Ngồi Tù Ở Phủ Khai Phong

Chương 70: Chương 70





Thiếu niên áo trắng nhìn theo bóng lưng Thôi Đào rời đi, sắc mặt trầm xuống nhưng vẫn mỉm cười, xoay người đi lên lầu, bước vào Nhã gian số 1.
Truy Phong đang ngồi cạnh bàn, rót một tách trà rồi đưa cho thiếu niên áo trắng.

Thiếu niên áo trắng nhận lấy, dùng khăn gấm trắng chùi tách xong rồi tiện tay vứt đi, sau đó mới đưa tách trà lên miệng uống một hơi cạn sạch.
“Chưa tính là suýt thành công mà đã mất 30 bàn rồi, cậu đúng là biết “tiết kiệm tiền” cho thiếu chủ thật đấy.” Truy Phong không kìm được mà chế giễu hắn một câu.
“Tôi nào biết cô ta không giống người thường, nhưng cô ta cũng rất đặc biệt, khá thú vị đấy.

Anh cả cũng đừng nhìn thấy thế mà chế giễu tôi, anh giỏi thì làm đi, để tôi thưởng thức tài năng của anh một tí?”
“Ta chỉ biết giết người chứ chẳng biết dỗ người, nhất là phụ nữ.” Truy Phong cứng nhắc nói lại.
Thiếu niên áo trắng bỗng nhớ lại bộ dạng hoàn toàn không để ý tới mình của Thôi Đào, cười nói với Truy Phong: “Bàn tay này của tôi thích dính máu của người đẹp, nếu thiếu chủ muốn giết cô ta thì anh cả nhớ nhường cho tôi đấy nhé.”
Truy Phong bất lực gật đầu.
“Thiếu chủ đâu rồi?” Thiếu niên áo trắng lại hỏi.
“Về rồi.”
“Bộ quần áo trắng của thiếu chủ để lại cho tôi này thoải mái thật đấy, đúng là chẳng hề tầm thường.” Thiếu niên áo trắng thở dài.
Truy Phong không nói gì tới chuyện này, chỉ dặn thiếu niên áo trắng phải xử lý sạch sẽ những phiền phức còn sót lại của Địa Tang Các.
“Trừ Triều đình ra, e là bên Thiên Cơ Các cũng sẽ nhúng tay vào điều tra.

Ta đã bảo Hồng Y trở về phục mệnh, báo lại với Các chủ Thiên Cơ Các rằng người của Triều đình đã giết Tô Ngọc Uyển rồi.”
“Chiêu này của anh cả hay thật đấy! Địa Tang Các có được ngày hôm nay không thể thiếu được sự si tình và dung túng của Các chủ Thiên Cơ Các dành cho Tô Ngọc Uyển.

Trước đây phủ Khai Phong diệt phân đà Biện Kinh của Thiên Cơ Các, giờ lại giết Tô Ngọc Uyển, lại còn tiêu diệt hoàn toàn Địa Tang Các nữa.

Cục diện sau này sẽ có nhiều màn hay để xem đấy!”
Thiếu niên áo trắng dứt lời liền sửa sang lại quần áo trên người mình, cố gắng để mọi thứ đều sạch tinh tươm không chút cẩu thả nào, còn giơ tay áo lên nâng niu ngửi một cái nữa.
“Vẫn còn thơm này!
“Nếu cậu dám làm thế trước mặt thiếu chủ thì giờ ta không cần rót trà cho cậu nữa rồi.” Truy Phong vừa nói vừa châm trà cho hắn.
“Thôi đừng! Người ta nói “đồng hội đồng thuyền”, nếu không có tôi thì anh cả sẽ cô đơn lắm đấy.”
Truy Phong lạnh lùng liếc nhìn Truy Vũ, không đáp lại mà chỉ hỏi hắn đã sắp xếp 30 bàn kia chưa.
“Cho cô ta thật đấy à?”
“Cho.”

2 canh giờ sau, phủ nha An Bình nhận được báo án, có 5 người chết ở viện Phúc Điền thành An Bình.
Sau khi ăn cơm trưa không lâu, 5 người này đột nhiên phát điên rồi hôn mê bất tỉnh, cuối cùng là tắt thở.
Vì số lượng người chết khá nhiều, thuộc vào vụ án nghiêm trọng nên Thôi Mậu cũng lập tức được thông báo.
Thôi Mậu sai người gọi ngỗ tác trong nha môn đến điều tra hiện trường, lại được cho biết ngỗ tác Diêu là 1 trong 5 nạn nhân đó, người đã chết thì sao nghiệm thi được chứ.
Vì thường phải tiếp xúc thường xuyên với thi thể nên bị rất nhiều người xem là xúi quẩy, ngỗ tác thuộc vào tiện dịch* trong nha môn, còn trong buôn bán là thuộc hạ đẳng.

Những người chịu đến nha môn làm ngỗ tác đa phần gia cảnh đều không khá, xuất thân thấp hèn.

Ngỗ tác trong nha môn đúng lúc về quê chịu tang nên mới nhận ngỗ tác Diêu từ viện Phúc Điền tới, vốn y là đại phu, trong nhà khốn khó nên mới lưu lạc tới An Bình để tìm việc làm, vừa làm được ở phủ nha chưa tới nửa tháng.
(*) Nha dịch hạng thấp kém nhất.
Nếu không có ngỗ tác nghiệm thi thì sao có thể xác định được nguyên nhân tử vong, truy ra hung thủ đây? Thôi Mậu lập tức sai thuộc hạ đi tìm người thay, nếu thực sự vẫn không có thì chạy tới huyện nha gần đó để mượn người đi.
Nha dịch muốn nói rồi lại thôi, dưới sự thúc giục của Thôi Mậu hắn mới bảo: “Thôi thất nương cũng có nghiệm thi ở phủ Khai Phong, vậy chúng ta có thể mời…”
Nha dịch không dám nói tiếp nữa, hắn bị một ánh mắt của Thôi Mậu dọa sợ nuốt hết lại vào bụng.
Trước đây Thôi Mậu luôn cảm thấy con gái làm công việc nghiệm thi này là rất mất thân phận, nhưng sau khi xảy ra chuyện, ông ta biết mình nên sửa lại suy nghĩ này rồi.

Giờ đây ông ta đã suy nghĩ thông suốt, Thôi Đào nghiệm thi phá án lại đều đã được Thái hậu Lưu và Quan gia ngự chuẩn, cần gì phân biệt đó là ai nữa chứ.
Thôi Mậu đang do dự không biết có nên gây rắc rối cho Thôi Đào nữa hay không thì có một tên nha dịch đến báo cáo lại thông tin họ vừa tra ra được.
Những món mà người chết đã ăn đều được tặng dưới danh nghĩa của Thôi thất nương.
Thôi Mậu hơi sửng sốt, hỏi rõ rằng “Thôi thất nương” có phải đúng là con gái mình không rồi không do dự gì nữa, phái người tới báo tin ngay cho Thôi Đào.
Thôi Đào đang ăn mận trong phòng với Tiểu Mã thị.
Lúc mận chín vàng, chọn hái trái không to không nhỏ, không bị sâu mọt, sau khi ngâm trong nước muối thì phơi khô rồi bỏ hạt, tiếp đến lại phơi, chờ tới khi khô hoàn toàn mới gom vào.

Lúc ăn với canh thì rửa sạch, dùng để nhắm rượu cũng rất ngon.
Mận này đều là do tự tay Tiểu Mã thị làm, niềm vui trong lúc rảnh rỗi mà thôi.

Sau khi biết được Thôi Đào thích ăn uống, bà bèn gọi nàng tới nếm thử, nếu nàng thấy ngon sẽ làm thêm một túi cho Thôi Đào cầm đi.

Để con bé ở phủ Khai Phong có mệt, muốn uống chút rượu cũng có thể ăn chung với mận rồi nhớ tới bà.
Trong món mận này có xen vị mặn trong vị chua ngọt, cảm thấy thanh khiết hơn mứt trái cây bình thường, ăn vào cũng sướng miệng hơn, dai dai.

Hơn nữa nó còn có tác dụng bồi bổ và điều hòa cơ thể, thanh gan giải nhiệt, trị chứng thiếu âm* của dạ dày.
(*) Thiếu âm tức là khi năng lượng âm của cơ thể bị cạn kiệt dẫn đến tình trạng dư thừa dương, từ đó gây nóng sốt, đổ mồ hôi, nhiệt tứ chi, mệt mỏi, khó chịu…
Thôi Đào ăn hết ngay 1 đĩa.

Tiểu Mã thị thấy thế, bật cười sai người chuẩn bị một bình rượu mận xanh cho nàng.
Ai ngờ đúng lúc này, có người của Thôi Mậu phái đến.
Lúc nghiệm thi tra án tất nhiên không thể uống rượu được, Thôi Đào miễn cưỡng buông bình rượu mận xanh thơm ngon xuống, nắm một nắm mận muối rồi đi.
Hàn Kỳ nghe nói vụ án có liên quan tới Thôi Đào cũng muốn hỏi tới, bèn đi với nàng tới viện Phúc Điền.
“Sáng nay lúc dùng cơm ở Phù Dung Các, có một thanh niên áo trắng đến bắt chuyện với em, nhận ra danh tính của em lại còn muốn mời em ăn cơm, em bèn thuận miệng đuổi hắn đi.

Xem ra hắn thật sự giữ lời, gửi 30 bàn cơm tới viện Phúc Điền rồi.”

Liên quan tới nàng mà lại liên quan tới viện Phúc Điền, Thôi Đào chỉ có thể nghĩ tới chuyện này.
“Khéo thật nhỉ.” Hàn Kỳ thở dài
Thôi Đào quay đầu nhìn xung quanh một chút, thấy không có ai nhìn họ.

Nàng lấy 1 quả mận từ trong túi giấy ra rồi nhanh chóng nhét vào miệng Hàn Kỳ.
Hàn Kỳ giật mình, sau đó mới từ từ nhai.
“Mẹ vợ Lục lang làm đấy, thấy mùi vị thế nào?” Thôi Đào hỏi.
Hàn Kỳ nghe xưng hô “mẹ vợ” này, không kìm được mà bật cười rồi lập tức gật đầu.
Đến viện Phúc Điền, Thôi Đào chóng xem xét tình trạng của 5 người chết.

Trong lúc đó, Thôi Mậu cũng nghe những người khác trong viện kể lại tình cảnh khi ấy.
“Đinh đại lang luôn nói mình là một cái ô, trời mưa rồi, hắn phải mở mình ra.

Hắn luôn giang 2 canh tay ra, bảo phải che mưa cho chúng tôi.”
“Lý tam lang thì xua tay chạy vù vù, còn định tới nhà xí tìm phân nữa, may mà bọn tôi cản lại kịp đấy! Tôi nghĩ chắc 8 phần là hắn nghĩ mình thành con ruồi rồi.”
“Khúc nhị lang thì như bị điên ấy, nói cháy rồi, sau đó đâm đầu vào chum nước.”
“Ngỗ tác Diêu thì kêu khóc bảo mình chết oan, là chồng y hại chết y!” Người chứng kiến chuyện này không quên bổ sung, giọng lúc ngỗ tác Diêu khóc có hơi lanh lảnh, chắc chắn là nghĩ mình là phụ nữ rồi.
“Tề ngũ lang là người ngoan nhất, chỉ ngồi xổm trên mặt đất rồi chất đá lên nhau thôi.”
Thôi Mậu nghe lời khai xong thì cảm thấy hơi khó hiểu, ông ta lập tức nhìn về phía Thôi Đào, thấy nàng đang nghiêm túc xem xét tai, mắt, mũi, miệng, 2 tay và làn da của từng nạn nhân.

Chẳng hiểu tại sao bộ dạng này lại hết sức bắt mắt.

Lúc này Thôi Mậu mới giật mình ý thức được con gái của mình không giống với những người phàm tục kia.

Lúc trước con mắt ông ta thật tục tĩu, đúng là vô tri, nông cạn, bẩn thỉu mà.
“Có xuất hiện triệu chứng nôn mửa, còn sinh ra ảo giác, nguyên nhân tử vong hẳn là ngộ độc thức ăn mà dẫn tới nội tạng suy kiệt rồi.” Thôi Đào hỏi tình hình lúc ăn cơm trưa, nghe nói họ chia 6 người 1 bàn, nhưng chỉ có 5 người ngỗ tác Diêu là xuất hiện tình trạng này, Khâu đại lang ngồi chung không hề có bất cứ hành động khác thường nào.
“Hỏi rõ ra thì được biết mấy món này đều do Phù Dung Các tặng, đúng như Thôi nương tử đoán vậy, là ban sáng một vị thiếu niên áo trắng trả tiền, bảo Chưởng quỹ Phù Dung Các đưa 30 bàn cơm tới, lấy danh nghĩa của Thôi nương tử ạ.” Nha dịch nói.
Thôi Mậu bèn hỏi Thôi Đào có ấn tượng gì với vị thiếu niên áo trắng kia không.
“Có.” Thôi Đào sai người chuẩn bị giấy mực, lập tức vẽ ra chân dung thiếu niên áo trắng rồi bảo Thôi Mậu chiếu theo chân dung này tìm là được.
Thôi Mậu quan sát bức tranh một chút rồi kinh ngạc nói: “Đây chẳng phải là Mạc nhị lang đấy sao?”
“Mạc nhị lang là ai vậy?” Thôi Đào vội hỏi.
“Cha hắn là một nhà nho ở địa phương, từng làm thầy giáo cho 2 anh trưởng của con đấy.

Nhưng ông ta đã đi từ sớm rồi, để lại 2 đứa con thơ.

Nghe nói lão nô bộc trong nhà đã nuôi 2 đứa nhỏ lớn lên, giờ chúng lại không thích đọc sách như cha mình mà đều hối hả kinh doanh.” Nhắc tới chuyện này, Thôi Đào vẫn còn thấy tiếc.
Thôi Đào lại hỏi 2 anh em này tên là gì.

Anh cả nhà họ Mạc gọi là Mạc Truy Phong, năm nay 22 tuổi; lão hai tên là Mạc Truy Vũ, năm nay 18, cũng là thiếu niên áo trắng nàng gặp ban sáng.
Vị Mạc nhị lang này cực thích sạch sẽ, cũng rất thích người đẹp, lúc nào cũng mặc đồ trắng.

Anh cả Đại lang của hắn rất thạo việc kinh doanh, quán rượu, nhà trọ, quán trà đều làm được, gia tài rất đồ sợ.

Mạc nhị lang cũng có tài kinh doanh, nhưng hắn chỉ làm ăn về đồ trang sức quý giá và tranh chữ cổ, phong nhã hơn anh cả hắn rất nhiều, nhưng tính tình lại hay bắt bẻ và cực thích soi mói.
“Xem ra ở An Bình này cũng nhiều nhân tài phết nhỉ.” Thôi Đào thuận miệng buông một câu, hỏi người viện Phúc Điền cơm trưa còn gì không, nhất là ở bàn của ngỗ tác Diêu kia.
Đối với câu hỏi này, tất cả những người ở viện Phúc Điền đều đồng loạt lắc đầu.
Các nhà ở viện Phúc Điền thường không được ăn ngon, hiếm khi có người có lòng cho họ một bữa ngon, lại còn là món từ Phù Dung Các nữa, mọi người đều như phát điên vậy, ăn không còn sót lại cọng rau thừa, đến cả miếng hành lá cũng không còn.
Nếu đã không đủ manh mối trong thức ăn, vậy cũng chỉ có thể khám nghiệm tử thi.
Thôi Mậu nghe con gái mình nói muốn khám nghiệm tử thi, mắt còn mở to hơn cả nhãn cầu, ông ta mấp máy môi, muốn nói nhưng lại không dám.

Ông ta biết chắc chắn mình không hợp để nói, nhưng lại vô thức không kìm lại được.

Thôi Mậu không còn cách nào, chỉ biết dùng răng cắn môi dưới mình, tự nhủ mình đừng quản chuyện của con gái.
“Hình như có 1 món mà chỉ có tôi không ăn thôi, nấm Phù Dung.

Tiểu nhân cứ ăn nấm là sẽ dễ bị nổi mẩn đỏ nên dù có ngon tới đâu tiểu nhân cũng không dám ăn ạ.” Khâu đại lang giải thích.
“30 bàn, bàn nào cũng có nấm Phù Dung.

Sáng tôi cũng đã ăn qua món này rồi, chỉ dùng chân nấm, toàn bộ đều là màu trắng.

Anh có thấy món nấm trên bàn của mình có màu gì khác không?” Thôi Đào hỏi Khâu đại lang.
Khâu đại lang lập tức nói: “Không chỉ có màu trắng không đâu, vì tôi không ăn được món đó nhưng lại hơi thèm thuồng nên vẫn nhìn chăm chú, còn nhớ rất rõ.

Trong món nấm Phù Dung đó còn có nấm màu nâu nữa.”
“Nấm độc có thể gây ảo giác, dẫn tới nội tạng bị suy kiệt mà chết, nguyên nhân gây tử vong chủ yếu, vẫn cần phải mổ —”
“Không cần, không cần, thế này là đủ rồi!” Thôi Mậu lập tức nói, nói xong ông ta còn thận trọng liếc nhìn Thôi Đào, hạ giọng, nhẹ nhàng hơn, “Đủ rồi, thật sự đã đủ rồi.”
“Ờ.” Thôi Đào miễn cưỡng đồng ý.
Thôi Đào đề nghị Thôi Mậu cho nha dịch niêm phong cả viện Phúc Điền lại trước, sau đó gọi tất cả nhân viên về phòng ngồi đợi, tạm thời không được phép ra ngoài.
Thôi Mậu đồng ý, vừa dựa theo đề nghị của Thôi Đào để giao việc vừa sai nha dịch thu gom xác chết lại, cẩn thận ghi chép thời gian phát sinh vụ án theo lời của tất cả nhân chứng.
Thôi Đào và Hàn Kỳ thì tới thẳng Phù Dung Các, nếu vụ án này đã có liên quan tới nàng, hung thủ lại dám dùng danh nghĩa của nàng để tặng món ăn có độc thì hẳn đã chuẩn bị sẵn để bị nàng bắt rồi.
Đầu tiên bọn Thôi Đào tra hỏi Chưởng quỹ và tư ba của Phù Dung Các, khả năng gây án của thiếu niên áo trắng Mạc Truy Vũ căn bản đã bị loại bỏ.
Theo lời của Chưởng quỹ, sau khi trò chuyện vài câu với Thôi Đào lúc sáng, Mạc Truy Vũ đã trở về phòng số 1, cùng dùng bữa sáng với anh cả của mình.


Lúc rời khỏi, hắn còn đến gọi 30 bàn cho viện Phúc Điền, tiền cũng trả đủ.
Sau đó thì Phù Dung Các bọn họ nấu ăn chuẩn bị món, 30 bàn không phải số lượng nhỏ, vốn nguyên liệu hôm nay Phù Dung Các chuẩn bị không đủ nên phải ra ngoài mua thêm, sau đó mới bắt đầu nấu ăn, bận rộn gần 2 canh giờ mới xong xuôi hết.

Tiếp đó là sai tư ba trong quán đưa cơm tới viện Phúc Điền, vì quá nhiều nên phải mượn hộp cơm từ các quán gần đó, lại thuê 3 chiếc xe chở, 6 tư ba cùng nhau đưa đi.
Lúc 6 tên tư ba tới nơi thì cũng đúng lúc tới giờ ăn trưa, trong viện Phúc Điền có rất nhiều người.

Họ nói rõ mục đích tới xong, nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của viện Phúc Điền, tất cả đều nhao nhao dời bàn, giúp đỡ bày cơm nước ra, cảnh tượng hơi hỗn độn.
“Vừa đúng 3 hộp cơm là đủ 1 bàn, chúng tôi có 6 người, cứ mỗi 2 người sẽ phụ trách 1 xe, cơm trên xe đều giống món nhau cả.

Vì thế lúc chia món thì chỉ cần phụ trách phần của mình là được.

Nhưng họ đều tự bày món ra, chúng tôi chỉ phụ trách thu lại hộp cơm rỗng, đếm đủ số xong thì rời đi.”
“Vậy lúc đó các anh có để ý tới món nấm Phù Dung trên bàn ngỗ tác Diêu có gì lạ không?” Thôi Đào hỏi.
6 tên tư ba đều lắc đầu bảo không để ý.

Thực sự lúc đó quá lộn xộn, họ chỉ lo nhìn dáng vẻ vui mừng của những người này thôi, không hề chú ý tới chuyện họ bày món ăn ra thế nào.
Lại hỏi đầu bếp của Phù Dung Các, nấm Phù Dung ở 30 bàn này đều được xào chung với nhau.

Người trong bếp đều có thể làm chứng, nhiều món như thế, họ không thể làm riêng từng bàn được, đều phải cố làm chung một nồi rồi chia ra sau.
“Nói cách khác thì nấm từ trước khi ra khỏi Phù Dung Các đều không bị gì, có thể vấn đề xuất hiện trên đường đưa cơm hoặc lúc bày món.

6 tên tư ba chia ra 2 người 1 nhóm, trừ khi là cả 2 cùng đồng mưu gây án, nếu không thì tư ba bên này cũng được loại bỏ hiềm nghi.”
“Nấm độc phải được làm sẵn mới có thể trộn lẫn vào trong món nấm Phù Dung này được.

Em gặp Mạc nhị lang, đưa món tới viện Phúc Điền, tất cả đều hoàn toàn là ngẫu nhiên.

Tư ba cũng như em vừa cân nhắc, vì thế khả năng Phù Dung Các gây án là rất nhỏ.

Rất có thể trong viện Phúc Điền có người ủ mưu dùng nấm giết người, vì đúng lúc được tặng món mà cảnh tượng lại lộn xộn nên mới thừa cơ ra tay luôn.”
Thôi Đào đồng ý, “Thực ra dùng nấm độc giết người sẽ đơn giản hơn dùng những thứ có độc khác, chỉ cần biết trên núi có nấm nào có độc, tiện tay lên hái là được.

Nhưng mà không phải ai cũng nhìn ra được nấm độc cả, những ai xuất thân từ nông thôn, gần nơi hoang dã, hiềm nghi sẽ lớn hơn.”
Nhất định phải điều tra được quan hệ xã hội thật sự của 6 người ngồi chung bàn lúc đó, tìm ra nghi phạm có động cơ giết người.
Tất cả người trong viện Phúc Điền đều có đăng ký, vụ án xảy ra vào giữa trưa, viện Phúc Điền cũng không có người ngoài nào.

Người ở đây khá nhiều, thường xuyên gặp nhau nên đều khá quen thuộc.

Nếu có kẻ lạ mặt, chắc chắn mọi người đều sẽ để ý.
Lúc Thôi Đào và Hàn Kỳ trở về viện Phúc Điền, nha dịch cũng vừa sửa soạn hết bằng chứng mà các nhân viên cung cấp trong buổi trưa.

Hàn Kỳ bèn nhận bằng chứng và ghi chép, lật từng trang đọc qua.
Thôi Đào nghĩ nếu chuyện Phù Dung Các tới giao đồ ăn là tình cờ, vậy trưa hôm nay chắc chắn nhà bếp của viện Phúc Điền cũng có chuẩn bị cơm rồi.
Trong phòng bếp 3 người phụ trách nấu ăn chính, Khổng thị, Vưu thị và Thẩm thị, cả ba đều đã lập gia đình.

Khổng thị lớn tuổi nhất, năm nay 35, thị làm trù nương ở viện Phúc Điền đã được 8 năm, là hộ dân ở lại viện Phúc Điền lâu nhất.

Vưu thị thì 27 tuổi, ở viện Phúc Điền được 3 năm.

Thẩm thị 23, mới đến viện Phúc Điền nửa năm trước.
3 người đều là những người nhanh nhẹn, sức khỏe tốt, khỏe mạnh, dù trong viện Phúc Điền có rất nhiều người những vẫn có thể nấu đủ cơm được.

Tất nhiên, cơm trong viện Phúc Điền không phức tạp, chỉ có một ít cám gạo cho vào nồi rồi nấu thêm một vài món ăn, làm thêm ít bánh nướng, bánh bao là đã đủ 1 bữa rồi.
Trùng hợp nữa là Khổng thị là vợ của Đinh đại lang, một trong những người chết, Vưu thị là vợ của Khúc nhị lang, Thẩm thị cũng là vợ của ngỗ tác Diêu.
Trong phòng bếp vẫn còn 3 cô gái trẻ tuổi khác giúp gánh nước, nhóm lửa.

Một người là Đinh Thúy Thúy, 14 tuổi, là con gái nhỏ của Khổng thị và Đinh đại lang.

Một người tên Vương Tương Vân, là cô nhi, 13 tuổi, từ năm 8 tuổi tới nay vẫn luôn ở viện Phúc Điền, được Khổng thị chăm sóc.

Người cuối cùng là Lưu Tiểu Nguyệt, 15 tuổi, là con gái của Vưu thị với chồng cũ, sau đó đi theo thị để gả cho Khúc nhị lang.
Thôi Đào: “Đã chung một nhà thì sao lúc dùng cơm mấy người lại không ăn cùng họ?”
6 người đàn ông mà ăn cả bàn cơm như thế, không nghĩ tới phụ nữ và trẻ con à?
“Đàn ông bọn họ đang rất vui vẻ, chúng tôi không tiện ngồi vào bạn, hơn nữa trong phòng bếp vẫn còn cơm chưa ai ăn mà.” Thẩm thị giải thích.
Thôi Đào lại dò hỏi tình hình cụ thể của 3 nhà, Khổng thị và Đinh đại lang vẫn còn 2 đứa con trai nữa, giờ đều đang học nghề mộc, vì thế buổi trưa không về nhà.
Vưu thị và Khúc nhị lang quen biết nhau ở viện Phúc Điền, vừa mới cưới được chưa đầy 2 tháng, vì vậy cả hai vẫn chưa có con cái gì.
Thẩm thị và ngỗ tác Diêu vốn có 2 con trai, nhưng 1 năm trước vì ra bờ sông nghịch nước mà cả hai đều trượt chân chết đuối hết cả.
“Tôi nghe nói ngỗ tác Diêu vốn là đại phu, sau này không ổn nên mới tới An Bình tìm việc, vốn dĩ các người ở đâu mà tới vậy?” Thôi Đào hỏi.
“Vốn là người Thúc Lộc, thật ra cũng tạm ổn.


Nhưng anh ấy muốn kiếm sống bằng nghề mua bán lương thực, kiếm thêm chút tiền để cho 2 đứa nhỏ học hành, kết quả là gặp mùa mưa, lương thực bị mốc hết, không chỉ không kiếm được thêm mà còn phải bù tiền vào.

Sau đó 2 con trai lại xảy ra tai nạn.

Có một thầy bói nói phong thủy ở Thúc Lộc không hạp với bát tự của vợ chồng chúng tôi, rất xúi quẩy, vì thế chúng tôi bèn tới An Bình để cầu bình an.” Thẩm thị giải thích.
Thôi Đào lại hỏi Thẩm thị và ngỗ tác Diêu có phải người trong thành nội Thúc Lộc không, hay là người ở trong làng ngoại thành.
“Trong thành, tổ tiên cũng thế.

Anh ấy làm đại phụ, tất nhiên phải ở lại huyện thành mới làm được rồi.

Nhưng sau khi 2 con trai xảy ra tai nạn, mọi người đều chê anh ấy xúi quẩy, không tìm đến anh ấy xem bệnh nữa.

Sau khi tới An Bình, chẳng ai biết được khả năng của anh ấy, cũng chẳng có ai mời.

Anh ấy bèn học nghề với lão ngỗ tác, sau khi biết nghiệm thi thì đến làm việc ở huyện nha An Bình.” Thẩm thị giải thích.
“Sao lại trùng hợp như thế, các người đều làm trong phòng bếp, còn những người chồng đều đúng lúc ngồi chung 1 bàn à?” Thôi Đào hỏi lại.
“Vốn chúng tôi đang nói chuyện nên mới ở cùng nhau.” Khổng thị giải thích với Thôi Đào, lúc Vưu thị và vợ chồng Thẩm thị, ngỗ tác Diêu mới tới viện Phúc Điền đều do thị nhiệt tình giúp đỡ.

Chuyện phủ nha thiếu ngỗ tác cũng là thị biết được tin rồi đề xuất với vợ chồng ngỗ tác Diêu.
Thôi Đào gật đầu, tỏ ý đã hơi hiểu ra.

Vì họ khá thân thiết nên nhóm đàn ông cũng vậy, lúc ăn cơm đều ngồi chung với nhau.
Thôi Đào lại lần lượt hỏi riêng Khổng thị, Vưu thị, Thẩm thị rằng gần đây mấy người chết có gì bất thường không, hoặc có từng mâu thuẫn với ai không.

Bọn thị đều bảo không có.
Thôi Đào lại hỏi Đinh Thúy Thúy, Vương Tương Vân và Lưu Tiểu Nguyệt, 3 đứa trẻ này tâm trạng rất suy sụp, đều sợ người lạ, lúc nàng thẩm tra không dám ngước mắt lên nhìn.

Đáp án của chúng cũng giống với 3 người Khổng thị, đều bảo là không có.
Thôi Đào quan sát thấy 3 đứa trẻ này đều khá thô kệch, có thể thấy đã phải làm việc nặng từ nhỏ rồi.

Trên cổ tay Lưu Tiểu Nguyệt có vết bầm, xem ra đã từng bị người nào đó túm chặt cổ tay.
Thôi Đào còn phát hiện trên cổ Lưu Tiểu Nguyệt có vết đỏ, dù phần lớn đều bị cổ áo che lại, nhưng Thôi Đào vẫn tinh mắt trông thấy.
Thôi Đào lại dò xét Lưu Tiểu Nguyệt lần nữa, 15 tuổi, hơi gầy hơn so với những người đồng trang lứa, nhưng dáng người mảnh mai và có phần hơi xinh xắn.

Vưu thị dẫn theo nó đi tái giá với Khúc nhị lang, kiểu quan hệ cha con không chung huyết thống thế này có ý nghĩa phân tầng rất khác.
Vết thương trên người Lưu Tiểu Nguyệt đã khiến Thôi Đào không thể không nghĩ nhiều được.
Thôi Đào chọn một căn phòng trống, gọi riêng Lưu Tiểu Nguyệt vào trong.
Thôi Đào nhẹ giọng hỏi Lưu Tiểu Nguyệt rằng nàng có thể xem cổ nó một chút được không.
Lưu Tiểu Nguyệt lắc đầu, lúc này nó túm chặt cổ áo của mình lại, không cho Thôi Đào kiểm tra.
“Dù chị không muốn nói nhưng em làm như thế là đang khiến hiềm nghi của mình và mẹ bị tăng lên đấy.

Nếu giờ chị không thể kiểm tra được tình trạng của em, sau này người của phủ nha cũng sẽ làm.” Giọng nói của Thôi Đào rất dịu dàng, từ từ bàn bạc với Lưu Tiểu Nguyệt.
Lúc này Lưu Tiểu Nguyệt mới thả lỏng tay ra, cho phép Thôi Đào kiểm tra.

Thôi Đào phát hiện trên người của Lưu Tiểu Nguyệt có rất nhiều vết bầm và dấu hôn, sau khi hỏi thăm, Lưu Tiểu Nguyệt bật khóc thừa nhân đúng là do cha dượng Khúc nhị lang gây ra.
“Bắt đầu từ khi nào?” Thôi Đào hỏi.
“Hôm kia ạ.”
Lưu Tiểu Nguyệt kể với Thôi Đào, hôm kia trong nội thành An Bình có một nhà giàu tổ chức tiệc, Vưu thị, Khổng thị và Thẩm thị đều đến giúp nhà đó làm việc để kiếm thêm chút tiền tiêu.

Tối đó Khúc nhị lang quay về bèn làm ra chuyện đồi bại với nó, còn uy hiếp bắt nó không được nói với Vưu thị.
“Em thật sự không nói ra à?” Thôi Đào hỏi.
Lưu Tiểu Nguyệt khẽ gật đầu.
“Vậy mấy ngày nay mẹ em có phát hiện ra em lạ hơn không?” Thôi Đào hỏi lại.
Lưu Tiểu Nguyệt run lên, bối rối liên tục lắc đầu nói không có.
Tất nhiên Thôi Đào đã nhìn ra Lưu Tiểu Nguyệt đang nói dối, nàng lại muốn đi tìm Vưu thị để hỏi.
Lưu Tiểu Nguyệt vội nói: “Là tôi giết người, là tôi đã bỏ nấm độc đó vào!”
Thôi Đào quan sát Lưu Tiểu Nguyệt, hỏi nó đã bỏ loại nấm độc nào, màu gì, toàn bộ quá trình gây án là thế nào.
“Thì hái ở ven đường, có rất nhiều loại có độc, tôi có nghe người ta nói rồi, là cây nấm có màu tro ấy.

Tôi xào lên, nhân lúc trước khi họ ăn cơm thì trộn lẫn vào.”
“Nếu hái ở ven đường thì hẳn ở đó vẫn còn nhiều, em dẫn chị đi hái một ít đem về đi? Họ ăn cơm như hổ đói, phải mổ bụng ra xem những thứ trong dạ dày, vì thế có thể tìm được một vài miếng nấm độc để so sánh.” Thôi Đào nói với Lưu Tiểu Nguyệt.
Màu xám khác với màu nâu, nhưng cũng khó bảo đảm rằng cây nấm màu xám nấu xong không biến thành màu nâu được.

Vì thế khám nghiệm tử thi quan trọng nhất là thái độ nghiêm túc.
Nghe Thôi Đào nhắc tới chuyện khám nghiệm tử thi, Lưu Tiểu Nguyệt bị dọa đến mức không nói thành lời, ấp a ấp úng, rõ ràng là đang nói dối, không tài nào nói rõ mọi chuyện ra được.
“Sao em lại biết họ chết vì nấm độc?” Lúc Thôi Đào đưa ra phán đoán này chỉ nói cho mỗi Thôi Đào và bọn nha dịch thôi.
“Khâu đại lang nói cho tôi biết.” Lưu Tiểu Nguyệt nghiêm túc nói.
Thôi Đào nhớ ra mình đúng là có hỏi Khâu đại lang rằng nấm Phù Dung trên bàn có màu gì, sau đó mới nói cho Thôi Mậu biết có thể người chết vì nấm độc, chắc chắn lúc đó Khâu đại lang bên cạnh đã nghe thấy rồi.
Thôi Đào kéo Lưu Tiểu Nguyệt ngồi xuống, kể giảng lược cảnh ngộ của chính mình với nó và chuyện mình ngồi tù khi xưa, “Em có biết tại sao lúc trước chị suýt chút nữa đã phải chết dưới trát đao rồi mà giờ vẫn có thể ngồi ngay ngắn ở đây, nói chuyện với em như một người bình thường không?”
Lưu Tiểu Nguyệt lắc đầu.
“Vì chị tin rằng nếu kiên trì sống sót thì chắc chắn sẽ có hy vọng.

Mọi người trên đời này đều khổ cả, chỉ có cách là phải vượt qua thôi.” Thôi Đào hỏi Lưu Tiểu Nguyệt có hiểu ý nghĩa của câu này không.
“Thuyết phục bản thân thả lỏng, đừng so đo, cố gắng vượt qua, sống tiếp đi ư?” Lưu Tiểu Nguyệt nhìn Thôi Đào hơi mông lung rồi giải thích.
Thôi Đào lấy ra 3 tờ giao tử đưa tới trước mặt Lưu Tiểu Nguyệt, hỏi nó nếu như có số tiền này sẽ dùng như thế nào.
“Dẫn mẹ tôi rời khỏi viện Phúc Điền, mua một căn nhà để sống qua ngày.” Lưu Tiểu Nguyệt nói.
“Lỡ như tiêu hết tiền rồi thì làm gì để sống qua ngày đây?” Thôi Đào lại hỏi.
Lưu Tiểu Nguyệt suy nghĩ, “Mua thêm một ít ruộng để trồng trọt nữa?”
“Chỉ dựa vào sức của 2 mẹ con bọn em thì trồng được bao nhiêu ruộng chứ?”
“Vậy cần phải có đàn ông hỗ trợ, chỉ có thể lập gia đình thôi.” Giọng nói Lưu Tiểu Nguyệt càng lúc càng nhỏ, rõ ràng lúc nhắc tới đàn ông nó hơi sợ hãi, dù sao chuyện lúc trước cũng gây hại cho nó rất nhiều.

Giờ chỉ mới 2 ngày trôi qua, nó khó mà vượt qua được.
“Dựa dẫm vào đàn ông, nếu chẳng may gặp phải một kẻ xấu xa như Khúc nhị lang thì phải làm sao? Chịu đựng tới chết ư?”

Lưu Tiểu Nguyệt ngơ ngẩn.
“Dù có lấy chồng thì cũng phải tích cóp đủ đồ cưới, phải tự tin, dù có rời khỏi đàn ông cũng có thể sống tốt, dù cho có gặp kẻ xấu cũng không sợ phải ly hôn.”
Thôi Đào nói với Lưu Tiểu Nguyệt, “Cách dễ nhất là tự mình dùng sức của mình, nếu em mạnh mẽ, kẻ khác yếu đi.”
“Nếu làm ruộng không được thì có thể nghĩ cách khác để kiếm tiền.

Nếu trên người không có năng lực kiếm tiền thì cứ đi học đi.

Dù là dệt vải thêu hoa hay làm các loại đồ đan lát bằng liễu, ngâm dưa chuột muối với xì dầu hay tương, tóm lại đừng phó mặc cho số phận, há miệng chờ sung, hoặc nghĩ tới việc dựa dẫm đàn ông.”
Vốn Lưu Tiểu Nguyệt cứ nghĩ Thôi Đào sẽ nói vài lời vô nghĩa để an ủi mình, ai ngờ nàng lại chỉ thẳng cho nó con đường sau này nên làm thế nào.
Bị cha dượng xâm phạm đối với nó mà nói là một cú sốc cực lớn, Lưu Tiểu Nguyệt thật sự cảm thấy cuộc sống sau này của mình đã mất hết hy vọng rồi, nhà chồng tương lai cũng sẽ bị ghét bỏ, nhưng nó lại sợ nếu mình chết như thế thì mẹ sẽ không còn nơi để nương tựa nữa.
Nghe Thôi Đào nói xong, rốt cuộc nó cũng hiểu rõ mình sợ là vì chưa đủ tự tin.

Thứ gọi là dựa vào chính mình không phải là đang tự an ủi, mà là đang muốn bản thân phải thẳng lưng đi tiếp.
Thực ra Thôi Đào không mấy trông chờ đứa trẻ này có thể hiểu mình, nhưng lúc nhìn thấy ánh mắt của Lưu Tiểu Nguyệt dần trở nên kiên định, nàng cảm thấy rất vui.
“Cô bé ngoan, ít ra em còn thông minh hơn rất nhiều bạn đồng trang lứa, có quyết tâm.

Không phải ai cũng có thể hiểu được những lời này và ngộ ra đâu.” Thôi Đào bảo Lưu Tiểu Nguyệt cất kỹ tiền.
“Không thể nhận được, sao em lại có thể —”
“Cho em mượn đấy, đợi sau này em có khả năng rồi thì trả lại chị.” Thôi Đào nói.
Lưu Tiểu Nguyệt vội khóc quỳ xuống đất, nói cảm ơn với Thôi Đào.
“Nhưng em phải đồng ý với chị, nếu vụ án này thật sự tra ra là có liên quan tới mẹ em thì em cũng phải sống thật tốt, không phụ kỳ vọng của mẹ với em nhé.”
Lưu Tiểu Nguyệt nghe nói vậy thì bật khóc nức nở, cuối cùng khẽ gật đầu.
Tiếp đó Thôi Đào dựa theo quy củ, thẩm vấn Vưu thị.
Vưu thị khóc lớn, “Tôi còn tự hỏi sao 2 ngày nay nó không nói gì với mình, tôi hỏi nó nó cũng không nói! Tên súc sinh đó, tôi phải giết chết hắn!”
Vưu thị hét xong mới ý thức được giờ Khúc nhị lang đã chết, thị bèn căm hận mắng chửi hắn phải xuống tầng 18 địa ngục.
Thôi Đào lại sai người hỏi chéo những người còn lại trong viện Phúc Điền, cho đến nay vẫn chưa có ai tận mắt chứng kiến Vưu thị rời khỏi phòng bếp trong lúc nấu cơm để chạy tới trộn nấm độc vào bàn của ngỗ tác Diêu cả.
Thôi Đào cũng biết Vưu thị này bình thường ở trong phòng bếp đến gà còn không giết được.

Nếu giết Khúc nhị lang vì căm hận thì 4 mạng người còn lại chết lây cũng hơi quá tàn nhẫn, chuyện này không hợp lý.

Ngoài ra Thôi Đào cũng không phát hiện ra nấm độc trong phòng bếp, tất nhiên không thể loại bỏ khả năng “tiêu hủy chứng cứ”, vì thế hiềm nghi của Vưu thị và phòng bếp vẫn còn.

Hàn Kỳ chơ Thôi Đào điều tra xong thì về phủ với nàng.
“Vụ án này có quá nhiều “sự trùng hợp”, trùng hợp người của 3 nhà ngồi cùng nhau, phụ nữ thì ở phòng bếp, đàn ông thì đang dùng cơm.

Đồng thời nhóm đàn ông đều cùng khiến phụ nữ và trẻ em đau lòng, đều chỉ nghĩ tới việc mình được ăn ngon.
Động cơ giết người của Vưu thị khỏi phải bàn nữa.

Thẩm thị cũng có động cơ, ngỗ tác Diêu làm ăn thất bát, 2 đứa trẻ lại chết đuối với nhau, cuộc sống đau khổ mà bấp bênh, thậm chí 2 vợ chồng phải rời xa quê hương để chạy trốn tới An Bình.

Thời gian này rất khó khăn, dễ tích tụ thù oán, sẽ dễ ép một người phát điên đấy.”
Hàn Kỳ gật đầu đồng ý.
“Thực ra Khổng thị cũng có động cơ, nhà thị ở viện Phúc Điền lâu nhất, 8 năm, rất có thể thấy đàn ông trong gia đình của mình không có năng lực nên lâu như thế vẫn chưa thể rời khỏi viện Phúc Điền được.

Người chồng cũng không mấy yêu thương gì, ăn uống sung sướng chẳng thèm nghĩ gì tới vợ của mình hết.”
Thôi Đào cảm thấy Đinh đại lang, chồng Khổng thị này nói không chừng còn có sở thích xấu.

Nàng đang định sai người đi tra thì Hàn Kỳ đã trả lời.
“Mê rượu, ham cờ bạc.”
Lúc Thôi Đào thẩm vấn bọn Vưu thị, Hàn Kỳ đã xem hết lời khai của các nhân chứng.

Một số lời khai có tiết lộ một ít chi tiết, ví dụ như “Hôm qua còn uống rượu với Đinh đại lang”, “Thật không ngờ hắn lại chết như thế, hôm trước đánh bạc hắn còn chưa trả cho tôi 10 đồng cơ mà”…
“Hả? Lục lang lợi hại thế!” Thôi Đào không nhịn được mà khen ngợi.
“Trước mặt em, ta chẳng có ích chút nào đâu.”
Hàm ý của Hàn Kỳ là Thôi Đào đang làm hết mọi thứ, chàng cũng chẳng giúp được mấy.
“Không nói vậy được, Thiên lý mã thường có nhưng Bá Lạc lại không thường có* mà.

Nếu lúc trước người thẩm vụ án của em là một vị Thôi quan hoa mắt ù tai thì nói không chừng giờ em đã là một bộ xương trắng rồi.

Nếu là một Thôi quan không có mắt khác, không nhìn ra một nữ tù như em có thể trợ giúp, không cho em cơ hội tra án, vậy em cũng chẳng thể lập công rồi ra khỏi đại lao phủ Khai Phong được, càng không có cơ hội điều tra ra rõ sự thật 3 năm trước, biết được rõ ràng mấy năm nay mình đã bị oan thế này.”
(*) Một câu trong Mã Thuyết của Hàn Dũ, ý chỉ tuy là ngựa giỏi nhưng vẫn phải chịu phục dưới tay người chăn dắt.
Thôi Đào nói xong còn cố ý rón rén ghé sát tai Hàn Kỳ sửa lại: “Lục lang có ích mà! Lợi hại nhất đấy!”
Hàn Kỳ mỉm cười, rất lâu vẫn không ngừng lại được.
Thật may cho chàng, tìm được báu vật rồi.
Sau đó Hàn Kỳ nhận được một bức thư khẩn từ Biện Kinh do Trương Xương đưa tới, lập tức quay về phủ Thôi xử lý công vụ.
Thôi Đào thì trở về nha môn một mình.
Mạc Truy Vũ mặc đồ trắng đã chờ sẵn từ lâu, hắn thấy Thôi Đào về thì không khỏi chế nhạo: “Ta đã mất tiền mua 30 bàn, còn vào nha môn nữa, đúng là hôm nay xui xẻo thật đấy.”
“Là anh xui xẻo, đây là bài học cho anh đấy, ra ngoài chớ có nhiều lời, đừng trêu chọc người khác bậy bạ, nếu không dễ gây ra chuyện đấy.” Thôi Đào nói rằng Mạc Truy Vũ đã có thể về, hiềm nghi của hắn đã được loại bỏ.
“Này, cô nghĩ ta là ai hả, kêu thì đến ngay, đuổi là đi liền à?” Mạc Truy Vũ tỏ vẻ khó chịu, hẳn là không có ý định đi.
“Nghĩ anh nhân chứng của vụ án chứ sao, nếu không anh cho rằng tôi nghĩ anh là gì chứ? Chó hay gì?” Thôi Đào ngạc nhiên chớp mắt, ngây thơ vô số tội hỏi.
Thôi Đào phát hiện thiếu niên tên Mạc Truy Vũ này trừ cả người sạch sẽ ra thì chẳng có gì tốt nữa hết.
“Cô —”
“Chẳng lẽ anh thật sự nghĩ mình là chó ư? Bị tôi vạch trần chuyện này nên mới sợ sợ sợ…” Thôi Đào lanh miệng hỏi lại.
Mạc Truy Vũ tức giận trừng Thôi Đào, quay người phất tay áo bỏ đi.
Thôi Đào nhếch miệng, không nhịn được mà bật cười.

Còn quá non mà giả vờ làm màu, mới 1 cú mà đã hỏng rồi.
Mạc Truy Vũ về tới nhà thì lập tức vọt vào phòng Mạc Truy Phong, oán hận gào lên với Mạc Truy Phong: “Anh cả, tôi muốn giết Thôi thất nương!”
“Không được.” Mạc Truy Phong điềm đạm trả lời, mắt không hề lay chuyển, vẫn một mực chú tâm thưởng thức tranh chữ trên bàn.
“Vậy tôi cắt lưỡi nhưng vẫn giữ mạng cho cô ta, khiến cô ta làm việc nhưng không nói được.” Mạc Truy Vũ nghĩ tới chuyện này đã cảm thấy sảng khoái, khóe miệng lấp ló nụ cười.
“Trước đây thì được, nhưng giờ thì không.”
“Tại sao chứ?” Sắc mặt Mạc Truy Vũ lập tức suy sụp, khó hiểu hỏi.
“Thiếu chủ vừa khen giọng nói cô ta rất hay.”.