Ngược Về Thời Minh

Chương 201: Kẻ ác rục rịch




Nghe xong một hồi đối đáp giữa y và viên thị vệ nọ, đám người Dương Nhất Thanh chấn động toàn thân, hết nhìn bà lão có dung mạo tầm thường nọ lại nhìn sang Dương Lăng, đầy vẻ kinh ngạc lẫn nghi ngờ khó tin.

Bà lão nghe thị vệ nọ chuyển lời xong, khinh miệt lầm bầm mấy câu bằng tiếng Mông Cổ, nhưng liền tỉnh ngộ đã lỡ lời, bèn trừng to cặp mắt già nua nhìn Dương Lăng chằm chằm.

Khi thấy viên thị vệ nọ quay đầu nói với viên tướng lĩnh trẻ tuổi có khí chất trầm tĩnh đó mấy câu tiếng Hán, rồi trên khuôn mặt y hiện lên nụ cười đắc ý và rạng rỡ thì Mãn Đô Hải liền hiểu rằng mình nhất thời không cẩn thận suy xét kỹ nên đã bị y khéo dùng lời lừa gạt mà vạch trần được lai lịch thật sự của mình rôi.

Bà lão ngồi bệt xuống giường như một quả bóng xì hơi, liền đó lại ngước đầu lên nói to mấy câu, thị vệ quay đầu lại báo với Dương Lăng:

- Đại nhân! Bà ta nói đại nhân đừng uổng phí tâm cơ nữa, chúng ta không thể dùng bà ta để uy hiếp được ai đâu. Sinh mạng là do Phật Tổ ban cho, bà ta tuy quý nó, nhưng vì thảo nguyên đại mạc, bà ta có thể hy sinh bản thân bất cứ lúc nào.

Dương Lăng mỉm cười, trịnh trọng nói với Mãn Đô Hải:

- Đứng về phương diện cá nhân, ta rất khâm phục Hoàng hậu bệ hạ vì đại mạc mà sẵn sàng trả mọi giá. Bệ hạ yêu quý tính mạng người Mông Cổ, nhưng tính mạng người Hán cũng trân quý như vậy! Chúng ta tuyệt không phải là dê bò gà chim trong mắt các vị!

Thị vệ quay người dịch lại, trong lúc đó Dương Lăng quay sang bảo với thủ lĩnh thị vệ:

- Trông chừng bà ta! Bà lão này là một nhân vật hết sức quan trọng, các người không được rời mắt khỏi bà ta!

Tuy viên thủ lĩnh thị vệ không biết Dương Lăng là khâm sa, nhưng thấy Dương Lăng ra lệnh thẳng cho mình mà đại tướng quân tổng chế tam quan vẫn đứng một bên mà không nói gì, liền biết ngay rằng người này ắt hẳn là một vị quan lớn có phẩm hàm cao lắm. Hắn bèn vội khép na khép nép dạ một tiếng, rồi gọi mấy tay thị vệ vào trong phòng trông chừng mọi cử động của bà lão.

Dương Lăng cùng đám người Dương Nhất Thanh đi xuống lầu. Vừa xuống dưới lầu, Dương Nhất Thanh liền không nhịn được, hỏi ngay:

- Dương xưởng đốc! Bà lão này chính là... chính là Mãn Đô Hải hoàng hậu của Bá Nhan Khả Hãn ư? Không phải trên thảo nguyên có truyền thuyết nói rằng bà ấy đã bị bệnh qua đời rồi sao?

Dương Lăng cười đáp:

- Bà ta không phải là nhân vật trong truyền thuyết, thì việc sống hay chết của bà ta cần gì phải liên quan đến truyền thuyết? Đã là truyền thuyết thì ắt không phải là chuyện thật rồi.

Đỗ Nhân Quốc vỗ trán kinh ngạc thốt:

- Dương khâm sai thực lợi hại! Ti chức bị Khả Đôn này đến Khả Đôn nọ đôn đến lùng bùng cả tai, mất cả phương hướng, nghĩ đến tét đầu cũng không nghĩ ra bà ta là Mãn Đô Hải hiển hách một thời.

Người phụ nữ này thực là lợi hại, năm xưa dẫn thằng nhóc Khả Hãn mới tám tuổi chinh phạt Ngoã Thích, đánh Ngoã Thích đại bại tại Tháp Bác Nhĩ Đồ, ra lệnh Ngoã Thích từ đó trở đi không được gọi nhà cửa là cung điện, mũ đội đầu không được quá bốn sợi dây tua, ở nhà phải quỳ chứ không được ngồi, ăn thịt chỉ được dùng răng xé mà không cho dùng dao xắt, còn đổi tên thánh địa Ô Tô Khắc thành... cái tên gì mà giống tên loài cá vậy. Thực không thể tưởng tượng nữ anh hùng bá đạo như thế lại là một bà lão bình thường không chút bắt mắt này.

Dương Nhất Thanh khẽ thở dài:

- Phượng hoàng rụng cánh không bằng gà mái, danh oai một cõi là nhờ có quyền lực, mà bà ta... bất luận là tự nguyện hay bị bức bách đều hiển nhiễn đã rời xa quyền bính.

Làm sao mà Dương đại nhân lại nhận ra được bà ta vậy?

Dương Lăng đáp:

- Xưa nay tiến hành chiến tranh không chỉ đơn thuần là đánh giết. Năm xưa Lưu Bang bị vây trên núi Bạch Đăng, thiên quân vạn mã đều không thể đánh lui, nhờ Trần Bình hiến diệu kế, chỉ dựa vào một bức tranh mỹ nữ mà đã khiến bốn mươi vạn đại quân Hung Nô ngoan ngoãn lui chân (1). Những chuyện có khả năng ảnh hưởng đến chiến cuộc thật sự là rất nhiều, cho nên khi thám tử Nội xưởng thâm nhập vào đại mạc, bản quan đã hạ lệnh bất luận là tin tức gì đều phải ghi chép cẩn thận tỉ mỉ rồi đưa về.

Vì vậy bản quan mới hiểu rõ hơn về những ân oán tình thù giữa các bộ lạc Thát Đát, chuyện nhà chuyện cửa của các tù trưởng quý tộc. Do đó, bản quan đã biết chút ít bí mật về Mãn Đô Hải, lại cộng thêm tình tiết khi Miêu công công và Hứa tướng quân bắt người trở về, bản quan nối kết lại, suy đoán và đối chiếu lẫn nhau mới đoán ra được mấy phần.

Cả bọn cùng trở về bàn ngồi. Nghĩ tới người mà mình tự tay bắt được là phu nhân của Bá Nhan Khả Hãn, là Mãn Đô Hải Tư Cầm oai danh hiển hách trên thảo nguyên, chẳng khác nào lại có thêm kỳ công bên trên kỳ công, Miêu công công không khỏi tươi cười rạng rỡ:

- Bà lão này là hoàng hậu của Bá Nhan sao? Ha ha ha! Thật không ngờ! Thật không ngờ! Đúng là nhặt được quả trứng vàng trong đống củi. Vừa rồi Dương đại nhân đã nói với bà ta những gì mà khiến bà ta phải mở miệng thừa nhận vậy?

Dương Lăng cười đáp:

- Hỏa Sư từ lâu đã mang lòng không thần phục, chỉ là thế cô sức yếu nên không dám công khai phản kháng. Người mà Hỏa Sư cưới là con gái của Mãn Đô Hải, công chúa Y Khắc Tích, cho nên nhất định Mãn Đô Hải thấu hiểu phần nào dã tâm của hắn. Khi nãy tôi gạt bà ta, bảo rằng bà hãy cứ yên tâm ở lại nơi đây, Hỏa Sư đã liên thủ cùng chúng ta, cho nên chúng ta tịnh không có ác ý với bà; đợi khi Hỏa Sư tập kích giết chết được Bá Nhan, Đại Minh cùng Thát Đát giao hảo rồi, sẽ đưa bà ta trở về.

Trong cơn giận dữ, giọng điệu phản bác của bà ta rất oai nghiêm, khí thế bức nhân, như thể còn đứng trên cả Hỏa Sư và Bá Nhan vậy. Trong số các phụ nữ vương công quý tộc của Thát Đát, ngoại trừ Mãn Đô Hải, còn ai là người có tư cách này? Tôi lại tiếp tục vạch rõ lai lịch bà ấy, trông thấy vẻ mặt của bà ấy thì tôi liền không nghi ngờ gì nữa.

Trương Vĩnh nghi hoặc hỏi:

- Chuyện về Mãn Đô Hải, sau khi đến Đại Đồng ta cũng biết sơ được một ít. Bà ta là tiểu cáp đồn (phu nhân) của Khả Hãn Mãn Đô Lỗ. Mãn Đô Lỗ chết đi, bà ta được gả cho đứa cháu trai Bá Nhan của hắn, vẫn luôn nắm giữ quyền cao của Thát Đát. Gần năm sáu năm trở lại đây, quyền bính Bá Nhan mỗi lúc một tăng, vị phu nhân này lại dần dần biến mất tăm mất tích, trông tình hình này, chắc là bị Bá Nhan giam lỏng đây. Nay Bá Nhan đã gần như thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, thanh danh như mặt trời ban trưa, một bà lão sắp chết như bà ta thì có thể có tác dụng gì?

Dương Lăng lục lọc trong trí nhớ những tài liệu về vị hoàng hậu này do Hàn Lâm đưa đến, sau đó bảo:

- Mãn Đô Hải là người thuộc bộ lạc Sách Cổ Uông Cổ, cha là quý tộc Mông Cổ, từng nhậm chức Thừa tướng. Bà ta được gả làm tiểu cáp đồn (phu nhân) của Mãn Đô Lỗ, hạ sinh hai người con gái. Trưởng nữ là công chúa Bác La Khắc Sấm, gả cho Thái sư Gia Tư Lan; thứ nữ là công chúa Y Khắc Tích, gả cho Hỏa Sư. Hai người con rể này đều là thủ lĩnh những nhóm bộ lạc lớn của Mông Cổ.

Sau khi thành thân cùng với Bá Nhan khi ấy mới bảy tuổi, Mãn Đô Hải từng nắm quyền triều chính hơn mười năm, chinh phạt Ngoã Thích, đánh bại thủ lĩnh quyền thần quý tộc khác họ của Mông Cổ khi ấy là Diệc Tư Mã Nhân. Có thể nói phần lớn mãnh tướng dưới trướng Bá Nhan đều nghe theo lệnh bà ấy. Đồng thời bà ta còn sinh cho Bá Nhan bảy nam một nữ, cho nên bất luận là đối với vương tộc Thát Đát hay quý tộc của các bộ lạc, bà ta đều có sức hiệu triệu và ảnh hưởng to lớn vô cùng.

Dương Nhất Thanh lo lắng:

- Chỉ e không được lạc quan như vậy! Theo tình hình mà Hứa Thái trông thấy, có lẽ sau khi Bá Nhan trưởng thành, hắn bắt đầu e ngại quyền lực và sức ảnh hưởng của hoàng hậu hơn xa mình cho nên mới giam lỏng bà ta lại. Có điều sức ảnh hưởng của bà ta thật sự quá lớn, Bá Nhan cũng không dám xem nhẹ mà giết chết bà ta; nên hắn ta đành phải phao tin đồn trước, thử thăm dò phản ứng của các bộ lạc.

Bà ta nằm trong tay Bá Nhan, hắn giết cũng không được mà giữ cũng không xong. Nay bà ta rơi vào tay chúng ta rồi, chỉ sợ ngược lại Bá Nhan sẽ vỗ trán kêu may đây. Đại nhân cũng đã thấy đấy, bà lão này hết lòng hết dạ với bộ tộc Mông Cổ mình, vốn không hề để tâm đến tư oán tình thù riêng giữa bà ta và Bá Nhân. Chắc chắn bà ta sẽ không bao giờ đích thân đứng ra lợi dụng sức hiệu triệu của mình để đối kháng với Bá Nhan đâu!

Hơn nữa bà ta xa rời bộ lạc Mông Cổ, càng có lợi cho Bá Nhan thu gom đại quyền vào trong tay mình. Nếu hắn thông minh, tạo dư luận rộng rãi nói rằng phu nhân bị chúng ta bắt đi, khiến cho tất cả bọn chúng cùng chung thù địch... Ti chức lại thấy... lần này chúng ta đã giúp cho Bá Nhan rất nhiều rồi.

Miêu Quỳ và Hứa Thái nghe vậy thì đều thấp thỏm trong lòng. Dương Lăng lắc đầu cười bảo:

- Tiếc là hắn không nên phao tin đồn rằng Mãn Đô Hải đã chết quá sớm, càng không nên cầm tù bà ta bên ngoài bộ lạc một mình. Nay hắn làm vậy chẳng phải là tự vả miệng mình ư? Trước khi biết rõ Mãn Đô Hải sống hay chết, Bá Nhan ắt phải ngồi im quan sát tình hình, thậm chí che giấu tin tức. Có điều không biết hiện tại hắn đã biết được bao nhiêu?

Hứa Thái thoáng chần chừ, gian nan nuốt ngụm nước bọt, đành thú thật:

- Đại nhân! Doanh trại mà chúng tôi tập kích... tuyệt đối không còn nhân chứng sống. Hơn nữa, lúc hành quân trong đại mạc, chúng tôi đều cải trang thành người Mông Cổ nên cho dù Bá Nhan có hoài nghi cũng chưa chắc dám kết luận là do chúng ta làm.

Dương Lăng nghe xong, thoạt tiên hơi ngẩn ra, liền đó sực hiểu những người Thát Đát phụ trách giam lỏng Mãn Đô Hải đều đã bị giết sạch. Thị nữ nọ e rằng trong loạn quân đã.... Hứa Thái vì biết chuyện này hệ trọng, nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng hắn mới đành thú thật.

Y thầm thở dài, đành làm ra vẻ như không biết gì, chỉ nói:

- Hắn nắm bắt tình huống không chuẩn, vậy chi bằng chúng ta cứ lấy tĩnh chế động. Bảo mật nghiêm ngặt tin tức Mãn Đô Hải Khả Đôn rơi vào trong tay chúng ta.

Về phần Mãn Đô Hải có chịu phối hợp với chúng ta hay không thì thực ra cũng không cần. Loài sói có dã tâm trên thảo nguyên không chỉ có một hai con, không cần Mãn Đô Hải phải làm gì cả, kẻ có dã tâm chỉ cần biết tình cảnh của bà ta, tự nhiên sẽ lợi dụng bà ta để gây loạn.

Y nhìn mọi người chung quanh, nhón lấy một miếng thịt thả vào trong nồi nước sôi, mỉm cười nói tiếp:

- Thành bởi Tiêu Hà, mà bại cũng bởi Tiêu Hà(2). Bà ta đã thúc đẩy nên sự cường đại của Thát Đát, sự suy bại cũng sẽ bởi bà ấy mà bắt đầu. Mặt hàng này đáng đầu cơ à nha!

Dương tổng chế! Chuyện này nên bẩm cho Đại vương hay, tìm một chỗ trọ trong thành Đại Đồng, bố trí hết sức ổn thỏa cho bà ta, tuyệt đối phải giữ tin tức bí mật. Bà ta nặng lòng với thảo nguyên, chỉ cần không ép bà ta làm bất cứ chuyện gì, bà ta sẽ tiếp tục sống tốt. Đợi đến khi con mãnh hổ nào đó mọc đủ nanh rồi, nóng lòng muốn thử với Bá Nhan, chúng ta sẽ lại giao bà ấy ra, chắp thêm cho con mãnh hổ đó một đôi cánh.

Tuy Dương Lăng nói với ngữ khí bình thản, nhưng với mọi người có mặt tại đây, bất luận là văn hay võ, đều có thể cảm nhận được mùi vị máu tanh trong đó. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ không khỏi trộm ngó y, thầm nhủ: "Tên này, cũng khá là ác độc đây!"

Đỗ Nhân Quốc lại cười lớn một cách hào sảng, tán tụng:

- Hay! Kế này hay lắm! Mẹ nó! Mỗi năm không biết bao nhiêu dân chúng mất nhà, bao nhiêu phụ nữ thắt cổ, bao nhiêu người xa vợ mất con thê thảm vô cùng! Đối với bọn giặc Thát này thì không thể có lòng dạ đàn bà được!

Khâm sai đại nhân thực có bản lĩnh! Bản tướng giết người phải động đao mới thấy máu, ngài chỉ khua chút môi mép, số người bị giết e rằng còn nhiều hơn bản tướng nữa. Ừm... Những kẻ đọc sách đúng là không tầm thường, đây gọi là cái gì ấy nhỉ? Đúng rồi, "trong sách tự có lưỡi đao to"!

*****

Sơn trại Tiêu gia không hề nhỏ, chỗ mà Dương Hổ nói đến chẳng qua chỉ là một thôn núi nhỏ thuộc Tiêu gia trại mà thôi. Trại này nằm trên lưng chừng núi, về phía đông của núi Tuyết Phong, dân chúng rất ít khi ra khỏi núi, thi thoảng khi có thân thích đến thăm thì hàng xóm láng giềng đều thấy rõ cả, vì vậy Dương Hổ đợi đến khi bóng đêm chìm sâu mới lặng lẽ vào núi.

Khi buôn lậu tuấn mã ở quan ngoại để gom góp tiền tài hắn từng qua lại nơi này nhiều lần nên quen thuộc đường đi nước bước. Đi đến trước một căn nhà, hắn đưa tay gõ cửa, giữa tiếng chó sủa inh ỏi, Tiêu lão tứ khoác áo bông dày cộm, tay cầm chiếc đèn lồng ra mở cửa. Trông thấy đám người Dương Hổ, lão hoảng sợ giật nảy cả người, liền vội kêu bọn họ đi vào.

Tiêu lão tứ chỉ làm mã tặc được chưa tới hai năm thì đùi đã bị chém lúc quan binh truy quét, nên mới rời khỏi Bá Châu trở về quê nhà. Lúc còn buôn lậu ngựa, Dương Hổ thường hay đến chỗ này nghỉ qua đêm.

Tiêu lão tứ lặng lẽ đưa mọi người đến hậu viện để ở, rồi mới kéo tay Dương Hổ lo lắng bảo:

- Dương lão đại, anh điên rồi sao? Lúc này đang là lúc nào? Hơn mười vạn đại quân đang đánh nhau cả trong lẫn ngoài quan ải, thời buổi này ai dám bán ngựa cho anh chứ?! Ngộ nhỡ bị quan quân coi là gian tế, lúc đó có chạy cũng không kịp đâu.

Vì Tiêu lão tứ đã rút chân ra khỏi chốn giang hồ nên Dương Lăng không dám kể với lão chuyện lớn như mưu hành thích Hoàng đế, hắn chỉ cười bảo:

- Tiêu tứ ca nói đúng lắm! Ta cũng vì không hiểu tình hình, tưởng rằng có cơ hội kiếm ăn nào ngờ đến giờ ngay cả một thớt ngựa cũng không thu mua được. Định rời khỏi đây nhưng dọc đường trạm gác trùng trùng, hết cách mới đành đến chỗ anh đây tránh chút gió(*), đợi hơi bớt gió rồi lại đi.

(*) tiếng lóng của dân giang hồ, ý đợi qua cơn nguy hiểm.

Nói đoạn Dương Hổ móc từ trong người ra mấy viên vàng như hạt đậu, tròn nhẵn, vàng óng, nhét vào trong tay lão Tứ, cười bảo:

- Tứ ca sống giữa nơi núi hoang này cũng không dễ thở gì. Nuôi người, nuôi ngựa không thể dùng tiền của anh được, đây, hãy cầm tạm lấy mấy cục vàng này.

Tiêu lão tứ biết mấy viên vàng này chả phải có nguồn gốc tốt đẹp gì, thế là liền không khách sáo mà nhận luôn, rồi nói nhỏ:

- Trú lại nơi đây cũng không sao. Tôi đang kiêm nhiệm chức bảo trưởng, trong thôn đều là người miền núi hiền lành nhút nhát, cả đời chưa từng vào huyện lị, biết có khách đến nhà cũng sẽ không nói năng gì đâu. Khi nào bớt gió rồi thì hãy tranh thủ đi đi, lúc nay buôn bán không dễ đâu.

Phía sau là một dãy gian nhà thềm đá tường đất mái rơm, gian giữa trông còn tốt một chút, là chỗ trọ của vợ chồng Dương Hổ. Sau khi thu xếp cho mấy người bọn họ vào ở trong hậu viện ổn thỏa xong, Tiêu lão tứ tự thân đem ít thức ăn đơn giản tới.

Dương Lăng lếch thếch tiễn Tiêu lão tứ ra khỏi hậu viện. Khi trở lại dưới mái hiên để quay về phòng, hắn chợt loáng thoáng nghe thấy giữa câu chuyện trò của gian phòng bên trái dường như có nhắc đến tên mình, bước chân bất giác thoáng dừng lại, lặng lẽ bước qua.

Căn phòng này đã lâu không có người trú ngụ, cửa sổ đã rách, giấy chắn cửa sổ bay phần phật để lộ ra mấy khe hở. Dương Hổ ghé mắt nhìn vào bên trong, thấy rõ Phùng Phúc Chí và Lang lão nhị biệt hiệu là "Đại Vĩ Ba Lang" (sói đuôi lớn - ND), cùng Hồ Đại Chùy đang trú trong gian phòng này.

Phùng Phúc Chí vừa nhét thêm củi vào trong hốc lò sưởi giữa giường vừa lải nhải:

- Hôm nay chúng ta cũng thấy sự dũng mãnh của quan quân rồi đó. Cái tên thiên tổng được gọi là Quỷ vương đó, ông trời ạ, đáng là hảo hán ngồi ghế trại chủ trong giới lục lâm chúng ta à nha!Ta thấy Hổ ca cũng chưa chắc đã là đối thủ của hắn. Một đao chém đôi con ngựa, rõ thực oai phong, chậc chậc chậc!

Hồ Đại Chùy mặt mày ủ ê, tiếp lời:

- Lúc còn ở Bá Châu, thấy bộ dạng nhút nhát, hèn yếu của bọn quan binh đó ta còn tưởng là quan binh trên đời đều như vậy. Ôi, rốt cuộc hai trăm hán tử võ công cao cường bị người ta một phát nuốt sạch, chân mày cũng không thèm nhíu lấy một cái.

Không cần nhắc đến oai phong của quan binh hôm nay, chỉ nói nếu không phải may mắn được đám giặc Thát đó kéo đến, chúng ta trúng phải kế của Dương Lăng, gần trăm cân thịt này đã chôn hết ở đó rồi. Giết hoàng đế? Đến lúc này ngay cả cái bóng của Hoàng đế cũng còn chưa thấy nữa là!

Đại Vĩ Ba Lang nhếch miệng xoa chân, cười hắc hắc bảo: - Sẵn tiện nói luôn, các ngươi có để ý đến Khoá Hổ tẩu tử không? Hình như là chị ấy đối xử với tên đại quan họ Dương nọ không bình thường đâu nha!

Từ lúc đến sơn trại chúng ta, các ngươi có thấy tẩu tử nhỏ nhẹ mềm mỏng với ai bao giờ không? Vậy mà lúc trò chuyện với tên khâm sai họ Dương đó thì lại nhu hoà cứ như khuê nữ ấy; ngoan ngoãn nghe lời, ngượng ngùng bẽn lẽn, chậc chậc chậc...!

Này, Đại Chùy! Lúc ở kinh sư có phải Hổ tẩu đã bắt giữ tên họ Dương đó hai ngày không? Có phải do ở chung lâu ngày nên nảy sinh tình cảm không? Nghe nói những kẻ đọc sách đều cùng một giuộc như nhau, bụng dạ gian xảo, rất giỏi lừa gạt người khác. Bằng không thì Hồng Phất Nữ làm sao mà một lòng một dạ đi theo Lý Tịnh, kiên quyết không thích Cầu Nhiêm Khách (2)? Hổ tẩu của chúng ta lớn lên trong giới lục lâm, chưa từng gặp phải một vị thầy biết chữ nào, không chừng...

Dương Hổ nghe vậy giận bừng cả mặt. Khi nàng vừa thoát ra khỏi hang, ánh mắt lẩn tránh đó của Hồng Nương Tử đã khiến hắn sinh lòng nghi ngờ, chỉ là nhớ lại tính tình xưa nay của nương tử nên mới dẹp tan lo nghĩ trong lòng. Không ngờ đám huynh đệ này cũng nhận biết được, còn túm nhau nói bậy nói bạ sau lưng, làm sao mình ra mặt dẹp yên chuyện này đây?

Càng nghĩ càng giận, đang định dứt người rời đi, chợt hắn thấy Phùng Phúc Chí lại vứt vài thanh củi vào lò, phủi tay rồi leo lên giường, uể oải mắng:

- Tránh cái chân thối của mày ra xa chút đi!

Đoạn hắn nằm soãi ra trên đầu giường, hai tay gối đầu, thở dài:

- Đừng nói đến mấy chuyện tào lao đó nữa, tẩu tử là người như thế nào chứ? Ta lại cảm thấy lời mà tẩu tử nói là sự thật. Chúng ta ở Bá Châu làm đại vương một núi, tiêu dao tự tại biết dường nào? Từ lúc xông vào kinh chạm mặt với vị Dương Lăng đó, là bắt đầu hao binh tổn tướng, đến cả sơn môn ở Bá Châu cũng bị quan binh quét sạch.

Lưu thần tiên! Hừ! Cái con mẹ nó, là người của Di Lặc giáo mà, đám yêu nhân đó nói năng có thể tin được hay sao? Nếu Hổ ca không phải là người được tiên đoán sẽ cai trị giang sơn thì khó rồi! Các huynh đệ phái chúng ta thì thôi không nói làm gì, nhưng nếu để các lộ hảo hán trên Ngoạ Hổ sơn đã quy thuận về chúng ta biết được, liệu bọn họ sẽ còn một lòng một dạ ủng hộ Hổ ca làm lão đại không?

Nghe đến dây thì Dương Hổ giận đến hai tay run lên bần bật. Lúc bắt đầu tụ tập đồng đảng ở sơn lâm, hắn tịnh không có dã tâm gì quá lớn. Nhưng khi bị Lưu thần tiên gạt gẫm, đưa lời tâng bốc hắn lại tin là thật, thế là lòng tham đâm chồi mọc rễ trong lòng, hiện đã bỏ vào biết bao tâm huyết đến thế, cứ lo suy tính suy nghĩ thiệt hơn nên hắn cũng không còn giữ được vẻ thoải mái như xưa nữa.

Sau ngày nghe được lời của Phùng Phúc Chí, ngoài mặt hắn điềm nhiên như không để tâm, kỳ thực trong lòng lại rất để ý. Những lời lừa gạt của Lưu thần tiên coi hắn là chân long thiên tử, sao Tử Vi chuyển thế từng là một món vũ khí sắc bén tạo nên thanh danh cho hắn, khích lệ hùng tâm của hắn, nay lại trở thành tâm bệnh của hắn, trở thành cái vảy ngược không cho ai chạm vào của hắn.

Nghe xong lời này của Phùng Phúc Chí, hắn chỉ cảm thấy huynh đệ mình đang phá dỡ bệ đứng của hắn. Thứ mà hắn càng cảm thấy lo sợ trong lòng thì lại càng bị Phùng Phúc Chí nói toạt ra hết, mà lại nói rất thật tình, khiến hắn nghe mà lửa giận bốc lên ngùn ngụt trong lòng. Nhưng hắn lại chột dạ nên không thể ra mặt, loại tâm tình phức tạp ấy thực khó diễn tả nên lời.

Dương Hổ thầm nghiến răng, một ý nghĩ ác độc dần hình thành từ sự tủi thẹn trong lòng: "Mình đã bỏ ra biết bao tâm huyết, bỏ ra biết bao nỗ lực. Nay mình đang mang danh vị đệ nhất hảo hán lục lâm phương bắc là chính nhờ mình vận mệnh chân long thiên tử của mình. Sau khi trở về, một khi bọn chúng để lộ tin tức, công lao mình há sẽ chẳng đổ sông đổ biển?"

"Oanh Nhi... Dù sao đi chăng nữa thì vẫn là thê tử của mình, nàng ta sẽ không phá dỡ bệ đứng của mình. Hoắc ngũ thúc túc trí đa mưu, biết cái gì thì nên nói cái gì thì không nên nói. Nhưng mấy cái tên thẳng như ruột ngựa này thì phải xử lí thế nào đây? Bảo bọn chúng giúp mình lừa gạt người khác à? Những lời như vậy biết mở miệng nói như thế nào đây?"

Dương Hổ lặng lẽ bước đi, ngước nhìn những ngôi sao lạnh lẽo trên bầu trời xa xa, đầu óc xoay vần mấy bận, vẻ âm u trong mắt dần ngưng lại thành một đường. Hắn siết chặt nắm đấm, ý nghĩ từng thoáng qua trong đầu nay lại trở về, cắn lấy tim hắn như một con rắn độc, từng chút từng chút một tiết nọc độc vào lòng hắn: "Kẻ làm nên đại sự không được câu nệ tiểu tiết! Bậc đại trượng phu không thể không nhẫn tâm!"

Chú thích:

(1) Theo kế của Trần Bình, Hán Đế cho người mang một bức tranh thiếu nữ trung nguyên rất đẹp đưa cho Yên Chi, vợ của Thiền vu Mặc Đốn của Hung Nô, nói với bà ta nếu Mặc Đốn thắng được Hán đế thì sẽ mê luyến gái Trung nguyên. Yên Chi ghen nên thuyết phục Mặc Đốn cho rút quân. Sau này, Lưu Bang từ bỏ ý định chinh phục đại mạc bằng quân sự, chuyển qua hòa hiếu bằng cách kết thân gia và cống phẩm cho các tù trưởng Hung Nô.

(2) nguyên văn "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà". Tiêu Hà vốn là người huyện Bái (vùng Giang Tô ngày nay), là Thừa tướng nhà Hán. Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn Tín là "tam kiệt nhà Hán" ("phi Tam kiệt tất vô Hán thất" nghĩa là không có tam kiệt trợ giúp thì không có triều Hán). Ông có nhiều đóng góp cho thành công của Lưu Bang trong thời Hán Sở tranh hùng. Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn Tín, việc này đã trở thành một ngạn ngữ của Trung Quốc (成也蕭何,敗也蕭何, "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà").

(3): Cầu Nhiêm Khách, Lý Tịnh, Hồng Phất nữ được gọi là Phong Trần Tam hiệp. Mời xem truyện Kẻ Râu Xồm

http://www.truyenviet.com/truyen-nga...609-ga-rau-xom