Tôi bật thét, trong lúc mọi người còn kinh ngạc, cái trán của Bích
Oánh đã chạm tới trụ đá lạnh lẽo. Trong khoảnh khắc nghìn cân treo sợi
tóc ấy, một bóng áo hồng xẹt qua, Bích Oánh với khuôn mặt đầy máu đã nằm gọn trong lòng người đó, không ngờ lại là Quả Nhĩ Nhân.
Tôi cảm thấy khó mà tin nổi, tim cứ đập bình bịch, Bích Oánh nói đúng, Quả Nhĩ Nhân này thật sự rất thần kỳ.
Binh lính đang kẹp người tôi cũng bị dọa cho choáng váng, thoáng thả
lỏng kẹp gỗ, tôi thừa cơ giãy ra ngoài, chạy thẳng tới dưới chân Quả Nhĩ Nhân, trên đường còn kéo theo một vết máu dài. Tôi òa khóc gọi tên Bích Oánh, Quả Nhĩ Nhân đặt Bích Oánh vào tay tôi, khuôn mặt của lão lạnh
như đang đứng trên núi băng, lúc nhìn Bích Oánh lại lộ ra vẻ tán thưởng
lẫn tiếc hận.
Tôi đứng đó khóc đến không nói ra lời, chỉ biết chăm chăm nhìn Quả
Nhĩ Nhân, mà băng sơn đại thúc này lại nói vô cùng ngắn gọn: “Thiếu chút nữa là nát đầu rồi.”
Vẫn còn may, tôi dùng tay áo lau máu trên mặt nàng, mặc cho nước mắt
từng giọt từng giọt rơi xuống dung nhan mỹ lệ nhưng không có một tia
huyết sắc ấy. Tôi xé vạt áo băng bó vết thương cho nàng, Bích Oánh, sao
tỷ lại ngốc như vậy, chúng ta ở cùng một chỗ lâu như vậy, so với chị em
ruột còn thân thiết hơn, lẽ nào tỷ không biết muội rất thích đùa giỡn,
đến thời khắc then chốt muội vẫn sẽ nghĩ ra cách ứng phó, tỷ suốt ngày
bảo phải báo đáp gì đó, muội chăm sóc tỷ chỉ là dựa trên tinh thần nhân
đạo thôi, nào đáng để tỷ tự sát để chứng minh sự trong sạch của muội, đồ ngốc, tỷ đúng là đồ ngốc, vô cùng ngốc.
Lúc này, phu nhân mới cất tiếng hỏi: “Quả Nhĩ Nhân, ông tới đây làm gì?”
Quả Nhĩ Nhân chỉ chắp hai tay, thắt lưng cũng chẳng thèm cúi, chẳng
có chút dáng dấp nào của hạ nhân: “Ta tới đây xin hai nha đầu về cho
thiếu gia nhà ta.”
Phu nhân lạnh lùng hỏi: “Không biết ông muốn hai nha đầu nào?”
Quả Nhĩ Nhân chỉ tôi và Bích Oánh: “Chính là hai người này.”
Tôi kinh ngạc nhìn phu nhân và Quả Nhĩ Nhân, ánh mắt của phu nhân
lạnh vô cùng mà mặt băng sơn đại thúc kia vẫn không chút biểu cảm, bầu
không khí hết sức căng thẳng, phu nhân liếc mắt một cái, đám binh sĩ đã
vây lấy Quả Nhĩ Nhân mà lão chỉ nhìn bọn họ, cười lạnh một tiếng, không
hề sợ hãi.
Liễu Ngôn Sinh tiến lên hòa giải: “Tiên sinh tới thực không khéo. Hai nha đầu này bị nghi ngờ là dùng ruồi trâu độc hại thế tử, vẫn còn đang
thẩm vấn. Không bằng để Ngôn Sinh chọn hai nha đầu xinh đẹp khác đưa tới cho Giác Tứ gia.”
Quả Nhĩ Nhân lạnh lùng nói: “Thiếu gia nhà ta chỉ muốn Hoa Mộc Cẩn và Diêu Bích Oánh.”
Liễu Ngôn Sinh trầm giọng đáp: “Nếu như không được thì sao?”
Quả Nhĩ Nhân nói: “Vậy đừng trách Quả Nhĩ Nhân này bất kính với phu
nhân, hôm nay xin thỉnh giáo Liễu tiên sinh vang danh thiên hạ.”
“Quả tiên sinh che chở cho hai nghi phạm như vậy, chẳng lẽ ông có điều gì mờ ám?”
Không ngờ băng sơn đại thúc không hề tức giận mà còn cười ha hả, mặc
dù nụ cười có hơi giống điệu cười của những hung thủ trong phim kinh dị: “Ngươi bảo chủ nhân nhà ta là chủ mưu chẳng qua cũng là vì gia nghiệp
của Nguyên gia mà thôi, chỉ tiếc thiếu gia nhà ta trước sau gì cũng phải về Tây Vực để kế vị, đừng nói là Nguyên gia, cho dù có đem toàn bộ
Trung Nguyên chắp tay dâng lên, chủ tử nhà ta cũng chẳng để vào mắt. Hôm nay phu nhân nhẹ dạ tin vào lời nói của hạng tiểu nhân, chẳng lẽ muốn
bức tử hai người vô tội này thì mới ngừng sao?”
Hiểu rồi, Nguyên Phi Giác mắt kém như vậy, làm gì có điều gì lọt được vào mắt hắn chứ.
Nguyên phu nhân lạnh lùng đáp: “Hừ? Xin chỉ giáo cho!”
“Nha đầu Bích Oánh trong sơn trang nổi tiếng là cái ấm sắc thuốc,
ngay cả đám châu báu, tơ lụa tìm được trong phòng kia cũng nhiễm mùi
thuốc bắc, làm sao lại không tìm được đơn thuốc nào? ” Quả Nhĩ Nhân quay sang Hòe An: “Ngươi có biết chữ không?”
Hòe An gật đầu: “Tiểu nhân biết chữ.”
Quả Nhĩ Nhân móc ra một khối ngọc bội: “Vậy ngươi đọc thử xem.”
Tôi nhìn thoáng qua, trên miếng ngọc kia có viết: “Thân vô thái phượng song phi dực, tâm hữu linh tê nhất điểm thông”(1).
Ô! Thật không nhìn ra băng sơn đại thúc này lại có món đồ tình cảm như vậy.
Mặt Hòe An tái đi, lẩm bẩm hồi lâu cũng không nói được chữ nào, còn
sắc mặt của phu nhân và Liễu Ngôn Sinh thì càng lúc càng xanh mét. Quả
Nhĩ Nhân nói: “Ngươi không đọc được bởi vì ngươi vốn không biết chữ. Lúc ở Đức Hinh cư, ngươi không thể nhận ra cái nào là cái mà chủ nhân ngươi yêu cầu nên mới tiêu hủy hết đống đơn thuốc đó.”
Cái bóng cao to của Hòe An thoáng như thấp đi một nửa.
Quả Nhĩ Nhân lại quay sang phu nhân: “Phu nhân, Quả Nhĩ Nhân tuy
không phải nhân sĩ Trung Nguyên nhưng lại từng bái sư là người Trung
Nguyên nên cũng biết chút y lý. Vừa rồi kéo Bích Oánh lại, ta đã bắt
mạch cho nàng, tuy rằng bây giờ không còn ứ huyết tắc kinh nhưng vẫn
trong ngoài mất cân bằng như trước, rõ ràng là bệnh nặng mới khỏi, từ đó có thể thấy, việc từng bị ứ huyết tắc kinh cũng không phải không có khả năng, dùng Tứ vật thang thêm ruồi trâu chính là hốt thuốc đúng bệnh.”
Lão ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Còn nếu đúng như lời Nguyên Vũ,
Hoa Mộc Cẩn là chủ mưu, muốn thần không biết quỷ không hay hạ thuốc hại
phu nhân thì sao mấy hôm trước Hoa Mộc Cẩn lại cãi lộn với thân tín của
Tử viên trước mặt mọi người, vậy chẳng phải cố ý để Tử viên cảnh giác
sao?” Nói đến đây, lão lại nhìn thoáng về phía tôi, ánh mặt rõ ràng muốn nói: ngươi sao có thể ngốc như vậy?
Tôi không khỏi đỏ mặt, lòng thầm ghi nhớ bài học này, chỉ nghe lão
nói tiếp: “Lang trung đó nếu đã chạy trốn từ đêm qua thì sao chủ mưu là
Hoa Mộc Cẩn lại không chạy, ngược lại còn an tâm ngủ trưa chờ phu nhân
tới bắt.”
Không biết Liễu Ngôn Sinh và Nguyên phu nhân đã từng nghe Quả Nhĩ
Nhân nói nhiều như vậy bao giờ chưa, dù sao tôi cũng khẳng định là không có, hơn nữa mỗi câu mỗi chữ đều mang khí phách mạnh mẽ, tôi rốt cục
hiểu tại sao Quả Nhĩ Nhân lại được xưng là đệ nhất dũng sĩ của Đột
Quyết, đệ nhất hộ vệ của vua Đột Quyết. Có thể nói lão chính là tình báo vẫn thường thấy trong các câu chuyện cổ đại. Trầm mặc một lúc, cuối
cùng Liễu tiên sinh cũng lên tiếng: “Vậy theo ý Quả tiên sinh thì nên
làm thế nào?”
“Liễu tiên sinh đã nói là đen thì nào có ai dám nói là trắng, ta cũng không phải người trong Tử viên, cũng không định để ý tới thị phi trong
Tử viên, chỉ là tiểu thiếu gia muốn hai nha đầu kia, xin phu nhân dàn
xếp cho.”
“Quả Nhĩ Nhân, hôm nay nhân chứng vật chứng đều có đủ, suy đoán suông của ông sao có thể thuyết phục mọi người. Nếu không tìm được chứng cớ
rõ ràng thì đừng mong mang được người đi.” Phu nhân khôi phục bộ dáng
tao nhã, nhẹ nhàng cười nói.
“Đúng vậy! Mau đem chứng…. cớ ra!” Hương Cần càn rỡ thốt ra, đáng
tiếc vừa bị Quả Nhĩ Nhân thoáng nhìn một cái, nàng ta đã sợ run người,
chui về phía sau Nguyên Phi Yên.
“Hôm nay Quả Nhĩ Nhân nhất định phải mang hai nha đầu này đi.” Quả
Nhĩ Nhân cũng mỉm cười, đôi mắt màu xám liếc về phía Liễu Ngôn Sinh.
Liễu Ngôn Sinh cười nhẹ, chậm rãi đi về phía Quả Nhĩ Nhân, ánh mắt
hai người giao nhau, không ai thấy rõ người nào xuất chiêu trước cùng
không ai thấy được những chiêu thức đó, sau cùng hai người tách ra, sắc
mặt Quả Nhĩ Nhân vẫn như thường, nói: “Đa tạ.”
Liễu Ngôn Sinh mặt không biểu cảm nhưng tay trái lại hơi buông xuông, dễ nhận thấy là Quả Nhĩ Nhân đã thắng. Lão bước về phía chúng tôi thì
mặt bỗng biến sắc, môi tím lại, lão run run đứng ở đó, cười lạnh: “Đường đường đại tổng quản của Nguyên gia, Liễu Ngôn Sinh nổi danh thiên hạ
lại hèn hạ vô sỉ như vậy, ngươi dám hạ độc ta?”
Liễu Ngôn Sinh cười thâm độc: “”Quả Nhĩ Nhân, năm xưa Kim Cốc tử chế
ra Thập lý hương không mùi không vị này chính là để đối phó với U Minh
thập tam quỷ, hôm nay cho tên Đột Quyết nhà ngươi dùng đã là vinh hạnh
cho ngươi rồi. Ta vốn không muốn đối địch với ngươi, nhưng hôm nay ngươi lại khăng khăng cố chấp, đắc tội với phu nhân, ta cũng không còn cách
nào khác.”
Sắc mặt Quả Nhĩ Nhân xám lại: “Giang hồ từng đồn Kim Cốc chân nhân có đứa đệ tử phạm tội, lúc bị đuổi ra khỏi sư môn đã trộm mất tuyệt học
Thập lý hương của sư phụ. Thật không ngờ Liễu Ngôn Sinh lại chính là tên tiểu nhân bỉ ổi làm nhục sư mẫu, bức tử sư huynh kia.
Khuôn mặt Liễu Ngôn Sinh thoáng vặn vẹo nhưng lập tức khôi phục lại
vẻ nho nhã: “Ta không hiểu ông đang nói gì. Xin Quả tiên sinh cứ yên tâm mà đi, ta sẽ thay ông chú ý tới Giác Tứ gia.”
Nói xong hắn đi về phía Quả Nhĩ Nhân, vũ khí giấu trong tay áo phải
tỏa sáng lấp lánh. Trong mắt Quả Nhĩ Nhân tràn đầy không cam chịu mà
lòng tôi thấy vô cùng tuyệt vọng, chẳng lẽ trời muốn diệt tôi và Bích
Oánh sao?
Đúng lúc này, một tiếng cười sang sảng từ bên ngoài truyền tới: Hôm nay Tử viên thật náo nhiệt.”
Chỉ thấy một người vận áo khoác xanh, râu tóc phất phơ nhẹ nhàng bước vào, chính là Hàn Tu Trúc của Tây Phong Uyển. Đi đằng sao ông ta chính
là lang trung Triệu Mạnh Lâm được đồn là đã mất tích cả đêm.
Hàn Tu Trúc cười sang sảng, đối với tình cảnh giương cung bạt kiếm,
máu tươi ba thước trong Vinh Bảo đường thì làm như không thấy, ông cung
kính khom mình trước phu nhân sau đó giống như vô tình phát hiện ra Quả
Nhĩ Nhân đang đứng bất động ở bên cạnh, liền vui vẻ đi qua, miệng nói:
“Đã lâu không gặp, Quả tiên sinh có khỏe không? Lâu rồi Giác Tứ gia
không tới Tây Phong Uyển, ngài ấy vẫn khỏe chứ?”
Ông ta thân thiết nắm lấy tay Quả Nhĩ Nhân. Hình như Nguyên Phi Giác
đã từng nói cho tôi biết, việc hai người họ thường xuyên so chiêu trong
Mai hoa thất tinh trận chỉ là tin đồn thôi. Ông ta chặn tầm nhìn của
Liễu Ngôn Sinh, nhưng từ góc độ của tôi, có thể thấy một luồng sáng chợt lóe trong tay ông ta, Quả Nhĩ Nhân liền đổ mồ hôi ròng ròng, mồ hôi kia có màu đen nhưng rõ ràng sắc mặt của Quả Nhĩ Nhân đã dịu xuống.
Khi Hàn Tu Trúc buông tay Quả Nhĩ Nhân thì Quả Nhĩ Nhân lập tức nhảy
sang một bên, ngồi xuống bên cạnh chúng tôi, khoanh chân điều tức.
Liễu Ngôn Sinh ôn hòa hàn huyên với Hàn Tu Trúc cứ như tên sát thủ
lạnh lùng, dùng thủ đoạn đê tiện để giết người kia không phải hắn vậy.
Hàn Tu Trúc chen vào giữa Bích Oánh, tôi và Quả Nhĩ Nhân, nói: “Ta nghe nói phu nhân đang thẩm vấn nghi phạm dùng ruồi trâu hại thế tử, đang
tìm kiếm một nhân chứng quan trọng – lang trung Triệu Mạnh Lâm. Đúng lúc ta vừa mời một vị bằng hữu tới khám chân cho Tam gia, cũng họ Triệu,
tên Mạnh Lâm, có người bảo ông ta cũng từng xem bệnh cho mấy nha đầu
trong viên, không biết có đúng là người phu nhân đang tìm không?”
Người nọ đúng là Triệu lang trung đã từng xem bệnh cho chúng tôi, nói thật lúc đó chúng tôi mời ông ấy tới khám là vì ông ấy là lang trung
duy nhất chúng tôi có thể mời được, cũng là lang trung duy nhất chịu
chữa bệnh cho Bích Oánh.
Tại sao ông ta lại có thể là bằng hữu của một người có tiếng trong võ lâm như Hàn Tu Trúc?
Triệu Mạnh Lâm hơi cúi người, chắp tay nói: “Ta chính là Triệu Mạnh
Lâm đã từng chữa bệnh cho Diêu Bích Oánh cô nương, chẳng biết Nguyên phu nhân có gì chỉ bảo?”
Lúc này Nguyên Phi Yên hồi lâu chưa nói gì bỗng mở miệng: “Nếu ta
đoán không sai, thì ngài đây chính là Triệu Mạnh Lâm tiên sinh được
giang hồ xưng tụng là “Diệu thủ y thánh”, đúng không?”
Mọi người đều vô cùng ngạc nhiên, Triệu Mạnh Lâm chính là danh y
đương thời, nổi tiếng có thể diệu thủ hồi xuân, nhưng tính tình lại cổ
quái. Có lúc ông ta thấy chết mà không cứu, đòi thu ngàn vàng tiền khám
bệnh, có lúc lại không thu xu nào, người ta còn gọi ông là “Quái y
thần”.
Mọi người không khỏi đều quay về phía Triệu Mạnh Lâm mà ông chỉ mỉm
cười: “Đó là danh hào mà mấy vị bằng hữu trên giang hồ tặng cho tại hạ,
bốn chữ diệu thủ y thánh quả thực không dám nhận.”
Hàn Tu Trúc vỗ tay khen ngợi: “Nhị tiểu thư thật hiểu rõ điển cố trên giang hồ, không hổ danh là “Khuynh thành Gia Cát”.
Nguyên Phi Yên dịu dàng cười: “Tiên sinh lại trêu chọc ta rồi, Phi
Yên nào dám nhận danh hào như vậy, chỉ là vận khí tốt nên đoán lung tung cũng trúng mà thôi.”
Nói xong, nàng vén váy thi lễ với Triệu Mạnh Lâm, Triệu Mạnh Lâm cũng khom người trả lễ. Nàng liền hỏi: “Không ngờ Triệu lang trung vẫn
thường tới quý phủ để xem bệnh cho mấy nha đầu lại là Diệu thủ y thánh,
Phi Yên thay mặt gia phụ, gia mẫu, nhận lỗi với Triệu tiên sinh.”
Triệu Mạnh Lâm đúng mực đáp: “Tiểu thư làm tại hạ hổ thẹn rồi, tại hạ vốn chỉ hành nghề trong giang hồ, ban đầu tới quý phủ là vì đồng ý với
thỉnh cầu của Tu Trúc lão đệ, tới chữa chân cho Bạch Tam gia. Trước nay
Triệu mỗ có một tật xấu là chỉ chữa cho những người mình muốn chữa, sở
dĩ tại hạ xem bệnh cho Oánh cô nương là bởi cảm thấy năm đứa nhỏ kết
nghĩa này tuy nghèo khổ nhưng nghĩa khí lại ngút trời. Mấy hôm trước,
Oánh cô nương bị ứ huyết tắc kinh, chính tại hạ đã kê đơn Tứ vật thang
thêm ruồi trâu này, bởi vì Oánh cô nương cũng là bệnh nhân cũ nên ta đã
giữ lại hết những đơn thuốc trước đây. Đây là bản sao những đơn thuốc
trước kia, mời xem qua.”
Triệu Mạnh Lâm đưa ra một tập giấy, lúc Liễu Ngôn Sinh nhận lấy,
Triệu Mạnh Lâm nhìn vào mắt hắn, nói: “Thập lý hương là kỳ độc trong
thiên hạ, hương bay mười dặm, không chỉ giết chết người ngửi mà còn từ
từ tạo thương tổn đối với người dùng độc. Kim Cốc chân nhân cho rằng độc này quá hung ác nên mới không truyền ra ngoài, mặc dù Liễu tiên sinh đã sửa lại thành phần, không làm thương những người ở ngoài một bước,
nhưng độc tính đối với người dùng lại không giảm. Nếu tiên sinh thường
xuyên sử dụng tất sẽ tự hại đến thân.”
Liễu Ngôn Sinh thoáng trắng bệch, sau đó lễ độ đáp: “Đa tạ Diệu thủ y thánh đã chỉ điểm.”
Hắn đem đám phiếu khám cho phu nhân xem, trong nhất thời sắc mặt mọi
người đều trở nên khó coi. Phu nhân hừ một tiếng, bảo đã làm phiền Triệu tiên sinh rồi. Quả Nhĩ Nhân điều tức xong liền ôm lấy Bích Oánh, gật
đầu với Liễu Ngôn Sinh: “Đa tạ lời chào hỏi hôm nay của Liễu tiên sinh,
ngày khác nhất định sẽ hoàn trả.” Dứt lời liền nâng tôi dậy, bước ra
ngoài.
Tôi quay đầu lại, Triệu Mạnh Lâm kia liền mỉm cười. Lòng tôi nóng lên lại bị Quả Nhĩ Nhân kéo ra khỏi Vinh Bảo đường.
Tới lúc Hàn Tu Trúc đuổi kịp, Triệu Mạnh Lâm đã biến mất.
Ra khỏi Tử viên, tôi không kiên trì được nữa, hai chân mềm nhũn ra,
suýt thì ngã sấp xuống, may là Hàn Tu Trúc kịp thời đỡ tôi dậy: “Cô
nương có sao không?”
Tôi cắn môi, gật gật đầu, vịn lấy thân cây bên cạnh, cố gắng đứng
thẳng, cảnh vật trước mắt đã bắt đầu mơ hồ, chỉ nghe Quả Nhĩ Nhân lạnh
lùng nói: “Bình sinh ta không muốn chịu ơn huệ của người khác, kể cả là
ông, Hàn Tu Trúc. Nói đi, ta phải làm gì để báo ơn cứu mạng lần này?”
“Quả Nhĩ Nhân đúng là người thẳng thắn, thảo nào Hầu gia lại yên tâm
giao tiểu thiếu gia cho ông. Mặc dù ông và ta đều vì chủ của mình nhưng
cũng đã quen biết hơn mười năm, sao lại khách khí như vậy.” Hàn Tu Trúc
như bất đắc dĩ thở dài một hơi nhưng Quả Nhĩ Nhân chỉ cười lạnh: “Ông
giúp ta chẳng qua là vì tài năng của tiểu ngũ nghĩa. Tống Minh Lỗi bị
Liễu Ngôn Sinh căm ghét vì hắn dám chống lại lão, Hoa Cẩm Tú vì mờ ám
với tướng quân nên bị phu nhân ghét, vì vậy mới lập ra cái bẫy này để vu hãm hai người. Nếu Tống Minh Lỗi đã về dưới trướng Bạch Tam gia, tất
nhiên ông cũng muốn hai nha đầu này, đúng không?”
Hàn Tu Trúc cười vui vẻ, tay vuốt vuốt râu: “Không hổ danh là đệ nhất dũng sĩ của Đột Quyết, cái gì cũng không gạt được ông.”
Đầu tôi “ông” một tiếng, cái gì? Cẩm Tú và tướng quân? Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Lời sỉ nhục của Liên Thụy Gia cùng dáng vẻ căm hận của phu nhân ngổn
ngang hiện lên trong lòng tôi, tất cả là vì Cẩm Tú và Tống Minh Lỗi sao?
Lẽ nào Nguyên tướng quân chính là ý trung nhân mà nhỏ đã nói tới?
Chân tay tôi run run, tim như bị hàng vạn con kiến cắn xé, khó chịu vô
cùng.
Chỉ nghe Quả Nhĩ Nhân hừ lạnh một tiếng, Hàn Tu Trúc nghiêm mặt nói:
“Nếu thiếu gia nhà chúng ta đều coi trọng hai nha đầu này, không bằng
thế này, Quả tiên sinh, ta một người, ông một người, mọi người không nên làm tổn thương hòa khí hai bên. Nha đầu tên Diêu Bích Oánh này tuy là
cái ấm sắc thuốc nhưng cũng là mỹ nhân nổi tiếng trong sơn trang, hôm
nay Diệu thủ y thánh đã mở kim khẩu, nhất định là vô cùng tốt. Người đẹp xứng với anh hùng, hơn nữa lúc ta ra khỏi cửa, Tam gia đã căn dặn tuyệt đối không được mỹ nhân của người khác, Diêu Bích Oánh đưa về chỗ tiên
sinh. Dù sao Tây Phong Uyển cũng đang thiếu một nha đầu nấu cơm, ta thấy Hoa Mộc Cẩn này rất thích hộp, ta sẽ đưa cô ta về, được không?
“Thiếu gia nhà ta đã nói muốn nha đầu nay, không thể đưa cho ông
được.” Quả Nhĩ Nhân cũng nghiêm mặt đáp: “Không bằng ông tới Ngọc Bắc
Trai lấy ít tuyết liên, linh chi ngàn năm về cho Bạch Tam gia, coi như
trả cái ân này cho ông, được không?”
Hàn Tu Trúc lại lắc đầu, vẻ mặt như coi thường: “Lão Quả thật nhỏ
mọn, chỉ là một nha đầu thôi, Diêu Bích Oánh so với Hoa Mộc Cẩn thì xinh đẹp hơn bao nhiêu. Ta cược rằng, nhất định thiếu gia nhà ông thích cô
gái này.”
Quả Nhĩ Nhân lắc đầu: “Ông không biết, ngài ấy đã lớn rồi, tự có chủ kiến của mình…”
Tôi dần dần không nghe được họ nói gì nữa, chỉ cảm thấy bên tai có
rất nhiều tiếng ồn ào, mà lòng tôi chỉ trăn trở toàn tin tức về Cẩm Tú
và tướng quân, sau đó tựa hồ cảm thấy có người đang đánh nhau…
Tôi cố gắng hé mắt ra, chỉ thấy Quả Nhĩ Nhân đang quỳ một chân xuống đất, căm hận nói với Hàn Tu Trúc: “Ngươi…, người Hán toàn một bọn đê tiện vô sỉ, chỉ biết dùng trá thôi.”
“Lời ấy sai rồi, lão Quả, binh bất yếm trá(2) mà. Được rồi, thiếu gia nhà ta đã chấp thuận với Tống Minh Lỗi sẽ chăm sóc nha đầu này, vậy cho ta mượn mấy ngày nhé.”
Trước khi bị bóng tối nhấn chìm, chẳng hiểu sao trong lòng tôi có một ý
nghĩ kỳ lạ, Hàn Tu Trúc kia nói là mượn tôi mấy này, nhưng kết quả chắc
chắn sẽ giống Lưu Bị mượn Kinh Châu(3), có đi mà không có về….
…
….
Nóng quá, tôi cảm thấy mình như đang giãy dụa trong biển lửa vậy…
Liên Thụy Gia và Hương Cần hung tợn mài dao, nhe răng cười đi về phía tôi…
Phu nhân không ngừng cười nhạt, Liễu Ngôn Sinh bóp chặt cổ họng tôi,
nói: “Ngươi đã trúng Thập lý hương của ta rồi…” Cẩm Tú đứng bên cạnh tôi nhưng không hề để ý tới lời cầu cứu của tôi, chỉ vui vẻ kéo một nam tử
cao lớn rời khỏi…
Hình ảnh lại thay đổi, một vườn hoa đua nhau khoe sắc, Nguyên Phi Yên và Tống Minh Lỗi đang thân mật tản bộ cạnh bờ sông, tôi chạy nhanh tới, mắng Tống Minh Lỗi là đồ bất nghĩa, Nguyên Phi Yên bỗng đưa ra một cái
khay phủ lụa đỏ, nàng tươi cười bỏ tấm lụa ra, trong khay đặt một đầu
người, chính là khuôn mặt đầy máu của Bích Oánh…
Tôi hét lên rồi tỉnh lại mới phát hiện mình đang nằm trong một căn
phòng bằng gỗ đơn giản, trên mặt đầy nước mặt, cả người ướt sũng mồ hôi, thân dưới bị bó lại như cây cọ.
Ánh mặt trời hắt qua song cửa vào phòng, tôi liền giơ tay ra che
nhưng vừa thoáng động một cái, thắt lưng đã đau như thiêu đốt. Tôi cố
chịu đau, thử cử động chân và ngón chân, may quá, vẫn cử động được, bọn
họ vẫn chưa đánh thương trung khu thần kinh ở cột sống.
“Này, cô tỉnh rồi à?” Một giọng nói vô cùng khó nghe truyền tới tai
tôi, tôi quay đầu lại thì thấy một thiếu niên tầm mười hai, mười ba
tuổi, đầu chải thành hai búi, ánh mắt coi thường nhìn tôi, lại có chút
không kiên nhân, hơn nữa trên mặt có rất nhiều mụn, so với hai chữ “anh
tuấn” thì còn kém khá xa.
Tôi yếu ớt hỏi: “Đây là nơi nào?”
“Đây là Tây Phong Uyển của Tam gia, nếu không phải Hàn tiên sinh nhà
ta cứu cô thì cô đã chết ở Vinh Bảo đường rồi, này mau uống bát thuốc
này đi, để tôi còn trở về báo cáo nữa.” Thiếu niên kia vừa bịt mũi vừa
đưa tới một chén thuốc vừa đen vừa khó ngửi tới.
Tôi nhận lấy rồi uống một ngụm, trời ạ, đắng quá. Tôi hỏi: “Xin hỏi vị tiểu ca này, là cậu giúp tôi bó thuốc sao?”
Không ngờ cậu ta vừa nghe xong liền nhảy lùi về phía sau, khuôn mặt
toàn mụn đỏ ửng lên, sau đó giận dữ nói: “Này, mẹ tôi bảo rằng, nam tử
thấy thân thể của nữ tử thì sẽ phải chịu trách nhiệm với nữ tử đó. Vết
thương của cô tất nhiên là do mẹ tôi đắp thuốc cho, nha đầu kia chớ hủy
danh tiết của tôi, bộ dáng cô xấu xí như vậy, đừng mơ lừa tôi lấy cô.”
Tôi nghe xong, thuốc trong miệng đều phun ra hết, khiến cậu ta bị
phun ướt cả người. Cậu ta nổi giận còn tôi thì vội vàng xin lỗi. Đang
lộn xộn thì một phụ nhân tầm hơn bốn mươi tuổi, dáng người mập mạp đi
vào, thấy thế liền véo tai cậu ta, lớn tiếng mắng: “Tố Huy, lão nương
vừa đi ra ngoài một chút mà bệnh nhân con cũng không trông được sao?”
Cậu bé kia cố gắng giãy ra, xuýt xoa sờ sờ lỗ tai, miệng thì hét:
“Làm sao trách con được, cô ta tự phun hết thuốc ra đấy chứ! Hơn nữa con là hộ vệ của thiếu gia, tương lai nhất định sẽ vì thiếu gia vào sinh ra tử, bình thiên hạ, sao có thể đi chăm nom một nha đầu chứ?”
Cậu ta thấy vị phụ nhân thực sự nổi giận liền quay người chạy mất.
Phụ nhân kia thở dài một hơi, quay lại nhìn thấy vẻ hoảng sợ của tôi thì cười xòa: “Mộc cô nương không bị bỏng chứ?”
Hai mẹ con này thật có sức sống a!
Bà thấy tôi đờ đẫn lắc đầu thì cười dịu dàng, nói: “Thằng nhóc ấy là
máu mủ duy nhất của lão nương, tên Tố Huy. Tên này là do Tam gia đặt
cho. Cha nó đã mất sớm, Tam gia và Hàn gia lại nuông chiều nó quá nên
mới vô pháp vô thiên như vậy, Mộc cô nương đừng chê cười nha!”
Tôi lắc đầu đáp: “Xin hỏi nên xưng hô với đại nương thế nào?”
“Chồng ta họ Tạ, đứng hàng thứ ba. Ta vốn là thị tì của Tạ phu nhân
đã từ trần, cô nương cứ gọi Tạ tam nương là được.” Tạ tam nương nhanh
nhẹn giúp tôi tháo băng, thay thuốc rồi băng lại cẩn thận.
Mấy ngày tiếp, Hàn Tu Trúc không hề xuất hiện mà tôi cũng không có cơ hội được nhìn thấy chủ nhân mới của mình – Bạch Tam gia trong truyền
thuyết. Tôi không tiện vận động, ngay cả đi vệ sinh cũng khó, thấy thật
cảm thông cho Bích Oánh sáu năm không đi được. May mà có Tạ tam nương tỉ mỉ chăm sóc, đổi thuốc, đổ nước tiểu, tận tâm tận lực. Tôi vô cùng cảm
kích, thật muốn lấy một ít châu báu ra tạ ơn bà, tiếc rằng tất cả đều bị vất lại Vinh Bảo đường rồi, bây giờ ở đâu cũng không biết.
Thỉnh thoảng thiếu niên tên Tạ Tố Huy kia lại bị mẹ cậu bắt tới đưa
thuốc cho tôi, chẳng qua mỗi lần đến đều rất không tình nguyện. Tạ tam
nương bắt Tố Huy gọi tôi là Mộc cô nương nhưng cậu ta cho rằng ở Tây
Phong Uyển lai lịch của mình lớn hơn tôi, đáng lẽ phải là cấp trên của
tôi mới phải. Vậy nên mỗi lần Tạ tam nương không ở đó,
Tố Huy liền gọi tôi là Mộc nha đầu, tôi cũng chẳng thể nói gì bởi mỗi
lần cậu ta gọi Mộc cô nương thì đều như đang nói “Bặc cô điểu”(4) vậy.
Tạ tam nương rất thích tán dóc lại hay pha trò, bà kể cho tôi biết,
ngày hôm đó, Quả Nhĩ Nhân bị Hàn tiên sinh đánh bại, bị điểm vào ma
huyệt, cho nên tôi được ông đem về còn Bích Oánh lại được mang về Ngọc
Bắc Trai. Tôi im lặng không nói gì, không biết đây là may mắn hay bất
hạnh nữa. Tôi hỏi Tạ đại nương tình trạng của Bích Oánh, Tạ tam nương
liền cười đáp: “Mộc cô nương yên tâm đi, Quả lão đầu kia tuy có vẻ hơi
lạnh lùng nhưng lại vô cùng trung thành. Tứ gia thì lại suốt ngày không ở nhà, Oánh cô nương ở Ngọc Bắc Trai nhất định sẽ được ăn uống đầy đủ.”
Tôi không khỏi nhớ tới Nguyên Vũ, mặc dù hắn hại tôi không ít nhưng
tôi nghĩ chắc hắn bị người ta hãm hại nên mới thế. Lúc hỏi Tạ tam nương, sắc mặt bà chán nản, thở dài một hơi đáp: “Tiểu Vũ tử kia là con hiếu,
anh tốt có tiếng trong sơn trang, thật đáng tiếc, nghe nói là chôn ở Tây Lâm. Mẹ cậu ta cũng coi như là lão nhân trong trang, muội muội cậu ta
đã khóc đến chết đi sống lại rồi.”
Lòng tôi cũng rầu rĩ, về sau tôi lại nghe tin, vào ngày thứ hai tôi
vào Tây Phong Uyển, Hòe An bị bệnh mà qua đời, chết rất nhanh mà lại rất lạ, không thể làm gì hơn là hỏa táng chôn vào Tây Lâm.
Bảy ngày nữa trôi qua, cuối cùng tôi cũng có thể xuống giường. Tạ tam nương sợ tôi mới khỏi bệnh, dễ nhiễm phong hàn nên khoác cho tôi một
cái áo lông chồn thật dày, bên trong lại mặc thêm bao nhiêu là áo, khiến tôi mặc xong nhìn còn béo hơn cả bà thì mới đồng ý cho ra ngoài.
Tôi đạp tuyết từ từ đi tới trung đình, hôm nay ánh nắng tươi sáng,
mai đỏ đã nở thơm ngát cả vườn, tuyết phủ trắng xóa, khung cảnh đẹp đẽ
động lòng người. Trước đây toàn là tôi đứng bên ngoài Tây Phong Uyển
giặt quần áo, vừa giặt vừa đếm những đóa mai vươn ra khỏi tường, chưa
bao giờ nghĩ mình lại có có cơ hội vào bên trong, được ngắm tỉ mỉ vườn
mai xinh đẹp này, không khỏi ngây ngẩn một lúc.
“Tam gia đã tới!” Giọng nói cung kính của Tạ tam nương khiến tôi tỉnh lại, tôi quay đầu lại liền ngây ra tại chỗ, chỉ thấy Hàn Tu Trúc đang
một chiếc xe lăn, ngồi trên đó là một thiếu niên đang lẳng lẳng trong
trời tuyết.
Những cánh mai đỏ bay lượn trong gió, thiếu niên đó vận bạch y như
tuyết, thanh khiết không chút tỳ vết, tựa như minh châu tỏa sáng rực rỡ, tuy đang ngồi trên xe lăn nhưng phong thái hút người ấy vẫn không mảy
may giảm sút.
Thiếu niên đó bình tĩnh liếc tôi một cái, tôi phục hồi lại tinh thần, cảm thấy mình hơi vô lễ, tôi liền tiến lên hành lễ.
Anh ta khẽ mỉm cười, nụ cười ấy khiến tôi có cảm giác như hoa nở
trong sớm xuân, ánh trăng đêm Trung thu, nhã nhạc tấu lên bốn phía, tiên tước bay lượn, tôi thấy ba hồn bảy vía của mình đã lạc mất hơn nửa.
Nguyên Phi Bạch ra hiệu cho Hàn Tu Trúc đẩy xe tới bên bờ hồ Mạc Sầu, tôi hơi sửng sốt bước theo. Hàn Tu Trúc nói: “Nha đầu, từ hôm nay, cô
chính là người của Tây Phong Uyển, nhất định phải bảo vệ thiếu gia thật
cẩn thận.”
Tôi gật đầu: “Đa tạ ơn cứu mạng của thiếu gia và Hàn tiên sinh, Mộc Cẩn nhất định sẽ dùng cả đời để báo đáp.”
Cho dù thế nào, cái ơn này, nhất định phải báo.
Trong lúc tôi còn đang ngẫm nghĩ xem vừa nãy nếu thêm “lấy cái chết”
vào trước “báo đáp” thì có phải càng dễ mủi lòng không thì thiếu niên
tựa thần tiên kia, vừa nhìn mặt hồ gợn sóng nước, nhẹ nhàng nói: “Cô
không cần cảm tạ ta, nếu hôm nay ta cứu cô thì cô phải tự hiểu rõ mệnh
này đã là của ta, đến một ngày nào đó ắt sẽ đòi lại.”
Âm nhạc đột nhiên ngừng lại, hoa xuân lập tức rơi rụng, trăng thu
quay về với mây, chim nhỏ cũng cạc cạc bay đi mất, chỉ còn tôi đứng đó
đờ đẫn nhìn thiếu niên kia không nói gì.
Cứ như vậy, sự kiện ruồi trâu đã kết thúc cuộc sống của tôi và Bích
Oánh tại Đức Hinh cư, hoàn toàn thay đổi con đường cách mạng của chúng
tôi, bắt đầu quãng đời sống cùng với Nguyên Phi Bạch trong Tây Phong
Uyển.
-*-*-*-*-*-*-
(1) Trích Vô đề nhị thủ (I) – Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong của Lý Thương Ẩn.
Dịch nghĩa:
Thân ta không có đôi cánh phượng lộng lẫy bay cao
Nhưng trong lòng có điểm sừng tê để cảm thông
Dịch thơ:
Thân nào cánh phượng bay muôn sắc
Tâm sẵn sừng tê điểm cảm thông
(nguồn thivien.net)
(2) binh bất yếm trá (Thành ngữ): chỉ việc trong đạo dùng binh có thể dùng mọi cách kể cả nói dối để giành phần thắng.
(3) Lưu Bị mượn Kinh Châu: Thời Tam Quốc Lưu Bị đóng quân ở Kinh Châu. Đất ấy là đất mượn của Đông Ngô, Chu Du vẫn có ý đòi lại mà Lưu Bị dây dưa hẹn rằng khi nào lấy được Tây Xuyên thì trả. Ý câu này là mượn mà không trả.
(4) do cách phát âm gần giống nhau.