc họp với Bộ An ninh vừa kết thúc, và Thủ tướng đang ở một mình cùng Amos Sharret, tân Giám đốc của Văn phòng. Ông ta đang nhấp nha nhấp nhổm đầy căng thẳng trong chiếc ghế bằng đồng, Gabriel bắt tay ông lần đầu tiên. “Rất hân hạnh, cuối cùng cũng được gặp anh”, Amos nói. “Tôi ước rằng chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh khác”.
Gabriel ngồi xuống.
“Cậu đang mặc áo của Shamron”, Thủ tướng nhận xét.
“Gilah muốn tôi mặc chiếc áo này”.
“Chiếc áo hợp với cậu đấy”. Ông mỉm cười xa vắng. “Cậu biết không, cậu đang bắt đầu trở nên giống ông ấy”.
“Đây có phải là lời khen không?”
“Ông ấy rất đẹp trai khi còn trẻ”.
“Ông ấy chưa bao giờ trẻ, thưa Thủ tướng”.
“Chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta già trước tuổi, và hi sinh tuổi thanh xuân để xây dựng đất nước này. Shamron chưa có lấy một ngày nghỉ phép kể từ năm 1947. Chẳng lẽ mọi chuyện lại kết thúc như thế này sao?” Thủ tướng lắc đầu. “Không, ông ấy sẽ sống. Tin tôi đi, Gabriel, tôi biết ông ấy còn lâu hơn cậu”.
“Shamron là người bất tử. Gilah nói thế”.
“Có lẽ không phải là bất tử, nhưng ông ấy sẽ không thể bị một nhóm khủng bố cướp đi mạng sống”.
Thủ tướng cau mày nhìn đồng hồ.
“Thủ tướng có chuyện muốn bàn với tôi?”
“Về việc bổ nhiệm cậu làm đội trưởng Lực lượng Đặc nhiệm”.
“Tôi đã đồng ý nhận nhiệm vụ này, thưa Thủ tướng”.
“Tôi biết, nhưng có lẽ bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để cậu nhậm chức”.
“Tôi có thể hỏi lí do tại sao không?”
“Bởi vì cậu cần tập trung sức lực lần theo dấu vết và trừng phạt những kẻ đã làm điều này với Shamron”.
Thủ tướng đột ngột im lặng, tựa như muốn cho Gabriel cơ hội thoái thác. Gabriel ngồi im, mắt nhìn xuống đôi bàn tay của mình.
“Cậu làm tôi ngạc nhiên”, Thủ tướng lên tiếng.
“Về việc gì?”
“Tôi cứ sợ cậu sẽ bảo tôi tìm một người khác”.
“Không ai được phép từ chối Thủ tướng”.
“Nhưng chắc chắn không chỉ vì lý do này”.
“Tôi có mặt ở Rome khi bọn khủng bố tấn công Vatican, và tôi cũng tiễn Shamron ra xe tối nay. Tôi nghe tiếng bom nổ”. Anh ngừng lại. “Mạng lưới này cần phải bị tiêu diệt, cho dù chúng là ai hay mục đích của chúng là gì - và phải tiêu diệt càng nhanh càng tốt”.
“Cậu nói như thể muốn trả thù”.
Gabriel nhìn lên. “Tôi muốn làm điều đó, thưa Thủ tướng. Có lẽ trong hoàn cảnh như thế này, tôi không phải là người thích hợp cho công việc”.
“Thực ra trong hoàn cảnh này, anh là người hoàn toàn thích hợp”.
Chính Amos là người thốt lên câu ấy. Lần đầu tiên, Gabriel quay lại nhìn kỹ ông. Người ông nhỏ nhưng khỏe khoắn, người như hình vuông. Tóc ông màu đen với đường viền như giáo sỹ, đôi lông mày ông rậm rạp. Ông vẫn là tướng trong IDF 1nhưng bây giờ ông không mặc quân phục mà mặc bộ đồ vest màu xám nhạt. Sự thẳng thắn của ông đã đem lại những thay đổi mới cho văn phòng. Lev giống que chọc của nha sỹ, lúc nào cũng tìm ra yếu điểm và những chỗ hư thối. Amos giống búa đóng đinh hơn. Gabriel sẽ phải rất cẩn thận khi làm việc cùng ông, phòng ngừa trường hợp búa rơi lên đầu mình.
“Chỉ cần cẩn thận không để sự giận dữ làm mờ đi sự sáng suốt của mình”, Amos nói thêm.
“Chưa bao giờ có chuyện ấy”, Gabriel trả lời, ánh mắt anh đáp trả cái nhìn cú vọ của Amos.
Amos cười nhạt, tựa như muốn nói. Sẽ không có vụ nổ bom ở ga Lyon nếu trong ca trực của tôi, chắc chắn là như thế. Thủ tướng tì lên hai khuỷu tay và ngả người tới trước.
“Cậu có nghĩ người Arập Xêút đứng sau vụ này?”
“Chúng ta có bằng chứng cho thấy mối liên hệ của Arập Xêút với hội Huynh đệ Allah”. Gabriel thận trọng nói, “nhưng chúng ta cần thêm thông tin mới có thể bắt đầu tìm kiếm một nhân vật cụ thể”.
“Ví dụ như Ahmed bin Shafiq”.
“Vâng, thưa Thủ tướng”.
“Nếu đúng là hắn thì sao?”
“Theo ý kiến của tôi, chúng ta đang đối mặt với một tổ chức, không phải là đang đối mặt với một phong trào. Đó là một tổ chức được chi trả bằng tiền của
Arập Xêút. Nếu chúng ta tiêu diệt tên thủ lĩnh, tổ chức này sẽ chết. Nhưng việc này không dễ, thưa Thủ tướng. Chúng ta biết rất ít về hắn, thậm chí còn không biết hình dáng hắn như thế nào. Việc này cũng sẽ rắc rối về mặt chính trị, vì có liên quan đến người Mỹ”.
“Chẳng có gì phức tạp. Ahmed bin Shafiq cố giết cố vấn thân cận nhất của ta. Vì thế hắn phải chết”.
“Nếu hắn hành động theo mệnh lệnh của Hoàng tử Nabil hay của một ai đó trong hoàng tộc - gia đình có mối quan hệ về kinh tế và lịch sử chặt chẽ với đồng minh quan trọng nhất của Israel?”
“Chúng ta sẽ sớm biết việc này”.
Thủ tướng nhìn sang Amos.
“Adrian Carter bên CIA muốn nói chuyện với cậu”, Amos thông báo.
“Ngày mai tôi sẽ đi Washington để tóm tắt cho anh ta những gì chúng ta biết về vụ tấn công Vatican”.
“Carter đã yêu cầu đổi địa điểm gặp mặt”.
“Ông ta muốn gặp ở đâu?”
“Luân Đôn”.
“Tại sao lại là Luân Đôn?”
“Do Carter đề nghị”, Amos trả lời. “Ông ta muốn gặp tại một địa điểm trung lập tiện lợi cho cả hai bên”.
“Căn nhà an toàn của CIA ở Luân Đôn trở thành đất trung lập từ khi nào vậy?”. Gabriel nhìn Thủ tướng, sau đó nhìn Amos. “Tôi không muốn rời Jerusalem - cho đến khi biết chắc liệu Shamron có qua khỏi không”.
“Carter bảo việc này khẩn cấp”, Amos nói. “Ông ta muốn gặp cậu tối mai”.
“Vậy thì cử người khác đi gặp ông ta”.
“Chúng tôi không thể”, Thủ tướng nói. “Cậu là người duy nhất được mời”.
Chú thích
1. Lực lượng phòng thủ Israel.