Không có nhiều từ ngữ miêu tả nơi ở của đàn ông độc thân, nhất là một ông già. Và, tất nhiên, trong số lượng từ ngữ ít ỏi đó chẳng được mấy nghĩa tích cực. Khu vực này dường như bị bỏ quên trong ngôn ngữ loài người.
“Nghèo nàn” – Tiểu Hồ chẳng nghĩ ra từ nào tốt hơn để nói về ngôi nhà của Bạch Dương Lục Triều. Nghèo nàn vật chất là thứ dễ thấy nhất. Ông già buôn bán một thứ mặt hàng lạc quẻ thời đại và rõ ràng người dân thị trấn không mặn mà, thậm chí không quan tâm. Nhìn mớ đồ đạc cũ nát phủ bụi trong nhà, Tiểu Hồ đoán rằng vụ buôn bán nồi đất đã ế ẩm lâu năm. Tất cả nội thất đều xập xệ: bàn ghế gãy chân, kệ đựng đồ xiêu vẹo, tủ lạnh han gỉ méo mó như cục kim loại ép khuôn từ bãi phế liệu. Ngay cả chiếc bàn xoay nặn đất cũng nghỉ phép quá lâu, làm mái nhà cho lũ kiến và chưa biết khi nào hoạt động lại.
Tiểu Hồ ngó quanh và không thấy máy chiếu ba chiều, báo giấy hay tạp chí. Lục Triều sống hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Nhưng ngay cả thế giới tinh thần cũng nghèo nàn chẳng kém tình trạng vật chất. Tiểu Hồ thất vọng, nàng đã mong chờ nhiều hơn thế từ người gác đền Mộc Thần. Sách vở, dụng cụ thí nghiệm, vài món đồ ếm phép, chai lọ thủy tinh đựng độc dược, bình ngâm xác động vật trong phoóc-môn – những thứ cơ bản nhất về pháp sư hay những kẻ tỏ vẻ mình là pháp sư – Lục Triều đều không có. Thay vào đó, tất cả đều là nồi. Nơi đáng để sách, chỗ đáng để bình đều bị chúng xâm chiếm, chen chân lấn chỗ khắp nơi. Tiểu Hồ mở nắp vài chiếc nồi và hy vọng Lục Triều giấu đồ nghề ở đó. Đống nồi mở miệng đáp lại nàng bằng bụi rồi nhện. Cô gái thấy nhện liền giãy nảy, nhảy chồm chồm như con mèo bị kích động. Nàng sợ nhện, nỗi sợ cố hữu và không thể sửa.
Nghèo nàn bừa bộn là vậy nhưng căn nhà khá trong lành dù không lắp đặt máy lọc khí. Tiểu Hồ thực sự ngạc nhiên. Nàng có thể cởi mặt nạ phòng độc và hít thở, cảm nhận không khí dưới cánh mũi. Nghèo nàn không làm căn nhà sực mùi cũ mốc hay hôi hám. Có bụi, có mạng nhện, có kiến bò, có tiếng thạch sùng chặc lưỡi “tạch tạch tạch” ở xó xỉnh nào đấy nhưng chúng đến đây như một lẽ tự nhiên chứ không phải vì căn nhà bẩn thỉu. Đã lâu Tiểu Hồ mới lại thấy thạch sùng. Phi Thiên thành nơi nàng sống hay những thành phố mà nàng đi qua quá hiện đại, quá sạch sẽ, lũ thạch sùng chắc chắn sẽ ngã lộn cổ khi đụng phải tường sơn bóng nhẫy hay cửa kim loại lạnh toát. So với thế giới Tây Vực Châu ô nhiễm ngoài kia, căn nhà thực sự là thiên đường.
Lúc này Cụ Cố Tổ đang nằm khểnh trên cái ghế gãy một chân, say sưa nhấm nháp rượu cùng đồ ăn vặt. Ông già Lục Triều mở tủ lạnh đoạn hỏi Tiểu Hồ:
- Chuyện bầu cử thế nào? Con bé Lục Châu tìm được nhà tài trợ chưa? Ai là người hướng dẫn? Lập cương lĩnh tranh cử rồi chứ?
Cô gái nghe vậy thì hơi lạ. Ở nơi không có chó mà ăn đá và càng không có gà để gặm sỏi này, câu hỏi đó như ngược chiều gió. Nàng không nhớ trong thị trấn có nơi nào lắp đặt máy chiếu. Nhưng suy cho cùng nó cũng không phải vấn đề to tát. Tiểu Hồ giúp ông già chuẩn bị bữa ăn rồi trả lời:
- Tôi chỉ nghe loáng thoáng, thưa ngài. Từ lúc công chúa vận động tranh cử, tôi ít gặp gỡ cô ấy. Công chúa bận lắm, tôi cũng không rõ cô ấy soạn thảo cương lĩnh tranh cử hay chưa. Mà nếu có thì cô ấy cũng không thể nói với tôi, ngài biết đấy, chuyện hệ trọng mà! Nhưng tôi biết người hướng dẫn cô ấy là Trần Độ - thủ lĩnh Hội Đồng Pháp Quan, còn nhà tài trợ là Cao Khánh - ông chủ tập đoàn giải trí Phi Thiên thành.
Hai người vừa trò chuyện vừa mang đống thức ăn vào bếp. Tiểu Hồ xé bao bì đựng thực phẩm, nhận ra vài thứ lạ hoắc đóng đá tuyết, nhìn qua không biết là giống ôn gì. Ông già Lục Triều đặt chúng vào lò quay, nói:
- Lục Châu không có nhiều cơ hội. Nó sinh ngày 28 tháng 3 năm 7495, khoảng tám giờ tối, để xem... – Lục Triều khoanh tay ngẫm nghĩ –...năm đó trời đẹp, tiết xuân thịnh vượng, ba mặt trăng rõ ràng, ánh trăng chiếu thẳng hướng bắc tức hoàng cung nơi con bé sinh ra. Chà, vậy thì tính cách của Lục Châu chủ yếu là hiền hòa nhưng dễ xáo động, thường xuyên phiền muộn lo nghĩ, bề ngoài tuy an bình nhưng bên trong tiềm tàng những cơn giận dữ bất chợt. Làm thánh sứ thì ổn mà chính trị gia thì không. Con bé chẳng có cửa nào với anh trai nó.
- Ngài đã gặp công chúa? – Tiểu Hồ hỏi.
- Chưa một lần. Ta chỉ biết ngày tháng năm sinh của con bé. – Lục Triều lắc đầu – Làm người gác đền thờ là vinh dự đồng thời là tù ngục. Ta phải ở đây tới khi thành nắm tro tàn.
Tiểu Hồ chẳng dè ông già hiểu rõ công chúa nhường ấy. Nhưng nàng nghĩ Lục Triều từng gặp gỡ bí mật cha con Đệ Thập, tiếp xúc đủ lâu rồi tự khoác lên mình vẻ thông thái. Dăm ngày nay nàng có thành kiến với người già, nguyên nhân chủ yếu là Cụ Cố Tổ. Lúc này cụ cố đang nhấm nháp rượu với đồ ăn vặt, nghe hai người trò chuyện thì lên tiếng:
- Lại giở mấy trò bói toán hả, Mắt Xanh? Vậy mày thử bói xem khi nào ta tắc thở coi? Chẹp chẹp chẹp!
Lục Triều mỉm cười đoạn ngó vào lò quay rồi hít hít hửi hửi. Cảm thấy thời gian vừa đủ, ông già lôi mớ thức ăn từ lò ra ngoài. Tất cả đều là đồ lòng động vật, Tiểu Hồ vừa nhìn qua đã có cảm giác ghê cổ. Lục Triều nói:
- Ở đây không nhiều việc, tôi đành chơi bói toán giết thời gian. Có báo và tạp chí, nhưng ba tháng mới phát một lần, chờ đợi thực lâu! Cái máy chiếu ba chiều cũ thì hỏng, không sửa được và tôi không có tiền mua cái mới. Thi thoảng tôi cũng nấu thuốc nhưng chỉ giúp được người sắp chết hoặc người quá nghèo, những người đường cùng đã hết niềm tin vào thế giới hiện đại.
- Bọn chúng sống sót chứ? – Cụ cố hỏi.
- Một vài, nhưng ngay cả độc dược hạng nhất cũng không thể chữa bệnh tiểu đường giai đoạn cuối. Tấm ván nào có thể che lấp con thuyền đã thủng đáy?
Đương ngửa cổ tu rượu, cụ cố hơi nghẹn họng. Tiểu Hồ được dịp cười khanh khách. Lục Triều trút mớ đồ lòng vào chảo dầu sôi, dùng muôi khuấy dòng chất lỏng sủi sùng sục. Ông già lưng còng đi đứng chậm chạp nhưng nấu ăn nhanh nhẹn lạ thường. Mùi chiên rán bốc lên, Lục Triều trầm ngâm cất lời, giọng khi chậm khi mau, không rõ là nói với Tiểu Hồ hay cụ cố. Hoặc có thể là ông ta đang tự sự:
- Hơn ba trăm năm trước khi phi thuyền còn cồng kềnh, những vị hoàng đế còn nắm toàn quyền sinh sát và tôi còn chủ trì đền Mộc Thần, nơi đây vẫn đông người qua lại. Cứ nửa tháng, tôi lại tiếp một nhóm hai người hoặc có khi bốn, năm người. Họ là pháp sư, đại diện chính phủ, đại diện Đại Hội Đồng, thậm chí sứ giả Thánh Vực. Họ không thể vào đền thờ Mộc Thần mà chỉ đứng ngoài ngắm nhìn với lòng tôn trọng, kính ngưỡng và cầu thị. Khi ấy căn bếp này là một phần đại sảnh rộng thênh thang, tôi đón tiếp họ ở đây rồi bàn luận nhiều thứ, khuyên đám pháp sư hoặc kiếm thuật sư trẻ tuổi nên cống hiến cho con người thay vì lang thang làm kẻ dị hợm, hoặc tham vấn cho các chính phủ trước khi họ đẩy đám thanh niên trai tráng ra mặt trận. Chà... ít nhất tôi đã ngăn chặn được vài cuộc chiến tranh và một cơ số những gã điên muốn dùng cơ thể con người để thí nghiệm phép thuật. Nhưng cuối cùng tôi lại không thể ngăn chặn Thời Đại Thủy Triều. Đích thân Bạch Dương Đệ Lục đã tới và xin tôi lời khuyên, hoàng đế Lưu Vân quốc cũng đến, dòng máu Bạch Liên Đại Đế cũng đến, cả những ông vua họ Hoang Vệ của Tuyệt Tưởng Thành... Họ rất chân thành, rất muốn hòa bình, nhưng bằng một cách lố bịch đến không tưởng, Thời Đại Thủy Triều vẫn nổ ra. Tôi đã thất bại.
Cụ cố ngừng uống, miệng chem chép:
- Không riêng mày, tất cả Ngũ Pháp Sư đều vậy. Mà đó không phải là thất bại. Chúng ta chẳng thất bại điều gì, tự lũ con người muốn thế! Hồi đó nếu ta chủ trì đền thờ, ta sẽ bảo chúng đập nhau ngay lập tức!
Lục Triều cười phì. Ông già trút mớ đồ lòng đã chiên sơ sang cái chảo khác, niệm chú ngữ rồi ném vào đó một vốc đốm lửa đỏ vàng. Chúng bùng lên, cuộn vòng thành nhiều ngọn nóng cong vồng đẹp mắt và nhấn xuống đáy chảo khối nhiệt lượng nóng rực. Chất đốt khan hiếm, Lục Triều tận dụng phép thuật vào cuộc sống, nhân tiện tranh thủ tiết kiệm tiền. Thứ lửa đó dậy mùi thơm nức lại trào lên những đường nét thanh mảnh như có bàn tay vô hình uốn nắn, vẫn nóng hừng hực nhưng đầy tính nghệ thuật. Tiểu Hồ không làm được như thế, lửa của nàng luôn dữ dội và chỉ chực bùng cháy thiêu đốt mọi thứ. Các đại pháp sư Hỏa niệm mà nàng biết cũng không thể tạo ngọn lửa như vậy. Nếu làm việc ở nhà hàng, hẳn rằng Lục Triều sẽ khiến tất cả đầu bếp lẫn thực khách lác mắt ngưỡng mộ.
- Tôi trao lại trách nhiệm cho Thôn Cơ. Con bé tiếp quản đền thờ vào những năm tháng khó khăn nhất, thời kỳ Ngũ Pháp Sư bắt đầu suy tàn. – Lục Triều tiếp tục nói – Người ta nhận ra súng đạn giải quyết vấn đề triệt để hơn, và Ngũ Hành vẫn hoạt động bất kể Ngũ Pháp Sư tồn tại hay không. Số người đến đền thờ ít dần, ít dần. Rồi chẳng ai đến nữa. Những pháp sư hay kiếm thuật sư lang thang cũng chẳng còn vì họ mải liều mình tìm kiếm vinh quang hoặc chôn thây dưới những cơn sóng của Thời Đại Thủy Triều. Ôi, nực cười thay, chính tôi đã khuyên đám lang thang ấy làm việc có ích, vậy mà lúc họ biến mất thì tôi nhớ họ kinh khủng! Thôn Cơ chẳng thể làm gì. Khi tôi quay lại đây với tư cách canh gác đền Mộc Thần, con bé ấy đã mất niềm tin. Nó, như ngài bây giờ, bắt đầu dùng từ “loài người” như một cách đặt lên bàn cân với “loài khỉ”, “loài cá” hoặc “loài động vật” nào đấy. Và khi sự vụ thảm sát họ Bạch Liên xảy ra, Thôn Cơ đã bỏ đi. Con bé không còn niềm tin phụng sự Ngũ Hành nữa, nó coi đó chỉ là công cụ phép thuật.
- Thôn Cơ có một người bạn mang dòng máu Biệt Liên, nhỉ? Con bé xinh xẻo đó... tên gì nhỉ? – Cụ Cố Tổ hỏi.
- Vâng, là công chúa Biệt Liên Đích Trạc. Công chúa Đích Trạc bị giết hại trong cuộc đảo chính. Có lẽ tôi nên ngừng lại, dù sao thì ai cũng biết cả, nói thêm nữa mất vui. Vả lại nó không thích hợp cho ngày tái ngộ.... à, có vẻ được rồi!
Lục Triều hoan hỉ vớt món lòng sang một cái rổ để ráo dầu, sau nấu thêm món mì sợi bản to kiểu Bắc Thần quốc. Nhờ lửa phép thuật, món đồ lòng vàng rộm và không hề có vết cháy. Ông ta vui vẻ nấu ăn, hoàn toàn quên bẵng câu chuyện vừa kể. Tiểu Hồ biết chuyện đó, đúng hơn là quá nửa dân số Tâm Mộng đều thuộc làu. Trong số mười bảy người họ Biệt Liên bị giết, công chúa Đích Trạc bi thảm nhất. Người ta kể rằng sau khi bị bắn, công chúa không chết vì kẻ hành quyết run tay làm nòng súng chệch hướng. Thay vì bắn tiếp, đám tướng lĩnh đảo chính ra lệnh lột trần công chúa và ném cô ra ngoài khu phố đông người. Cô bị sỉ nhục, cưỡng bức rồi bị đánh đập tan thây bởi một đám đông nhân danh “cách mạng”. Công chúa Đích Trạc nổi tiếng sắc đẹp đã kết thúc cuộc đời như thế.
Nhờ phép thuật, Lục Triều nấu ăn nhanh hơn đầu bếp hạng nhất. Chỉ một loáng, ông già đã dọn ra những món truyền thống của Phi Thiên cộng thêm đĩa mì trộn đồ lòng thơm nức mũi. Trong lúc Tiểu Hồ băn khoăn nên thử món mì hay không thì hai ông già cụng ly rượu mừng ngày hội ngộ. Ông già Lục Triều vừa cụng ly vừa cúi thấp đầu, Cụ Cố Tổ gật gù tỏ vẻ hài lòng sau đánh ngoảnh sang Tiểu Hồ, ý nhắc nhở cô gái cần học tập thói quen kính trọng người già. Nhưng Tiểu Hồ chẳng quan tâm vì đã dồn hết tâm trí vào đĩa mì. Cô nàng thử đụng dĩa, nhắm mắt nhắm mũi nhai thứ thức ăn mà chưa một lần nếm thử. Cụ cố chép miệng lắc đầu:
- Thế đấy, lũ ranh con vô ý thức! Mà Thôn Cơ thế nào? Con bé ấy có quay lại đền thờ không? – Cụ cố lại ngoảnh về Lục Triều.
- Sau sự vụ dòng họ Biệt Liên, Thôn Cơ mất tích chừng năm mươi năm. Nhưng hai mươi năm gần đây, con bé ghé qua khá thường xuyên. Cứ độ hai, ba năm một lần, lần nào cũng mang theo người lạ vào đền thờ.
- Người lạ? Ai thế?
- Tôi không rõ, người đó luôn trùm kín mặt, dáng dấp như phụ nữ lớn tuổi. Tôi cũng không hỏi vì Thôn Cơ vẫn là chủ trì đền Mộc Thần, luật lệ ghi rằng người canh đền không được phép hỏi. – Lục Triều đáp lời – Tôi không thể bất tuân luật lệ.
Một tiếng sì sụp rõ to chen giữa hai ông già. Tiểu Hồ đã trót mê mẩn món mì trộn đồ lòng, cái miệng xinh xắn không kiềm chế nổi mà phát ra mấy âm thanh kém ý tứ. Hai ông già không lấy đó làm phiền, mà gật gù tán thưởng cô nàng biết cách thưởng thức. Cụ Cố Tổ xắn mấy miếng lòng nhai bọp bẹp, lẩm bẩm vừa khen ngon vừa chửi thề đoạn tiếp tục cuộc trò chuyện:
- Mày biết Thôn Cơ đang ở đâu chứ, Mắt Xanh? Ta cần gặp con bé đó.
Lục Triều đương bận đưa thức ăn sang chỗ Tiểu Hồ. Gần như mọi cái đĩa trên bàn đều tập trung trước mặt cô gái, Tiểu Hồ ngượng đỏ tía tai. Ông già Lục Triều mỉm cười với nàng tỏ ý cứ tự nhiên, sau đấy trở lại với cụ cố:
- Tôi đã hỏi nhưng Thôn Cơ từ chối trả lời. Người Diệp quốc mà, chắc ngài quá quen, họ sùng bái sự riêng tư tới mức cực đoan. Nhưng như vậy mới đúng là Lập Hoa Ngân Thôn Cơ mà chúng ta biết. Ít nhất thì sau nửa thế kỷ, con bé chịu ngồi lại với tôi, nói nhiều thứ, kể nhiều chuyện. Thậm chí chúng tôi còn chơi trò bói toán. Thôn Cơ không hoàn toàn lãng quên thế giới như bốn người khác của Ngũ Pháp Sư. Con bé biết những gì đang xảy ra với Tâm Mộng: Quỷ Vương trở lại, ác quỷ cánh đen Liệt Giả trở lại, Tuyệt Tưởng Thành sụp đổ, Liên Minh Phương Bắc tan rã... chúng tôi biết mọi thứ và dự đoán chúng từ mười năm trước.
- Bây giờ mày không còn là người Phi Thiên, không phải người phương tây nữa, Mắt Xanh. Mày là một ông già Đông Thổ thích bói toán và nằm dài trên ghế chờ ngày xuống lỗ! Chẹp chẹp! – Cụ cố chép miệng – Thế bói toán thế nào? Được vụ gì mới không?
- Vài thứ... hầu hết không hay ho... một số rất khủng khiếp. – Lục Triều trầm ngâm – Chúng tôi đã nhìn về Phi Thiên quốc. Những điềm báo nói rằng Bạch Dương Đệ Thập không thọ lâu, thằng nhóc đó sẽ ra đi trong năm nay, đi rất sớm. Biết đâu ngay tháng 3 này? Nhưng tôi hy vọng đó chỉ là sai số. Trời nhiều khi cũng sai, ngài từng dạy tôi như thế, phải không?
Đương lùa thức ăn vào miệng, Tiểu Hồ mém sặc. Nàng trố mắt nhìn hai ông già và đợi một trong số họ lên tiếng phủ nhận. Nàng mong đợi Cụ Cố Tổ sẽ giở giọng kẻ cả, chê người gác đền ít kiến thức thiếu kinh nghiệm. Nhưng cụ cố chỉ im lặng uống rượu. Lục Triều thấy cô gái trẻ hoang mang, bèn nói:
- Con người có vận mệnh. Vận mệnh tùy thời thay đổi, chia hai nửa: nửa trên và nửa dưới. Nửa trên do tay mình quyết định, nửa dưới do ngoại cảnh quyết định. Nửa trên áp chế nửa dưới thì vạn sự hanh thông, mà ngược lại thì trắc trở khúc mắc. Đệ Thập sinh tháng 10 năm 7445, xem bói vào mùa xuân thì ổn, nhưng năm nay tuyết tràn ngập Phi Thiên thành, mãi tháng 3 mà tuyết chưa tan, xuân chẳng phải xuân mà là đông giá rét. Từ đó ta thấy vận mệnh Đệ Thập nửa trên bị nửa dưới lấn át, toàn điềm gở không một điềm lành. Nhưng biết đâu ta tính sai? Trời và Vạn Thế quyết định đời người, không phải ta.
- Chỉ “trời” thôi! – Cụ Cố Tổ sửa lại.
- Không, tôi vẫn tin Vạn Thế. – Lục Triều nhún vai.
Cụ cố lắc đầu thở phì phì như khinh thị niềm tin ấy. Tiểu Hồ ngẩn ngơ chẳng biết hai ông già bàn luận cái gì, chỉ hiểu rằng Bạch Dương Đệ Thập đang gặp nguy hiểm. Nàng không tin bói toán quyết định đời người. Nhưng nghĩ lại cuộc bầu cử đang diễn ra ở Phi Thiên quốc, cô gái chợt có dự cảm không tốt. Những ông già có cái lý của họ.
Sau bữa ăn, Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ tới đền thờ Mộc Thần. Thời gian không còn nhiều, hai người phải khẩn trương trước khi những dấu hiệu của Lập Hoa Ngân Thôn Cơ biến mất. Trước khi đi, Lục Triều mang theo một chiếc vạc đất màu nâu cánh gián có quai xách. Cái vạc vừa nhỏ vừa nhẹ, trông giống vật đun nấu hơn là dụng cụ điều chế phép thuật. Tiểu Hồ định xách ba lô khởi hành thì Lục Triều nói:
- Đi đâu thế, bé con? Đền thờ ở ngay đây! Mà nhớ mang theo áo ấm!
Nói rồi ông già dẫn cô gái và cụ cố vào phòng ngủ, sau mở ra một lối đi bí mật dưới gầm giường và được che đậy bằng tấm tôn sắt. Nó khoét xuống sàn nhà một cái lỗ vuông đen ngòm, sâu hun hút, thi thoảng phả lên những làn gió lạnh. Cái lạnh không rởn óc mà mát lành, đối lập hoàn toàn bầu không khí hầm hập bí bách bên ngoài ngôi nhà. Đám con buôn Tây Vực Châu mà biết nơi này hẳn sẽ thi nhau tới đây, vác theo cơ man máy hút khí cùng bình dự trữ và hét giá bán cao ngất. Trong cảm giác kỳ quặc xen lẫn nỗi sợ không gian kín, Tiểu Hồ miễn cưỡng chui mình qua cái lỗ vuông rồi trèo xuống bằng những nấc thang gắn vào tường. Nàng cẩn trọng rờ mũi chân, thấp thỏm lo sợ có con quỷ dữ nào đó từ bóng tối vươn ra tóm chân mình lôi tuột đi.
Kế tiếp Tiểu Hồ, hai ông già lần lượt bước xuống. Khi hai người chạm chân trên đất, miếng tôn sắt tự động khép lại. Không để Tiểu Hồ thêm lo ngại giữa không gian tối om, Lục Triều niệm chú ngữ vận Hỏa niệm, bàn tay của ông bùng cháy ngọn lửa màu xanh lục. Ánh sáng soi rọi, khung cảnh xung quanh dần hiện hữu. Bao quanh ba người là một đường hầm đất rộng rãi, hai bên tường vồng lên thành mái vòm khum khum rủ xuống vài chùm rêu xanh ẩm ướt. Màu xanh! – Tiểu Hồ thầm reo lên. Nhiều ngày ở Tây Vực Châu, nàng đã phát chán màu xám, đen, vàng ối đầy ô nhiễm của xứ sở này. Nay gặp sắc xanh rêu, cô gái mừng ứa nước mắt. Rốt cục Tây Vực Châu cũng có màu xanh thực vật.
Lục Triều lấy một ngọn đuốc đoạn thả mồi lửa, đuốc cháy nồng mùi nhựa cây phả ánh xanh lục. Ông già đi trước, Cụ Cố theo sau, không quên tu rượu trên chặng đường quá đỗi quen thuộc. Tiểu Hồ thì khác. Nàng mới đến lần đầu, đôi mắt phấn khích nhìn ngang ngó dọc chẳng biết chán dù đường hầm loanh quanh chỉ có đất đá và những chùm rêu lan ra từ các kẽ nứt chân chim trên tường. Nhờ đám rêu nên không khí ở đây trong lành hơn rất nhiều, mặt nạ phòng độc trở thành vật dụng thừa thãi. Theo lời Lục Triều, đường hầm chỉ dài khoảng một cây số.
- Khi năm tháng của Ngũ Pháp Sư dần tàn lụi, Thôn Cơ và ta đã yểm bùa lên ngôi đền. – Lục Triều kể chuyện giết thời gian – Nó dần chìm xuống lòng đất trong khi người viếng thăm ngày càng ít đi, cuối cùng biến mất hẳn. Những người thực sự biết vị trí đền thờ đã biến mất cùng Thời Đại Thủy Triều, tài liệu sách vở ghi lại một cách mơ hồ nên lớp người kế cận không bao giờ tìm được ngôi đền. Còn ta ở lại đây, mỗi năm gia cố thêm bùa phép để tránh đôi mắt con người và máy móc trắc địa. Một lúc nào đó, ngôi đền sẽ bị tầng đất chèn ép và sụp đổ, lúc ấy nhiệm vụ gác đền mới hoàn thành. Sẽ không còn người chủ trì, không còn người gác đền cũng không còn Ngũ Pháp Sư nữa.
- Tại sao phải như thế? Chẳng lẽ ngài và bà Thôn Cơ không muốn người ta kính ngưỡng Ngũ Pháp Sư nữa? – Tiểu Hồ hỏi.
- Chỉ là vòng lặp cho một chu kỳ khác. Con người lại kính ngưỡng Ngũ Pháp Sư, tìm kiếm mục đích riêng của họ qua những cuộc tranh chấp và ruồng bỏ khi thời gian đến. Vậy tốt nhất là để Ngũ Pháp Sư biến mất. Việc đó đơn giản thôi. Chúng ta từng ở đỉnh cao, ai ai cũng biết tiếng cho tới khi suy sụp. Nhưng hàng trăm năm đã qua, chỉ còn một số rất ít người biết ta gác đền Mộc Thần hoặc từng là Ngũ Pháp Sư. Thời gian là vậy đấy!
- Những đền thờ khác thì sao?
- Chung số phận. Tất cả đều chìm xuống lòng đất. – Lục Triều trả lời – Đất hoặc “Thổ” tuy là một nguyên tố trong Ngũ Hành nhưng đồng thời là trung tâm Ngũ Hành. Vạn vật đều trở về đất. Dẫu sao các vị tà thần Ngũ Hành vẫn còn đó, đền thờ chỉ là công cụ giao kết mà thôi, chúng chẳng linh thiêng cũng không thần thánh. Chúng quá mệt mỏi với thế giới Tâm Mộng rồi, hãy để chúng an nghỉ.
Tiểu Hồ bất giác nhìn quanh. Lịch sử huy hoàng của Ngũ Pháp Sư đang kết thúc như bóng tối đường hầm. Sau chuyến đi này, cửa hầm lại đóng kín. Một ngày nào đó, người gác đền lại đi qua đây với ngọn đuốc cháy sáng nhưng leo lét giữa bóng tối sâu thẳm. Cứ lặp đi lặp lại như vậy cho tới khi ngôi đền hoàn toàn tan vỡ dưới sức ép của tầng địa chất. Cuối cùng sự hoang hóa hoàn toàn chiến thắng và ngự trị Tây Vực Châu trong vĩnh hằng. Nghĩ ngợi một hồi, Tiểu Hồ hỏi tiếp:
- Đệ Thập đang gặp nguy hiểm sao? Có cách nào cứu giúp ông ấy không, thưa ngài? Ngài có thể quay về Phi Thiên thành chứ?
Lục Triều đăm đăm nhìn bóng tối, đôi mắt xanh thẳm phản chiếu những giọt lửa xanh lục. Ông già tặc lưỡi:
- Cái giá của sống lâu là cô độc. Họ Bạch Dương thọ lâu hơn người thường, còn ta sống lâu hơn mọi thành viên dòng họ. Nó là món quà của Mộc Thần nhưng cũng là sự trừng phạt. Về Phi Thiên thành? Muốn chứ, sao không? Ta chưa bao giờ nhìn thấy ngôi mộ của mẹ ta, không bao giờ biết bà ấy nói điều gì trước lúc chết. Ta cũng muốn gặp hậu duệ của mình. Ông già nào không muốn thấy con cháu? Nhưng số phận của ta là ở đây và chờ ngày đền thờ sụp đổ, chỉ khi đền thờ sụp đổ, ta mới tự do. Còn Đệ Thập... vận mệnh của thằng nhóc đó đã được định đoạt, ta chẳng thể làm gì hơn. Sao, bé con yêu quý Đệ Thập hả?
Tiểu Hồ gật đầu không do dự. Trong giới chính trị, Đệ Thập là kẻ đáng ghét nhưng với Tiểu Hồ, hoàng đế chỉ đơn thuần là một ông hàng xóm tốt tính mà mọi trẻ con nào đều yêu thích. Nàng chưa thấy hoàng đế bế Lục Châu bao giờ, nhưng bản thân nàng được ông công kênh trên vai nhiều lần. Lúc đó, ông kể cho nàng nhiều thứ mà có lẽ ngay cả công chúa cũng chưa từng nghe. Tới khi Tiểu Hồ lớn lên, hoàng đế vẫn luôn tươi cười chào đón nàng, dù ngoài kia ông nổi tiếng “mặt sắt” và không khoan nhượng trước bất cứ ai. “Con gái!” – Giống đại thánh sứ, Đệ Thập thường gọi nàng như vậy.
Thấy Tiểu Hồ buồn so, Lục Triều nói:
- Này bé con, muốn thử bói toán không? Thi thoảng bày trò cho vui! Ta chưa từng dạy dỗ ai, nhưng dạy cho bé con vài thứ, coi như quà gặp mặt.
Tiểu Hồ chưa kịp trả lời, cụ cố phía sau đã đằng hắng:
- Nó phải gọi mày là “thầy”, quỳ gối dưới Mộc Thần và bốn vị tà thần khác, cắt máu ăn thề vĩnh viễn trung thành với đền thờ thì mới được phép học.
- Chuyện quá lâu rồi, cụ cố! Bỏ qua đi! – Lục Triều cười – Cùng lắm là tôi hối lộ cho ngài một chai rượu, nhé?
Cụ Cố Tổ đang nghiêm mặt, nghe tới “rượu” thì mừng quýnh, khỏi quan tâm lễ nghi quy tắc gì ráo. Tiểu Hồ nghi hoặc:
- Tôi không thích bói toán, thưa ngài.
- Chỉ là thú vui thôi! – Lục Triều cười – Nhưng nếu hiểu về thứ này, bé con sẽ dùng phép thuật tốt hơn. Đã nghe Bát Biến bao giờ chưa?
Cô gái lắc đầu. Lục Triều giảng giải, giọng già nua vang trong đường hầm tối om, đùa giỡn trên ngọn lửa xanh lục cháy tí tách như kể lại thời đại huy hoàng nhất của Ngũ Pháp Sư:
- Ngũ Hành và Bát Biến vừa là hai nhưng cũng vừa là một. Ngũ Hành có năm nguyên tố, Bát Biến có tám cửa. Lấy “Trời” chủ phía nam đối nghịch “Đất” ở phía bắc, lấy “Lửa” chủ phía đông đối nghịch “Nước” ở phía tây. Giữa Trời và Lửa có “Đầm” nằm hướng đông nam, giữa Đất và Nước có “Núi” nằm tại tây bắc, hai thứ thông nhau. Giữa Trời và Nước có “Gió” nằm hướng tây nam, giữa Đất và Lửa có “Sấm” nằm hướng đông bắc, hai thứ xô xát nhau. Tám cửa đó đối nghịch nhau, tương trợ nhau, và đó là cách thế giới Tâm Mộng hình thành. Những phép thuật cổ xưa nhất từ phương đông đã sinh ra như thế...
...
Trong lúc Lục Triều dẫn Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ đến đền thờ thì bên ngoài thị trấn vô danh, một kẻ khác vừa đặt chân tới. Y đi một mình, đôi chân rệu rã vì cuộc hành trình dài đằng đẵng, chiếc mặt nạ phòng độc trên mặt đã dính đầy cát bụi. Việc y cần làm bây giờ là uống chút nước. Nhưng ở thị trấn khỉ ho cò gáy này, những cửa hàng chẳng quan tâm lời lãi hay thu hút khách, cứ sáu giờ là đóng kín cửa để tránh gió bụi. Mà hiện tại đã bảy giờ tối.
Lang thang khắp thị trấn song chẳng tìm được miếng nước, kẻ nọ đánh liều gõ một tiệm nhỏ. Ngay tức thì cánh cửa sổ mở bung, va mạnh tới nỗi màng chắn bụi rung bần bật. Một người phụ nữ nhỏng đầu ra quát tháo:
- Điên à? Không thấy đóng cửa hả? Muốn sửa giày thì mai quay lại!
Kẻ nọ ngước lên, nhận ra tấm biển quảng cáo sửa chữa giày dép... không hề tồn tại. Y cười rồi xòe một đồng vàng xin nước. Bà chủ tiệm sửa giày chỏng lỏn xòe ba ngón tay. Kẻ nọ chép miệng, đặt thêm ba đồng vàng lên bệ cửa. Y nhận được một chai nước hơi xỉn màu và có cặn dưới đáy. Nhưng ít nhất nó vẫn là nước có thể uống. Y tu một hơi sạch bách, nhổ toẹt mấy rỉ cặn, sau hỏi:
- Người bán nồi có ở đây không? Một người chỉ bán nồi đất... bà biết người đó không?
- Đằng kia! – Bà chủ tiệm chỉ tay – Đi một quãng, quẹo phải là tới! Mà sao hôm nay ai cũng hỏi lão già ấy thế? Bộ có đám ma à?
Nghe vậy, kẻ nọ gật gù. Y tháo mặt nạ phòng độc, lộ ra một dung diện đã qua thẩm mỹ. Từng cái cười đôi môi lẫn cử động đôi mắt đều cứng nhắc thiếu tự nhiên. Bà chủ tiệm nhìn y hồi lâu. Cuộc đời bà ta gắn liền với thị trấn và Tây Vực Châu đã năm mươi năm, nhưng đây là lần đầu tiên bà thấy đàn ông phẫu thuật thẩm mỹ. Kẻ nọ thấy vậy thì cười nhã nhặn:
- Ở đây có trẻ con không? Tôi chẳng thấy đứa nhóc nào. Thị trấn mà không có trẻ con thì buồn nhỉ? Ý tôi là bé gái ấy... ở đây có bé gái không?