Ngọc Tiên Duyên

Chương 1: Kì lân chi kiếp




Bối cảnh câu chuyện:

“Âm Dương giao thế, vạn vật diễn sinh; tiên ma lưỡng đạo, phàm trần đồng nguyên!”

Từ xưa đến nay, bất luận tiên, ma, quỷ tam giới đều là nền tảng của nhân loại. Điểm khác biệt chỉ là phương pháp và đường lối tu luyện.

Theo sử sách ghi lại, hàng ngàn năm trước, tại Hoa Hạ thần châu đại địa, tiên ma lưỡng đạo như thủy hỏa bất dung.

Trải qua một trận đại chiến thảm khốc, chính đạo đã giành chiến thắng một cách khó khăn, chỉ còn năm vị được xưng là “Thánh nhân” nhưng cũng trọng thương khắp người, họ đã rút ra một bài học từ kinh nghiệm đau đớn này, nhất trí cho rằng căn nguyên của mọi tai họa đều bắt nguồn từ chân nguyên điển tịch. Phải biết rằng “tiên ma vốn cùng gốc, thiên ác chỉ cách nhau một ý niệm!” Một số người tu chân không cách nào phi thăng thành tiên, để có thể bất tử đã tình nguyện nhập vào ma đạo, biến sinh mệnh của phàm nhân thành nguồn năng lượng của bản thân. Hầu như mọi ác ma đều là hảo bằng hữu, hảo huynh đệ của nhau. Những người tu chân khong thể không cảm thán – “Con dao hai lưỡi có lợi mà cũng có hại!”

Vì vậy, năm vị “Thánh nhân” mới cố gắng dùng chút hơi tàn truyền tải lại mọi tu chân điển tích trong thiên hạ vào một bó đuốc nhằm từ điểm nguồn cội đó chấm dứt hậu hoạn.

Câu chuyện bắt đầu từ đây, hàng ngàn năm sau, một thanh thần binh thất lạc đã bị con người vô tình phát hiện thấy, thiên hạ tu chân lại một lần nữa dậy sóng. Trong rất nhiều môn phái, vượt trội hơn cả là “Thục Sơn kiếm tông”, “Thiên Sơn kiếm phái”, “Toàn Chân giáo”, ngày càng có nhiều phàm nhân xếp hàng xin gia nhập…

Tuế nguyệt trôi qua vô tình, không lâu sau, thiên hạ đột nhiên lưu truyền một câu dự ngôn: “Huyết kiếm hoành không nhiễm phàm trần, huyền thiên ma huyết chiến khung châu!”

Huyết ma sẽ lại xuất hiện, thứ dân thiên hạ lại bị cuốn vào cơn lốc tiên ma đại chiến, huyết quang cũng sẽ lại phủ khắp thiên hạ…

Năm nay chính là thời kỳ cực thịnh của Trung Nguyên, tứ đại kinh đô giàu có nhất thiên hạ, mọi nước xung quanh đều phải ngước nhìn.

Đông Kinh Biện Lương thành là kinh đô chính trị và quân sự của dân tộc Hoa Hạ, nằm ở khoảng phía đông bình nguyên trung bộ, toàn thành nối tiếp nhau dài mấy chục dặm có dư. Từ trong ra ngoài đều có ba bức tường thành phòng ngự. Còn bên ngoài thành đại đa số bách tính đều sống yên bình, bên trong thành đều là những vương công đại thần sở tại, trong đó địa phương trung tâm chính là hoàng cung cấm địa.

Bốn mặt Biện Lương thành dịch đạo thông suốt toàn quốc, vô số thương gia lữ hành ngày đêm tụ hội. Hai bờ Biện hà lại càng đông đúc tấp nập, lầu các hai bên dù vào canh ba vẫn có đèn soi sáng, có văn nhân mặc khách đã từng làm một bài thơ:

“Xuân lung thụy ải quán đô kinh, xa thủy mã vạn tương doanh

Cực mục hà xuyên yên lãng khoát, quả nhiên nhân thế vũ lăng thành.”

Ngày mùng chín tháng tư, bầu trời dần ngả bóng hoàng hôn. Người đi đường qua lại không ngớt, phường trà tửu quán hai bên đường huyên náo phi thường, những gánh hát diễn trò sớm đã chật cứng người. Tại nơi trung tâm phồn hoa này, cước bộ của hành nhân tự nhiên bị hạn chế, cũng chỉ còn cách dừng chân tại những tửu lâu xa hoa thanh nhã bên đường.

Trên con đường bên bờ Biện hà, một thuật sĩ mù mặc hắc bào vươn người ngồi xuống thạch đôn, tay trái cầm một tấm cờ hiệu bằng vải đen, trên mặt có ghi ba chữ “Quỷ thần trắc” màu xanh rất cứng cáp mạnh mẽ. Nếu đến sau lưng lão ta sẽ phát hiện ra mặt sau của cờ lại có một đoạn tiểu khải khác: “Huyết kiếm hoành không nhiễm phàm trần, huyền thiên ma huyết chiến khung châu!” Đây là một câu dự ngôn mà mọi người đều cho rằng không có căn cứ.

Từ phía trước mặt một vị phú gia công tử tiến đến xin bói một quẻ. Nhưng hắn không tin vào quẻ bói, liền quát ầm ĩ: “Nực cười! Bổn công tử vốn phúc lớn mạng lớn, ngươi làm sao có thể dễ dàng nói lăng nhăng như vậy được ?”

“Quỷ thần trắc” cuống cuồng thu dọn đồ đạc vội vàng nói: “Bần đạo cũng không lấy tiền của ngài nữa, ta khuyên ngài bây giờ hãy lập tức về nhà! Nếu không nhất định sẽ gặp phải tai họa đổ máu!”

Tên công tử đó lại không chịu ngừng tay, túm lấy túi vải của ông lão quát: “Ngươi đứng lại cho ta! Ta ghét nhất loại người vô lại lừa tiền như ngươi!... Ối! Còn muốn chạy? Đứng lại….”

Lúc này những người đi đường đều hối hả bận rộn, những chuyện náo nhiệt trên đường thế này đã thấy nhiều nên không ai rảnh rỗi quan tâm đến nó.

Chỉ có một người ngoại lệ!

Trên “Mẫu Đan lâu”, một vị thực khách ngồi cạnh cửa sổ nghiêng đầu ra, đầy vẻ hứng khởi theo dõi màn kịch đang diễn ra. Gã đang cảm thấy buồn cười thì đột nhiên thấy ba bóng nhân ảnh chạy đến từ phía tây con đường lớn, xuyên qua đám đông hỗn loạn như thoi đưa, hình như đang lẩn tránh sự truy bắt của quan phủ. Trong một sát na, bọn họ đã đến dưới chân lầu, tên công tử vẫn đang la hét luôn mồm lại chặn đúng đường đi của họ. Chỉ thấy hàn quang lóe lên, tên công tử la thảm một tiếng, đương trường máu bắn tung tóe. Ngay sau đó, ba nhân ảnh kia lao vào gạt đám đông sang một bên, “Tránh ra tránh ra…” rồi nhảy xuống con sông Biện hà.

“Quỷ thần trắc” sớm đã tránh sang một bên, cúi đầu nhìn xuống thi thể trên mặt đất, thở dài một hơi nói: “…Đã nhờ bói quẻ tiết lộ thiên cơ còn ngại trung ngôn nghịch nhĩ!”

Nói xong chớp mắt đã biến mất trong biển người mênh mông.

Vị thực khách trên “Mẫu Đan lâu” tận mắt chứng kiến mọi việc, thức ăn đang gắp lên rơi “bộp” xuống mặt bàn, cảm thấy sống lưng gai lạnh. Miệng há to nhất thời quên cả ngậm lại. Trong lòng thầm nghĩ: “Thần toán như vậy có thể xứng danh cử thế vô song. Không được, ta nhất định phải đi bái ông ta làm thầy!”

Những người bạn cùng bàn thấy dáng vẻ gã như vậy cũng đều ngó đầu nhìn ra cửa sổ. Lúc này “Quỷ thần trắc” đương nhiên đã sớm không còn thấy tung ảnh, đám đông trên đường nhốn nháo, có người hét lớn: “Ai da… có người chết, có người chết!”

Lại có một thanh âm khác hét lên: “Mọi người mau nhìn kìa! Hoa công phủ hình như xảy ra chuyện gì? Đến cả Long thị vệ cũng phải đích thân xuất mã rồi…”

“Cái gì? Long thị vệ đích thân xuất mã? Ở đâu, ở đâu…” Thực khách trên Mẫu Đan lâu tranh nhau nhoài người ra xem, quả nhiên lại thấy hai nhân ảnh màu tím đang phi hành phía trên đầu những người đi đường, nghiêng mình lướt đi dọc theo những lầu các ở mạn trái.

Khi họ phát hiện ra ngay chính giữa đường có một thi thể liền lập tức hạ thân xuống đất, nhanh chóng kéo một người bên đường ra truy hỏi. Không ngờ người đó rất chủ động, thâm chí còn lộ ra thần sắc kích động, chỉ vào Biện hà nói bô bô một tràng, hiển nhiên rất kính ngưỡng vị Long thị vệ này.

Hai vị tử y nhân nhìn Biện hà nước chảy cuồn cuộn, thấp giọng thương nghị. Thoáng sau, hai người đột nhiên chạy vội sang hai hướng đông tây, chớp mắt đã không còn thấy tung ảnh.

Trên Mẫu Đan lâu, một vị bạch y văn sĩ tiêu sái thong dong hỏi: “Long hộ vệ là người như thế nào vậy?”

Chúng nhân đều ngạc nhiên nói: “Người đứng đầu kinh đô bát kiếm mà ngươi cũng không biết à? Thật là uổng một chuyến đi đến kinh thành.”

Có người tốt bụng lên tiếng giải thích: “Bát kiếm là chỉ Phong Giang Lãnh Tuyết, Lôi Vân Kim Long. Trong đó Long thị vệ tên gọi Long Thiên Hà, là thủ tịch hộ vệ của Hoa công phủ!”

Văn sĩ đó còn đang thấy lạ lùng thì con phố phía sau lại có một vụ náo động, một đội đới đao hộ vệ gạt khỏi đám đông cấp tốc chạy đến hiện trường. Nhưng họ không hề chú ý đến thi thể trên mặt đất mà chỉ hỏi han những người đi đường có phải đã nhìn thấy mấy tên bất lương cõng theo một tiểu hài chạy trốn?

Mọi người trong lòng cảm thấy kì lạ, bỗng nhìn thấy có biến động từ phía tây con đường dần truyền lại, chỉ thấy xa xa một tòa lầu các hùng vĩ rực cháy, ngọn lửa bốc cao lên tận trời, nhìn phương hướng thì hình như là từ “Hồng Nguyệt hội quán”. Ngay sau đó, Biện Lương thành lập tức đóng cửa thành, từng đội quân sĩ nghiêm nghị tra hỏi những thương khách đi qua. Một số người hiếu sự bắt đầu nghe ngóng được triều đình đã xảy ra đại án, khiến cả kinh thành đều chấn động…

Không lâu sau, quan phủ đã liên tiếp truyền ra hai tin xấu:

Thứ nhất, “Hoa công phủ” mà bách tính đều yêu mến kính trọng đã bị thích khách tập kích bất ngờ. Tiểu công tử mới chỉ sáu tuổi của Hoa phủ trong lúc xem kịch ở “Hồng Nguyệt hội quán” đã bị bắt cóc. Có người cho rằng bọn chúng làm vậy là vì tiền, nhưng lại có người phân tích như sau: “Hoa quốc công thân là Chính sứ quân sự và chính trị, chưởng quản thiên hạ binh phù, tương đương với thống soái toàn quân. Có kẻ dám động đến Hoa phủ hiển nhiên là có liên quan tới quốc phòng, ý đồ này có thể thấy rõ!”

Thứ hai, chưa đầy một khắc sau Hoa công phủ quả nhiên loan báo ra bên ngoài, tiểu công tử bất hạnh ngộ hại, phàm là người báo được hành tung của thích khích sẽ được thưởng năm ngàn lạng bạc…

Thoáng chốc bách tính trong thành đều xôn xao ầm ĩ, họ đều cảm nhận rõ quyết tâm của Hoa công phủ đã nhẫn tâm từ bỏ cốt nhục tình thâm, thề chết bảo vệ an nguy xã tắc. Một bà lão trên đường không nhịn được nước mắt doanh tròng, đau buồn nói: “Vì sao…vì sao ngay đến Lân nhi khả ái mà cũng không buông tha?”

Phải biết rằng, tiểu công tử của Hoa công phủ tuy còn nhỏ tuổi nhưng thường mang theo thị vệ ra ngoài xem kịch, nhìn thấy bách tích trên đường vẫn hay gọi bá bá thẩm thẩm. Tiểu oa nhi khả ái như vậy lại bị thích khách ám hại! Làm sao không khiến người ta đau lòng cho được?... Hơn nữa, mấy chục năm trở lại đây Hoa công phủ kiên quyết chống lại ngoại tộc xâm nhập, khiến Trung Nguyên tránh khỏi bị chiến sự quấy nhiễu, cả nước từ trên xuống dưới đối với Hoa công phủ đều một lòng sùng kính.

Giờ đây Hoa công phủ đột nhiên xảy ra chuyện, bách tính toàn thành đều thấy căm phẫn…

Lại nói Hoa quốc công chín đời đơn truyền, chỉ có duy nhất một tôn nhi chưa đầy sáu tuổi, xinh đẹp dễ thương như một viên ngọc giũa. Bình thường rất nghịch ngợm hiếu động, được cung phụng như “tiểu tổ tông” của toàn phủ. Lần này bị người bắt đi, toàn phủ từ trên xuống dưới hiển nhiên khủng hoảng, làm kinh động đến cả đương kim thánh thượng. Do đó, cho đến tận khi tối mịt, Biện Lương thành vẫn trong tình trạng vô cùng huyên náo.

Canh hai, trong một sơn lâm cách thành nam hai mươi dặm, một cơn gió trong lành thổi qua, khung cảnh rất yên bình. Trong một tòa quan đế miếu cũ nát hiện đang có mười mấy thương nhân quây thành một vòng tròn, ở giữa bắc một đống lửa, rất lâu vẫn không thấy ai nói gì. Trên bệ gác có đốt hai chén đèn dầu cũ, ánh sáng mờ mịt chiếu lên bức tượng quan đế đã tróc lớp sơn màu vàng càng làm tăng thêm vẻ quỷ dị.

Những thương nhân đó nhìn có vẻ yên lặng nhưng biểu tình của họ lại rất nôn nóng. Trong số đó có một đại hán lưng hổ cuối cùng không nhẫn nại được nữa, đột nhiên mở miệng mắng: “Sở nhị ca đang làm trò quỷ gì vậy? Tại sao đến giờ vẫn chưa trở lại?”

Một đại hán râu ria khí độ phi phàm cười nói: “Lão lục, đến bao giờ thì đệ mới bỏ được cái tính nóng vội đó? Hành động của chúng ta lần này ngàn vạn lần phải trầm tĩnh mới thành công được!”

Đại hán lưng hổ phủi phủi tro bụi bám trên thân, đứng lên nói: “Đại ca! Đệ từ nhỏ tới giờ đã từng làm hỏng chuyện lớn nào chưa? Tất cả đều nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của huynh. Đệ … Đệ sang thăm tiểu oa nhi ở phòng bên đây!”

Đại hán râu ria gật đầu nói: “Cũng được! Nhân tiện đệ gọi lão thất ra đây thương lượng hành trình, hắn là người bản địa, có thể sẽ tránh được rất nhiều phiền phức!”

…Trong sương phòng đổ nát kế bên quả nhiên có hai người.

Uể oải dựa vào chiếc giường đất, một hán tử gầy gò mặt vàng đang trông giữ một tiểu hài đồng với vẻ đầy hứng thú.

Chỉ thấy tiểu hài đồng đó khoảng sáu tuổi đang ngồi dang hai chân trên mặt đất, miệng chúm chím trông đáng yêu vô cùng. Tay mân mê cái chén để đèn và một nghiên mực, cứ muốn gắn cái chén hình tròn vào phần lõm của nghiên mực hình vuông. Y phục sang trọng trên thân đã bị bẩn đến bảy tám phần.

Hán tử gầy gò không ngừng phát ra tiếng cười khành khạch, cảm thấy tiểu oa nhi này thật khả ái, hắn thầm nghĩ chẳng lẽ con nhà giàu có đều ngốc nghếch như vậy sao?

Đứa nhỏ ngồi trên mặt đất nghe thấy tiếng cười của hắn, khuôn mặt bám bụi bẩn ngước lên nói giọng rất dễ thương: “Cháu muốn ăn hoa quả cơ!”

Hán tử gầy gò nghe vậy, trong lòng không khỏi tức giận, đây đã là lần thứ tám tiểu oa nhi này đòi hỏi hắn. Muộn thế này rồi mà vẫn chưa chịu đi ngủ lại còn đòi nọ đòi kia, thật đúng là suýt chút nữa chịu không nổi. Vừa nghiêm mặt lại định giáo huấn nó mấy câu thì ở bên ngoài có tiếng gõ cửa. Đại hán lưng hổ đẩy cửa bước vào nói: “Lão thất! Tiểu oa nhi có nghịch không? Lão đại gọi ngươi đến thương lượng về lộ trình, thực lực của Hoa công phủ không dễ xem thường đâu.”

“Cháu muốn ăn hoa quả…” đứa nhỏ đang chơi đùa ngẩng đầu lên, đôi mắt to đen lay láy mở lớn.

Đại hán lưng hổ cười ha ha nói: “Tiểu oa nhi này thật thú vị…”

Hán tử gầy gò lập tức nói: “Thật à? Lục ca!...Vậy huynh lại trông nó đi!”

Đại hán lưng hổ xua tay liên hồi nói: “Không không không, ta sợ nhất là trẻ con!...Lão đại đang đợi đệ, không cần phải để ý đến nó.”

Lão thất gật gật đầu, hai người bỏ lại đứa nhỏ, mở cửa rời khỏi sương phòng.

Đứa bé được tự do lại cúi đầu chơi với nghiên mực, đợi khi hai ngươi họ đi xa rồi mới ngẩng mặt lên, ánh mắt lóe lên một tia sáng linh động. Quay đầu lại đi đến bên giường nắm lấy cái sào tre, đứa nhỏ ngước lên nhìn hai cánh cửa sổ bằng gỗ trên tường, thấy cánh cửa đó chỉ có một song cửa, nó liền kiễng chân dùng sào tre chọc vào song cửa một cách khó khăn. Nó phải nghiến răng nghiến lợi dùng hết sức, thật không dễ dàng gì mới có thể đẩy ra được. Nhưng cửa sổ đã nhiều năm không được tu sửa nên bản lề bị hỏng, nó làm thế nào cũng không mở ra được.

Đứa nhỏ cuối cùng cũng mệt thở hổn hển, ngẩn ngơ nhìn cửa sổ, mặt mếu máo như muốn khóc to. Nhưng không biết vì sao nó lại cố gượng không rơi nước mắt.

Đêm đã tối mịt, đứa nhỏ rốt cục đã cảm thấy quẫn bách, ngoảnh đầu lại thì không thấy bất cứ thứ gì. Bây giờ đã là tháng tư nhưng thời tiết ban đêm vẫn hơi lạnh, nếu không lượm lặt được cái gì để đắp thì thực sự rất khó ngủ. Nó nhìn đông ngó tây một hồi, thấy ở góc tường có chất một ụ lúa liền không e ngại gì mà moi một lỗ để chui vào.

Bên trong ụ lúa quả nhiên ấm áp hơn nhiều, vừa hay có thể phủ kín thân thể nhỏ bé của nó. Nó cuộn người lại, cố gắng duy trì hơi ấm cho cơ thể, mí mắt từ từ khép lại, đầu lệch sang một bên, mơ mơ hồ hồ chìm vào trong giấc mộng…

Khí hậu đầu hè đúng là thay đổi bất thường, một đám mây đen dần dần che lấp màn sao trên trời. Gió núi cũng ngày càng thổi mạnh hơn, trong rừng cây vọng lại tiếng “ào ào”. Lúc này, mười mấy thương nhân trong đại điện lại đang vô cùng phấn khích, đại hán râu ria đầu lĩnh cười ha ha nói: “Tốt! Cứ làm vậy đi, chúng ta lần này qua Sung Châu, qua Đại Danh phủ rồi đưa tiểu oa nhi này ra Nhạn Môn Quan. Đến đó rồi sẽ có đại đội nhân mã tiếp ứng chúng ta. Làm xong vụ này mọi người sẽ được về nghỉ ngơi thoải mái nửa năm!”

Đại hán lưng hổ giọng rền vang: “Lão đại! Lần này huynh phải giữ lời đấy, đừng có nửa đường lại triệu tập huynh đệ chúng ta về…”

Lão lục cũng góp lời nói: “Đúng vậy, đúng vậy!”

Đại hán râu ria cười hề hề nói: “Lần này tuyệt đối giữ lời! Sét đánh cũng không thay đổi!”

Đại hán lưng hổ lập tức hưng phấn trở lại, đứng lên nói: “Khỏe quá rồi! Tới đây…Mọi người hãy uống vài bát rượu trước để chúc cho kim ngân về tay chúng ta, mọi việc đều bình an thuận lợi!”

Trong quan đế miếu đang ấm áp nhờ ngọn lửa, đột nhiên một tên đồng bọn đứng gác ở ngoài đẩy cửa đi vào. Một trận gió to lùa vào trong miếu, hai chén đèn dầu trên bệ “phụt” một cái lập tức tắt ngấm. Tấm màn trướng căng ngang ở trong miếu cũng bị gió thổi phần phật, đống lửa ở giữa càng bị bay tro bụi tứ phía. Dấu hiệu ban đầu của một cơn mưa trên núi đang hiển hiện trước mắt.

Tên đồng bọn gác cửa nói to: “Lão đại! Gió lên rồi, e là trời sắp mưa! Rốt cuộc đêm nay có đi hay không?” Vừa nói xong thì một tia chớp bỗng chiếu sáng cả trời đêm, ngay sau đó là tiếng sấm nổ đùng đùng, đúng là phong vân biến sắc làm con người phải kinh sợ…

Một hán tử để râu hình chữ bát bật người đứng lên, cao giọng nói: “Phong vân biến sắc, chuyện lớn không hay rồi…”

Hán tử lưng hổ vốn đang chếnh choáng vì uống rượu, liền giận dữ nhìn tên gác cửa hét lớn: “Ngươi gác cửa cái kiểu gì vậy? Còn không cút ra ngoài cho ta?”

Đại hán râu ria nhíu song mày, vọng nhìn ra ngoài trời tối đen như mực, quát lên: “Con bà nó! Lão nhị xem ra không về rồi, mọi người chuẩn bị, chúng ta lập tức lên đường!”

Mười mấy người vội vàng thu thập hành lý, chỉ nghe “keng” một tiếng, cương đao của ai đó không cẩn thận rơi từ trong bao ra ngoài, khiến kẻ đó phải sợ hãi cuống cuồng giấu đao đi. Không khí có vẻ kì lạ, mọi người chỉ lo thu thập vật phẩm, không ai rảnh mà quát mắng hắn.

Lát sau, tất cả đều đã thu thập xong hành lý. Nhưng không ngờ ngoài trời, trận mưa to lại đến nhanh hơn họ nghĩ. Đầu tiên có vài hạt mưa bắn vào, chớp mắt đã đầy một chậu. Sơn phong rú rít cùng với những giọt mưa to bằng hạt đậu đập vào trong điện, thoáng chốc đã thấm ướt sũng cả không gian bên trong.

Đột nhiên, lão thất từ trong sương phòng xông ra ngoài, sắc mặt trắng bệch nói: “Không hay rồi! Cửa sổ đã bị bật ra, tiểu oa nhi được ai đó cứu đi rồi!”

Nghe tin, tất cả đều biến sắc. Vài người tiến vào trong sương phòng xem xét, quả nhiên không còn thấy hình bóng của đứa nhỏ. Cửa sổ bị gió thổi vang lên tiếng “cạch cạch”, mặt đất đẫm nước mưa, có thể nhìn thấy vài dấu chân mờ mờ in trên mặt đất.

“Xoảng xoảng xoảng…”

Tất cả đều không hẹn mà cùng rút binh đao, một tia chớp rạch ngang bầu trời, ánh sáng chiếu vào vũ khí của họ, đập vào mắt trông vô cùng đáng sợ.

Đại hán râu ria trong đại điện quyết đoán kịp thời, thét lớn: “Mau rút lui! E rằng quan binh đã đuổi tới nơi rồi…”  Mặc trời mưa to, mười mấy thương nhân cùng đạp gãy cửa sổ, bốn phương tám hướng xông ra ngoài chạy trốn, phối hợp một cách âm thầm. Bọn họ vừa tập trung lại ở bên ngoài miếu, từ phía sơn lộ xa xa loáng thoáng có ba bóng đen chạy đến, trong cơn mưa to, đôi bên đều không nhìn rõ đường đi phía trước, đúng lúc đó ba bóng đen từ xa đã lên tiếng: “Đại ca!... Là bọn huynh phải không?”

Đại hán râu ria tức giận nói: “Lão nhị ngươi làm trò quỷ gì vậy! Tới giờ mới chịu về?”

Nhấp nhô mấy cái, một nam tử vẻ mặt âm hiểm đã phi đến trước mặt mọi người, thở gấp nói: “Đệ…Bọn đệ…Hộc hộc, quan binh đã tìm ra, bọn đệ phải chạy quanh mới trốn được…”

Hắn đang giải thích thì một tia sét cực mạnh bổ thẳng xuống cách đó không xa, ngay sau đó là một trận sấm nổ “đùng đoàng” khiến thanh âm của lão nhị hoàn toàn bị chìm lấp.

Đại hán râu ria khoát mạnh tay, xông về phía chúng huynh đệ quát to: “Anh em mau chạy đi…”

Hơn hai mươi người cấp tốc xông vào trong rừng như chó nhà có tang, chớp mắt đã không còn thấy bóng dáng.

Cách đó không xa, nơi vừa bị sét đánh trúng đột nhiên rực lên ánh đỏ, từ xa nhìn lại trông như những ngọn lửa của truy binh.

Đại hán râu ria không có thời gian suy nghĩ nhiều, liền dẫn theo chúng huynh đệ chạy về hướng đã định…

Trong cơn mưa tầm tã, tiếng sấm rầm rĩ vang dội tận mây xanh, trời đất rung động. Thoáng sau, vô số những giọt mưa đọng lại ở những vùng thấp trũng, đây chính là dấu hiệu của một trận lũ lớn. Vẫn may là cơn mưa đầu hạ đến nhanh đi cũng nhanh. Chỉ chưa đầy nửa giờ sau, trận mưa to đã dần tạnh hạt. Đến nửa đêm, nhìn xuyên qua những đám mây đen đã có thể thấy được ánh sao sáng…

Người đi lầu trống, quan đế miếu trong bóng đêm lộ rõ vẻ tĩnh mịch, ngoài tiếng ếch kêu “oạp…oạp!” truyền lại, làm gì có truy binh nào? --- Chỉ có thêm một chút khác lạ là những tiếng lách tách phát ra từ đống củi ở trong sương phòng.

Người ta thường nói rằng trẻ con khi ngủ sét đánh cũng không dậy, xem ra không sai! --- Tiếng sấm nổ không hề làm đứa nhỏ tỉnh giấc mà nó chỉ thức dậy vì cảm thấy mắc tiểu. Có lẽ từ trước tới nay trẻ con đều sợ bóng tối! Sau khi tỉnh dậy, đứa nhỏ phát hiện ra chỉ có mình nó ở trong đêm tối liền sợ phát run. Lần này muốn đi ngủ lại thực sự e là hơi khó.

Đứa nhỏ ngó đầu nhìn qua lỗ hổng của cửa sổ, kinh hãi phát hiện ra bên ngoài có một màn sáng đỏ rực, trong đêm tối thế này chắc chắn ánh sáng đó có một sự mê hoặc rất lớn đối với nó. Đứa nhỏ bất kể ba bảy hai mốt liều liền trèo ra khỏi ụ lúa xông thẳng ra ngoài…

Lúc ra đến chính điện nó lại bị tư thế uy mãnh của “Quan nhị ca” dọa cho sợ chết đứng, vội lập cập bỏ chạy.

Ra khỏi cửa miếu, đứa nhỏ chạy từng bước lạch bạch “thịch, thịch, thịch”. Nó vừa vỗ vào hai má cho đỡ sợ, nhìn ra tứ phía, miệng vẫn kêu “ôi ôi…” không sao nói rõ được, thanh âm non nớt vang lên nghe rõ từng từ.

Hồng quang trước mặt nhìn có vẻ rất gần nhưng chạy rất lâu vẫn không tìm thấy địa điểm chính xác, ngược lại còn bị lạc sâu vào trong rừng. Nhưng nó cứ nhớ đến thân ảnh uy mãnh vẫn đứng ở quan đến miếu, làm sao còn có gan quay lại đó “chịu chết”? Trong ý nghĩ của nó, hồng quang phía trước có lẽ là lối thoát duy nhất.

Đi xuyên qua bụi gai một cách khó khăn, nó lại trèo qua vài vùng đất gập ghềnh, đứa nhỏ hoàn toàn bị mất phương hướng, nó chỉ biết là sắp tới được hồng quang ở cách đó không xa. Vì vậy ngay đến mấy con sói hung ác đang ở sau lưng mà nó cũng không phát hiện ra.

“Hú…ú…” mấy con sói đột nhiên không đi tiếp mà chỉ phát ra từng tiếng tru dài bi sảng. Tình cảnh thật dị thường, nó bị thanh âm của lũ sói dọa cho chạy như bay về phía trước, bất kể địa hình bên trong như thế nào, cũng bất kể hồng quang còn cách bao xa, nó chỉ một mực chạy thẳng. Không lâu sau, trước mắt đột nhiên hiện ra một vùng đất sáng sủa, đứa nhỏ cuối cùng chạy không nổi nữa liền kiệt sức ngồi xuống.

Lúc này, nó phát hiện ra ánh sáng xung quanh sáng hơn trong rừng nhiều, trong lòng cảm thấy được chút an ủi. Nhìn quanh mới phát hiện ra vô số hố đất, vẻ hoang dã u ám có chút kì dị. Nhưng nó xuất thân quan gia hào môn thì làm sao biết được khu vực này có điểm đặc biệt gì? Dù sao lũ sói phía sau cũng không đuổi theo, vẫn ngồi trên hố đất, thở hổn hển, nó giương đôi mắt đáng yêu nhìn ngó xung quanh. Cuối cùng, nó phát hiện ra hồng quang đã dẫn dụ nó đến đang ở bên một hố đất gần đó. Hiện giờ hồng quang đã ở trong tầm với, nhưng ánh sáng lại mờ nhạt đi nhiều, mặt đất tách ra một rãnh sâu khá to, một trận âm phong thổi qua làm nó rùng mình. Chỉ thấy từ trên mặt đất bốc lên những làn khói đen, đứa nhỏ sợ hãi nhìn cảnh sắc xung quanh không ngừng biến hóa, nhưng màn hồng quang gần đó vẫn y nguyên như cũ, do đó nó vẫn cố gắng bò đến.

Bên tại chợt văng vẳng những tiếng kêu khóc ai oán, càng tiến về trước thì âm thanh này càng thê lương, “Thất long ngọc bội” đeo trước ngực nó đột nhiên lóe sáng, phát ra bạch quang mờ mờ, nhưng nó căn bản không hiểu hàm ý của việc ngọc bội phát sáng, vẫn kiên quyết đến gần hồng quang. Lại tiến thêm vài trượng, hào quang tỏa từ ngọc bội trước ngực ngày càng sáng nhưng nó không hề để ý, cuối cùng đã đến sát bên kẽ nứt cực lớn, chỉ thấy bên dưới kẽ nứt có một chiếc vòng tay tinh xảo, mặt ngoài phát ra ánh sáng đỏ sẫm, không ngừng nổi lên những tia lôi điện như những gợn sóng. Nó mừng rỡ phát điên, đang định trèo xuống lấy thì ngọc bội trước ngực bỗng vỡ tan ra thành bột, liền đó một luồng khí lạnh âm hàn thấu cốt xuyên vào trong cơ thể…

Tất cả mọi thứ đều yên tĩnh trở lại…

Khắp người nó trở nên lạnh cứng dị thường, lớp da bên ngoài bỗng ngưng kết lại thành một lớp sương mỏng manh, nó đột nhiên nghe thấy trong cơ thể hình như có người đang cười nhạo, tiếng cười lập lờ khiến nó rất khó chịu. Hơn nữa, ý thức của nó cũng dần trở nên phiêu hốt, thân thể càng ngày càng mất tự chủ. Cuối cùng nó mất thăng bằng ngã ập xuống cái rãnh sâu.

Lúc này, chiếc vòng tay xinh xắn đó ở ngay trước mắt nó, nhưng toàn thân nó không thể cử động, phảng phất như bị người khống chế. Trong lúc mơ mơ hồ hồ, nó lại nhìn thấy chiếc vòng tay tự nhiên bay lên rồi rơi vào tay nó một cách chuẩn xác, nó lập tức cảm thấy một luồng nhiệt khí rất mạnh truyền đến từ lòng bàn tay, rồi nó hoảng sợ phát hiện ra chiếc vòng tay tinh xảo đẹp đẽ đang từ từ tan chảy, từ từ nhập vào tay nó.

Trong lúc bất ngờ, một luồng nhiệt lưu dâng trào bắt đầu chuyển động từ tay trái, từng bước từng bước thu phục thân thể lạnh cứng của nó. Nó hình như vẫn nghe thấy trong cơ thể có một thanh âm gào lên: “Oa a! … Rốt cuộc ngươi đang làm gì vậy?”

Nó không hiểu gì cả, chỉ cảm thấy một nhiệt một hàn hai loại khí lưu không ngừng xung động, từ điểm khởi đầu ở tay trái, luồng nhiệt khí gặp rất nhiều khó khăn để thôn tính hàn khí,nhưng rõ ràng là đạo cao một thước ma cao một trượng.

Kỳ thực tùy tiện một trong hai loại khí lưu này cũng đủ để đoạt lấy cái mạng nhỏ của nó, nhưng hiện tại hai loại này lại hợp lẫn vào nhau nên nó chỉ cảm thấy thân thể lúc nóng lúc lạnh, dần dần cuối cùng trong cơn nóng lạnh giao nhau nó đã mất đi ý thức…

Lúc này nếu có người dám nhìn vào sẽ thấy cái rãnh sâu này ngưng tụ tầng tầng hàn vụ, ở giữa có một đứa bé toàn thân tán phát hồng quang nhàn nhạt ngăn không cho hàn khí xâm nhập. Hiện tượng này cứ duy trì như vậy đến tận hôm sau mới dần biến mất.

Mặt trời đã nhô lên từ hướng đông, nền trời đã sạch bóng mây đen, trên bầu trời đầy mây xanh chỉ có vài đám mây trắng lững lờ trôi. Từng giờ từng phút trôi qua nhưng đứa nhỏ thủy chung vẫn chưa tỉnh lại, cho đến khi mặt trời đã lên cao, những tia nắng vàng rọi lên khuôn mặt, nó mới giơ tay lên mơ hồ muốn bắt lấy ánh sáng trước mắt. Không lâu sau nó cuối cùng đã hồi tỉnh, không hay biết gì trèo ra khỏi rãnh sâu, chỉ thấy vô số hố đất hiện ra rành rành dưới ánh sáng mặt trời. Đột nhiên, ánh mắt nó dừng lại trên một vài hài cốt gần đó khiến nó sợ hãi “Óa!” một tiếng rồi khóc lớn. Nó đã bao giờ thấy khô lâu như vậy đâu.

Khóc một hồi lâu mà không thấy ai đến “cứu giá”, cuối cùng khóc mệt rồi mới thấy can đảm hơn một chút. Nhặt lấy một cọc gỗ trên mặt đất, nó liều mạng đi đến gõ vào khô lâu, một mặt còn chu mồm nói: “Ta… Ta đánh ngươi.”

Gõ một lúc lâu thủy chung vẫn không thấy khô lâu đánh trả, tính trẻ con nổi lên, nó đá bay cái khô lâu, trên mặt lộ ra nét tươi cười.

Đang chơi đùa vui vẻ thì bụng nó lại sôi ùng ục, giờ mới nhớ ra phải tìm thứ gì đó để ăn. Nhưng vùng núi hoang vắng này làm sao có gì có thể thỏa cơn đói? Mồm nghuệch ra lại muốn khóc, nhưng bên cạnh nó căn bản không có ai để nhõng nhẽo nên đành câm nín, nó lững thững đi về phía tây một cách không có mục đích…

Mãi cho đến rất nhiều năm sau nó mới biết đây là địa phương nào…

Đứa nhỏ loạng choạng đi đến tối mà vẫn chưa ra được khỏi rừng. Còn may là những trái cây chín đầy bên đường đã lấp đầy dạ dày nó, cũng không cần biết là những thứ quả đó có thể ăn được hay không, dù sao ăn vào rồi cũng không thấy có tác động gì. Càng khiến nó cảm thấy kì quái hơn nữa là có mấy con sói nhảy bổ đến nhưng nhìn hồng quang lóe lên từ trên thân nó liền kinh hoảng bỏ chạy, nó chẳng hiểu gì cả, còn cho rằng những con dã thú đó đang chơi đùa cùng nó.

Đến giờ dậu, mặt trời lại dịch về hướng tây, đứa nhỏ đi đã mệt, nó ngã ngồi xuống một đống cỏ. Nhìn ngắm khung cảnh lạ lẫm nó liên tưởng đến lúc hô mưa gọi gió ở nhà. “Oa” một tiếng nó bật khóc nức nở.

Hây…không cần phải nói, tiếng khóc của nó vang to đến mức ở xa mấy dặm cũng vẫn nghe thấy.

Lúc đó, có một thợ săn dắt hai con thỏ bên lưng đi qua nơi này, hình như xa xa nghe thấy tiếng người khóc. Gã thận trọng đến gần nhìn ngó, không ngờ lại thấy một đứa bé dễ thương đang ngồi trên mặt đất khóc ầm ĩ. Lạ lùng hơn nữa, khi đứa trẻ đó nhìn thấy gã lại càng khóc to hơn khiến gã điếc cả tai.

Người thợ săn nhẹ nhàng nói giọng an ủi: “Anh bạn nhỏ! Cậu tên là gì? Tại sao lại ở đây một mình ngồi khóc?”

“Hức hức…cháu…cháu tên là Lân Nhi, hức hức…oa…” trình độ khóc lóc của nó thật phi thường, hiển nhiên ở nhà đã từng luyện tập vô số lần! Những giọt nước mắt lăn dài trên má nó, người khác làm sao có thể nhìn ra được là nó đang ăn vạ.

Người thợ săn thấy mềm lòng, cúi xuống lấy ống tay áo khẽ lau nước mắt cho nó. Lau sạch rồi lại nhận ra nó my thanh mục tú, khóc đến đỏ sưng cả mắt, ánh mắt trong sáng đáng thương nhìn người thợ săn. Chỉ dừng được một lát, nó đột nhiên lại nước mắt ròng ròng…

Người thợ săn thở dài, đành phải cõng nó lên lưng, dưới bóng chiều tà đi ra khỏi rừng…

Lân Nhi thực sự đã khóc mệt, ú ớ vài tiếng, gối đầu lên lưng người thợ săn rồi chìm vào giấc ngủ, nước miếng ở bên mép chảy ra làm ướt một khoảng lớn.  Sau