Mộ Vân Thâm

Chương 12




Lam quan đại phá, Lư Hoành bị bắt, chỉ còn đám phản quân chẳng có trò trống gì, Dục Thanh hạ cờ, thế như chẻ tre, hai ngày đã nắm trọn toàn bộ cục diện ở Trường An. Lư Hoành làm chủ Ung Châu đã lâu, gia trạch kiến thiết giống như Vương phủ, Dục Thanh dẫn quân phá cửa mà vào, đang muốn hạ lệnh tịch biên, nhớ tới Phương Đỗ Nhược bên cạnh, nói với Tề Lăng: “Không được quấy rầy nữ quyến, không được tổn thương nhân mạng, rõ chưa?”

Tề Lăng gật đầu, chỉ huy binh sĩ tản vào phủ. Phương Đỗ Nhược thoạt tiên không hiểu, thấy những binh sĩ vào phủ ai ai cũng hưng chí bừng bừng, nghi hoặc nói với Dục Thanh: “Điện hạ, đây là…”

Dục Thanh kéo y ra khỏi phủ, “Ngươi đừng qua xem, chúng ta ra ngoài nghỉ ngơi.”

Phương Đỗ Nhược đứng bất động, “Cậy binh cướp bóc là đại kỵ trong quân kỷ, điện hạ không khiển trách, ngược lại còn dung túng ư?”

“Lần này thắng quá dễ dàng, đa số các tướng sĩ chưa chiếm được quân công, nếu không để họ thừa cơ kiếm ít lợi lộc, sau này ai sẽ bán mạng cho ta?”

Thấy Phương Đỗ Nhược vẫn ngơ ngẩn, Dục Thanh nói tiếp: “Ngươi cho rằng họ anh dũng giết địch vì điều gì, vì nghĩa đồng đội, vì trung quân thần ư?”

“Bình sinh đa chí khí, tiễn để mịch phong hầu*”?

(Cả đời nuôi chí khí, phóng tiễn tìm phong hầu.)

“Chí khí là giả, phong hầu là thật, chỉ hai chữ danh lợi thôi mà.”

“Khi Đỗ Nhược đọc sử sách cũng có chút đồng cảm, chỉ không ngờ…”

“Không ngờ quân của ta cũng chẳng khác gì họ?” Dục Thanh mỉm cười, kéo Phương Đỗ Nhược ngồi xuống hiên cửa, “Theo ta, căn cứ của thắng bại, không ngoài ba điểm —— thầy dạy có tiếng, chủ soái có mưu, tướng sĩ nghe lời. Chưa nói đến tướng, chỉ nói đến những binh lính kia, họ vốn không quen không biết ta, lưỡi đao dính máu không vì danh lợi, chẳng lẽ có thể vì ta sao? Hay dẫu là tướng đi chăng nữa, không có đài Hoàng kim kia, thì ai bằng lòng cầm kiếm Ngọc Long chiến đấu cho vua**, nhà thơ này nói nghe êm tai thì êm tai thật, nhưng mà vô dụng.”

Lời tuy hữu lý, nhưng tướng sĩ nghe được cũng khó khỏi chạnh lòng. Phương Đỗ Nhược hơi đắn đo quay đầu nhìn lại, thấy thân binh của Dục Thanh sớm đã ngấm ngầm rút lui, như khi nghỉ ngơi lúc hành quân, màn trướng hoa gấm che đậy tất cả, trong vòng năm trượng chẳng một bóng người. Phương Đỗ Nhược thấy tâm khẽ dao động, không biết từ lúc nào Dục Thanh đã vứt hết quy củ như thế, nghĩ đến điều này bỗng nhận ra Dục Thanh vẫn nắm tay mình không buông.

“Dục Thanh, về kinh thành rồi, không thể như vậy nữa đâu.”

Dục Thanh nhất thời khó hiểu, bỗng thấy Phương Đỗ Nhược tăng thêm lực trên tay, nắm tay thật chặt, bấy giờ Dục Thanh mới hiểu, lập tức nhíu mi nói: “Ngươi là người chịu giới, chúng ta vô cùng trong sạch, ai dám nói linh tinh, ta đích thân đi cắt lưỡi nó.”

Phương Đỗ Nhược thấy hắn lại nổi tính Diêm Vương, đành phải dịu giọng khuyên: “Mấy thứ học được từ Phật đường hồi nhỏ đã quên sạch rồi sao? Ngài là hoàng tử, có thiên thần bảo hộ, mệnh vàng thể quý, dù thân mang lệ khí cũng không sao cả, nhưng người bên cạnh sẽ bị giảm thọ.”

Dục Thanh nâng mắt nhìn lên, vẻ mặt hơi lo sợ. Phương Đỗ Nhược thầm thở dài, từ nhỏ đến lớn, mỗi lần muốn khuyên giải hắn, chỉ đành đưa cả mình vào cuộc.

“Thật sao, ngươi sẽ bị giảm dương thọ? Trong Kinh Phật nói như vậy?”

Phương Đỗ Nhược thấy hắn quả thật bị dọa, không khỏi đau lòng, nhưng nghĩ tới việc có thể khiến hắn cố kỵ âu cũng là chuyện tốt, đành phải nói tiếp: “Chư nghiệp đều có báo, nhân quả vô thường, dù ngài không tin, nhưng tôi tin.”

Sắc mặt Dục Thanh trắng bệch: “Đã giảm thọ chưa?… Ta ăn chay niệm Phật thì có được không?”

Phương Đỗ Nhược không khỏi bật cười, nắm chặt tay hắn, nói: “Ngày thường không thắp hương, giờ cuống lên mới ôm chân Phật sao? Người bên ngoài không hiểu, nhưng sao tôi lại không biết? Chuyện thần phật, trước nay ngài chưa từng tin, niệm Kinh có tác dụng gì. Tích nghiệp sẽ gặp phải báo, song không phải phút chốc là chết được, từ giờ ngài đừng lạm sát nữa đã là tích công đức lớn nhất cho tôi rồi.”

Dục Thanh dựa nửa người vào vai Phương Đỗ Nhược, mím môi dường như hãy còn nghĩ ngợi. Phương Đỗ Nhược lại tiếp: “Ban nãy mới nói, về kinh thành rồi, không thể như vậy nữa đâu. Kinh thành nhiều người nhiều miệng, lợi hại thiệt hơn rất phức tạp, bệ hạ vẫn luôn không thích…” Nói được nửa câu, chợt không biết diễn tả kiểu quan hệ này như thế nào, chốc lát mới nói: “Bệ hạ vẫn luôn không thích hoàng tử tư sủng bề tôi, Tứ điện hạ từng bị trách phạt rất nặng vì qua lại thân thiết với Khâm thiên giám Lộc đại nhân, vết xe đổ phía trước, không thể không xem xét.”

“Ta không giống Tứ ca.”

“Tôi biết ngài không giống, nhưng người ngoài lại thấy giống. Tôi đáp ứng ngài, tôi nhất định sẽ không kiếm chuyện để xuất kinh nữa, dù thượng triều hay hạ triều đều có thể gặp nhau, ngài đừng quá ngang ngạnh.”

“Chuyện của Dụ Thanh, ta nói với ngươi chưa?”

Phương Đỗ Nhược không hiểu vì sao Dục Thanh đột nhiên nhắc tới y, chỉ gật đầu.

“Khi Thiện Lan Triết nói những lời đó, ta chỉ thấy thật ngốc, bây giờ nghĩ lại, nếu ngươi là nữ tử để ta cưới vào phủ, thì sao có nhiều phiền toái như vậy nữa.”

Phương Đỗ Nhược bật cười: “Nói nhảm gì vậy, ngài là người đã sắp thành thân rồi, còn nói chuyện như trẻ con vậy sao?”

Mặt Dục Thanh nháy mắt lạnh tanh, “Không hổ là thiên hạ đệ nhị sĩ tử, lời đầy ngụ ý tâm cơ như vậy mà nói nghe nhẹ tênh.”

Phương Đỗ Nhược thấy Dục Thanh nhìn thấu, lòng xót xa khó kìm nén, tắt nụ cười trên môi, im lặng.

“Ta sẽ không thành thân.” Dục Thanh chuyển mắt, ngày càng siết chặt tay Phương Đỗ Nhược, “Dù phụ hoàng có hạ chỉ, ta cũng không lấy, dù ngươi thật sự chẳng quan tâm, ta cũng không lấy.”

Phương Đỗ Nhược thấy lồng ngực xót xa nhức buốt, đanh giọng nói: “Mệnh cha mệnh vua sao có thể kháng lại, Đỗ Nhược xin ngài, nhẫn nại một lần này, chỉ nhẫn nại một lần này —— “

“Không thể kháng, vậy chết thôi. Chỉ có chuyện này, ta quyết không nhẫn nại!”

“Dục Thanh!” Phương Đỗ Nhược chưa bao giờ ngờ rằng hắn lại dứt khoát đến nước này, bất chấp mọi kiêng kị, dang tay ôm hắn vào lòng, liên thanh nói: “Đừng làm tôi sợ, tôi nào có mấy cái mạng để ngài giày vò như thế!”

Dục Thanh tựa vào lòng y, tính cách bướng bỉnh dường như đã hòa hoãn lại. Phương Đỗ Nhược thở dài một hơi, chậm rãi khuyên nhủ: “Hoàng thượng rất thương ngài, ngài cẩn thận nói với Hoàng thượng, nói ngài hãy còn nhỏ tuổi, chưa muốn thành hôn, không có gì không nói được cả. Nếu ngài lấy tính mạng ra bức ép, dù Hoàng thượng muốn chiều ý ngài, cũng e ngại đời sau sẽ bắt chước, vẫn là không thể chiều lòng ngài. Thiên tử có quyền uy của thiên tử, ngài thân là hoàng tử thì phải biết cảm thông, mọi việc cứ từ tốn mà bàn bạc, nếu dồn ép quá đà, song phương đều không dễ chịu. Ngài nói một chữ chết dễ như vậy, sau khi chết đi luân hồi kiếp sau, có lẽ chẳng gặp được tôi nữa đâu, tôi rời kinh vì việc của ban sai ngài đã không muốn, từ đây mãi mãi cách mặt như thế, ngài cam lòng không?”

“Dù sao cũng không cách nào bắt được ngươi.”

“Hả?” Nghe người trong lòng đột nhiên nói một câu như vậy, Phương Đỗ Nhược ngây ngẩn.

“Ta mà không vui, ngươi sẽ tới khuyên ta, thế là ổn rồi.” Dục Thanh nói xong nâng mắt nhìn y cười, “Nhưng mà ngươi phải chăm sóc tốt cho bản thân mình, nhất định không thể mất sớm hơn ta, nếu ngươi đi rồi, nhỡ đâu ta phạm phải sát nghiệp tày trời nào đó, lúc ấy sẽ chẳng ai ngăn ta được.”

Phương Đỗ Nhược mỉm cười, song trong lòng lại mơ hồ một chút bất an, siết chặt vòng tay ôm hắn.

Lát sau ngoài trướng thông báo: “Lục điện hạ, Tề Lăng có việc xin diện kiến.”

Dục Thanh ngồi dậy, sửa lại tà áo, cao giọng nói: “Vào đây nói.”

Tề Lăng vén cẩm trướng bước vào, thi lễ xong mới nói: “Có một vị nữ quyến của Lư phủ khăng khăng đòi gặp Phương đại nhân, ban nãy điện hạ nói phải khách khí với nữ quyến, Tề Lăng không biết thu xếp thế nào, xin điện hạ chỉ cho.”

Dục Thanh quay đầu nhìn Phương Đỗ Nhược.

Phương Đỗ Nhược cũng thấy ngạc nhiên, hỏi Tề Lăng: “Tề tướng quân có hỏi tên họ không?”

Tề Lăng lộ vẻ lúng túng, cười cười đáp: “Khuê danh nữ tử, Tề Lăng không tiện hỏi.”

Dục Thanh nói: “Đưa đến đây gặp.”

Tề Lăng theo lời lui xuống, chốc lát sau đưa theo một nữ tử áo trắng. Nàng đứng xa xa thi lễ, khi ngẩng đầu trông lại, ấy vậy mà thiên tư quốc sắc.

“Lộng Bích cô nương?”

Bỗng chốc, gương mặt nàng chảy dài hai hàng lệ, “Cảm tạ Phương đại nhân… vẫn còn nhớ thiếp thân.”

Dục Thanh ngồi một bên, khẽ nhíu mày.

Phương Đỗ Nhược bước lên trước nói: “Thì ra cô nương gả vào Lư phủ sao?”

Hai năm trước, Phương Đỗ Nhược tuần tra ruộng đất, có đi qua Trường An. Lộng Bích khi ấy là đệ nhất ca kỹ của Giáng Tiên các, Lư Hoành yêu thích tài sắc của nàng, thường tới Giáng Tiên các ủng hộ. Thế nên mấy bữa tiệc rượu khoản đãi Phương Đỗ Nhược khi ấy cũng thường được đặt trong các, vài lần Lộng Bích bồi rượu trên tiệc, cũng từng có duyên gặp Phương Đỗ Nhược.

Ca kỹ trong Giáng Tiên các đều được tự làm chủ, lúc đó Phương Đỗ Nhược thấy Lư Hoành dù ân cần sâu nặng với Lộng Bích, nhưng trong nụ cười của Lộng Bích lại luôn thiếu vẻ thân thiết, dường như không phải lưỡng tình tương duyệt. Hôm nay gặp lại trong trướng, bỗng thấy bất ngờ.

Lộng Bích nói: “Chân thành nhất mực, sắt đá cũng mở lòng, Lộng Bích một giới nữ lưu, không hề ngoại lệ.”

Phương Đỗ Nhược thầm nghĩ lời chúc mừng, rồi chợt nhớ tới tình thế bây giờ, chỉ thấy yết hầu đắng chát.

“… Cô nương lần này đến đây, là vì chuyện gì?”

“Lộng Bích đã gả đi, đại nhân cứ gọi thiếp thân là Lư nương tử.” Lộng Bích nói xong hai chân quỳ xuống, “Lão gia nhà tôi nhiều năm không có con, trong bụng thiếp thân là cốt nhục duy nhất của ngài, xin Phương đại nhân niệm tình cảm bao năm nay với lão gia nhà tôi, thả cho con tôi một đường sống.”

Dứt lời, gương mặt tuyệt sắc đã thẫm nước mắt, nhưng vẫn cố sức chống đỡ cơ thể, không thất thố tới mức ngã quỵ, “Xin đại nhân cho hạn mấy tháng, đợi hài nhi của thiếp thân ra đời, nhất định sẽ nhận tội tử hình, đi theo lão gia… Chỉ xin Phương đại nhân mở lòng từ bi, tha cho đứa trẻ chưa ra đời này… Phương đại nhân, ngài là người thiện tâm, thiếp thân xin ngài mở lòng từ bi, Phương đại nhân…”

Phương Đỗ Nhược đau xót, đang muốn đưa tay đỡ lấy nàng, chợt nghe tiếng cười lạnh của Dục Thanh phía sau: “Ngươi xin y niệm tình cảm bao năm nay tha cho đứa trẻ trong bụng ngươi, vậy sao Lư Hoành không niệm tình cũ mà tha cho y? Nếu ta phá Lam quan chậm hơn chút nữa, bây giờ y đã đầu rơi máu chảy, ngươi đi cầu xin ai đây?”

Phương Đỗ Nhược xoay người đáp: “Lư Hoành phạm tội, thê tử vô tội, điện hạ chớ trách nàng.”

“Mưu phản là tử tội tam tộc, nàng thân là thiếp thất của Lư Hoành, phải tru di cả tộc, hai chữ ‘vô tội’ căn cứ vào đâu?”

Phương Đỗ Nhược không còn lời để giải thích, chỉ nhìn sang Lộng Bích, im lặng không nói.

Dục Thanh tiếp tục: “Quốc pháp vô tình, Lư Hoành dám dấy binh tạo phản, phải đoán trước được rằng sẽ đoạn tử tuyệt tôn, bây giờ nói đến từ bi buông tha, e rằng quá muộn. Nếu Phương Đỗ Nhược thật sự là Bồ Tát, có bằng lòng cứu ngươi, song y chẳng qua là một quan văn nhị phẩm, đến cả ta đường đường hoàng tử ở đây cũng chẳng cứu ngươi được, ngươi tới xin y, chỉ phiền y phải thức trắng mấy đêm, với mình với người chẳng hề có lợi. Biết điều mau mau lui xuống đi, người của ta sẽ không làm khó các ngươi, an tâm chờ chết đi.”

Lộng Bích quỳ trên đất, nước mắt ròng ròng, lệ tuôn không ngừng. Phương Đỗ Nhược trong lòng khó nhịn, bước lên đỡ nàng đứng dậy, đưa nàng ra khỏi trướng, đi tới nửa đường, trước sau không có người, mới hạ giọng: “An tâm.”

Lộng Bích đã hiểu rõ, dù bước chân chậm lại một nhịp, nhưng không hề quay đầu.

Sau đó mấy ngày Dục Thanh bắt đầu tiếp nhận quân vụ Ung Châu, vài ngày liền chẳng dứt ra được. Một hôm, Phương Đỗ Nhược lấy cớ thăm bạn cũ trong Trường An, từ trú quán đi ra ngoài.

Xe ngựa của y thuê một công nhân khỏe mạnh tới cửa sau của Lư phủ, người khuân vác từ trong xe bước xuống còn bê theo một rương gỗ, binh lính thủ vệ đều nhận ra Phương Đỗ Nhược, y chỉ nói vào trong phủ lấy đồ gì đó, họ cũng không hề ngăn y lại. Tới nội viện của nữ quyến, hai binh sĩ trông coi thấy y mang theo chiếc rương muốn vào cửa, trong đó một người bước lên vấn lễ, nói: “Phương đại nhân an khang. Phương đại nhân, đây là…”

Phương Đỗ Nhược cười đáp: “Không gạt hai vị tiểu ca, ta với Lư Hoành trước đây là bằng hữu, biết trong nội viện nhà gã có giấu bảo bối, hôm nay tới lấy, muốn tặng cho Lục điện hạ để điện hạ vui vẻ.”

Binh sĩ nọ nghe xong, mặt mũi hớn hở nói: “Đại nhân đúng thật là thông minh hơn bọn thuộc hạ chúng tôi nhiều, nghĩ ra được bảo bối nhất định phải giấu trong khuê phòng nội viện.”

Phương Đỗ Nhược lấy từ trong người ra hai đĩnh bạc vụn đưa đến tay họ, “Lục điện hạ hiện tại hạ lệnh không được tổn thương nữ quyến, các ngươi không được vào nội thất, ít đi chút thu nhập, lấy cái này mà bù vào.”

Hai binh sĩ vội vã nhận lấy, quay đầu nhìn nhìn khắp xung quanh, nói: “Đại nhân ra tay nhanh thật, tuy rằng với thân phận đại nhân ở đây, tiểu nhân không sợ lấy nửa phần, nhưng dù sao trái lệnh Lục điện hạ, để người ta thấy cũng không tốt.”

Phương Đỗ Nhược cười, sai phu khuân vác nâng rương bước vào sân, quay đầu lại nói: “Sẽ không làm khó các vị tiểu ca đâu, nhị vị tiểu ca giúp ta trông chừng một chút.”

Hai binh sĩ cũng vội vàng xốc lại tinh thần đưa mắt ra ngoài xem xét, nửa khắc sau phu khuân vác khiêng chiếc rương từ trong sân ra, như nặng thêm không ít đồ. Phương Đỗ Nhược cười cười với binh sĩ canh gác, không nói gì, mang rương đi thẳng. Trên đường gặp mấy đội trưởng thủ vệ, đều biết Phương Đỗ Nhược trong lòng Dục Thanh có thân phận thế nào, đoàn người vội vàng làm lễ, cũng không có ai để tâm là có gì rương.

Thuận lợi ra khỏi Lư phủ, Phương Đỗ Nhược chào phu khuân vác, tự y lên xe một đường xuất thành, tới cửa thành, nhờ việc Dục Thanh đã ra chỉ thị với thuộc hạ cho y được ra vào thành tự do, binh sĩ thủ thành thấy y quan cao vọng trọng, cũng không tra xét cẩn thận. Cứ băng băng trên đường như vậy mà tới ngoại thành Trường An, Phương Đỗ Nhược dừng xe ngựa, mở rương gỗ bên trong xe, ân cần hỏi: “Dọc đường tròng trành, Lư nương tử có sao không?”

Lộng Bích từ trong rương ngồi dậy, lệ mới hòa cùng lệ cũ tuôn đầy mặt, nói với Phương Đỗ Nhược: “Thiếp thân không sao. Thiếp thân cảm tạ ơn cứu mạng của đại nhân.”

Phương Đỗ Nhược khẽ cười, lắc đầu nói: “Lư nương tử không cần cảm tạ ta, hãy cảm tạ thần phật từ bi, thiên đạo luân hồi. Tại hại năm ấy cũng là một đứa trẻ được thứ tha như vậy, trời cao ban cho tại hạ một sinh mạng, hôm nay tại hạ trả về.” Phương Đỗ Nhược vừa nói vừa dìu Lộng Bích ra khỏi rương, hỏi: “Lư nương tử quê quán ở đâu? Cuộc sống sau này có tính toán gì chưa?”

“Thiến thân là nhân sĩ Vũ Dương, chỉ là… quê quán hôm nay, sợ chẳng về được nữa…” Lộng Bích vừa nói vừa nâng tay gạt nước mắt, mỉm cười tiếp lời: “Nhưng chỉ cần có thể giữ gìn một mạng này, có thể chăm đứa con này, đi đâu cũng giống nhau thôi… Thiếp thân cả đời nghe danh Giang Nam phồn hoa, tửu quán đông đúc, có khi đổi tên thay họ làm lại nghề cũ, xướng khúc bán nghệ kiếm cơm qua ngày.”

Một nữ tử yếu đuối nhường ấy, gặp đại biến thế này vẫn không mất chí khí, Phương Đỗ Nhược chợt thấy đồng cảm, vươn tay lấy trong xe ra một tay nải, nói: “Đây là xiêm y thường dân mặc, và cả mũ che với vài lượng bạc vụn. Lư nương tử dung sắc khuynh thành, để đề phòng, trước khi thu xếp ổn thỏa đừng lộ dung mạo.”

Lộng Bích gật đầu. Phương Đỗ Nhược lại nói: “Ta không có nhân thủ đắc lực ở Trường An, ta đã viết thư cho hạ nhân Tiểu Canh ở trong phủ, gã sẽ đón cô ở Lạc Dương, xe của cô cứ đi thong thả mấy ngày, gã thấy cành ngải cắm trên xe sẽ biết là cô. Lúc đó gặp nhau, để gã đưa cô tới Giang Nam thu xếp cho cô, gã là tâm phúc của tại hạ, còn biết chút võ công, có gã bảo vệ cho cô, Lư nương tử cứ an tâm.”

Lộng Bích lại trào nước mắt, “Đại nhân sắp xếp kỹ lưỡng ổn thỏa như vậy, thiếp thân lấy gì báo đáp.”

“Cô sinh đứa nhóc mạnh khỏe, nuôi nó lớn lên, biết mẫu tử cô bình an, tại hạ đã hài lòng rồi.”

Phương Đỗ Nhược bên này đưa Lộng Bích đi xa, bên kia, hai binh sĩ trông coi nội viện Lư phủ bắt đầu đưa cơm buổi tối, thoạt đầu không để ý, nhưng vì dung mạo Lộng Bích quá xuất chung, hơn nữa còn đang mang thai, bình thường rất dễ chú ý, một binh sĩ trong đó nhìn những nữ quyến đang xếp hàng lấy cơm, đột nhiên không thấy nàng đâu nữa, hỏi nữ quyến còn lại, họ đều nói sáng sớm đã ra khỏi phòng. Binh sĩ lần tìm cả sân không thấy một bóng người, mới nhớ tới chiếc rương tinh chế của Phương Đỗ Nhược kia.

Để người dưới sự giám sát của mình chạy thoát là đại tội thất trách, hơn nữa còn nhận ngân lượng của người ta, oan khuất khó mà thanh minh. Huống chi với quan hệ của Phương Đỗ Nhược và Lục điện hạ, làm sao biết được việc này có phải mưu kế của Lục điện hạ hay không, dù Lục điện hạ thật sự không biết, nhưng nếu chuyện có đổ bể cũng sẽ chỉ che chở cho Phương đại nhân thôi. Với tính khí Lục điện hạ như vậy, nhất định không ăn chay đâu, lúc ấy mà giận chó đánh mèo lên kẻ làm lộ chuyện, đầu của cả nhà mình e rằng sẽ dời chỗ mất.

Hai binh sĩ thương lượng xong, không chớp mắt gạch đi tên một nha hoàn ở danh sách nữ quyến trên tay, chỉ nói là lúc chép lại tên bị viết sai, sau khi gạch đi, chuyện làm mất người không hề lộ ra.

Lần cuối cùng Dục Sơ đi thăm phế Thái tử Dục Ninh, trên khay đàn hương đặt một bình rượu Kim Tiết.

Trong chén ngọc bích, chất rượu xanh thẳm, Kim Tiết chìm nổi, kỳ diễm chẳng gì sánh nổi.

Rượu nhúng lông chim Trậm*, rượu càng thuần độc càng mạnh, bảy bước đoạn trường.

(Lông chim Trậm có độc, ở đây ý chỉ rượu độc.)

“Cuối cùng phụ hoàng cũng hạ chỉ rồi sao.”

Giọng nói của Dục Ninh rất bình tĩnh.

Dục Sơ đặt khay lên chiếc giường trong lao.

“Thần đệ và Thừa tướng khuyên bảo hết lời, cũng chẳng thể xoay chuyển được.”

Dục Ninh nâng chén ngọc bích, xoay xoay chiếc chén chăm chú nhìn ánh lưu ly bên trong, nói: “Lấy rượu Kim Tiết ban chết, cũng xem như lễ tang long trọng nhất rồi. Thái tử phi bọn họ thì sao?”

“Ban cho bạch lăng tự tẫn.”

“Khánh Diễm, Khánh Tông?”

“Hồng lăng treo cổ.”

“Những người còn lại?”

“Tử hình.”

Dục Ninh cười chát chúa, “Thật gọn gàng.”

“Hoành huynh có muốn ăn gì không, cứ nghĩ đi, bây giờ thần đệ sẽ đi lo liệu.”

Dục Ninh ngồi trên chiếc giường trong nhà lao, ngẩng đầu nhìn hắn, “Bây giờ cũng chỉ còn có đệ chịu gọi ta một tiếng hoàng huynh.”

Dục Sơ hạ mi im lặng, Dục Ninh nói tiếp: “Mấy ngày nay đệ luôn đến thăm ta, trên dưới Đại Lý tự được đệ chiếu cố, họ chưa từng làm khó ta, tự cổ chí kim, phế Thái tử thoải mái thế này, ta là người đầu tiên.”

“Hoành huynh vốn chưa từng lầm lỗi, mà chỉ bị Lư Hoành liên lụy.”

Dục Ninh lắc đầu, cười, “Có hay không có Lư Hoành thì cũng thế thôi, là do phụ hoàng… già rồi. Ta chưa bao giờ là nhi tử được sủng ái, chỉ vì thân là trưởng tử, thân phận mẫu thân tôn quý, phụ hoàng không thể không lập ta làm Trữ*. Khi còn thơ bé, ta những tưởng rằng phụ hoàng không ôm ta không thơm ta vì ta là Thái tử, vì thân phận ta không giống với những Hoàng tử khác, sau này chính ta có con mới biết, cùng là thân sinh, nhưng cũng có thân và không thân.

(Trữ ở đây là Trữ quân, tức là Thái tử, người kế vị.)

“Phụ hoàng luôn nể trọng hoàng huynh, thần đệ và văn võ bá quan cả triều đều thấy rõ.”

“Nể trọng và yêu thương vốn chẳng giống nhau, đổi lại là đệ, đệ muốn thứ nào?”

Dục Sơ thấp giọng đáp: “Hoàng huynh cũng biết, phụ hoàng đâu có thương đệ.”

“Ta biết, nên ta mới nói với đệ những lời này.”

Dục Sơ ngẩng đầu nhìn Dục Ninh, ánh mắt chợt động trong chớp nhoáng, sau đó trở về trầm lặng.

Dục Ninh nhẹ giọng nói: “Có lẽ đệ chẳng phải người thông minh nhất trong tất cả huynh đệ chúng ta, nhưng trong tất cả huynh đệ chúng ta, đệ là người thích hợp làm hoàng đế nhất, ca ca đưa vị trí này cho đệ, cũng là điều nên làm.”

Dục Sơ quỳ xuống khấu đầu, đáp: “Thần đệ không dám đi quá giới hạn, hi vọng hoàng huynh thu lại lời vừa nói.”

Dục Ninh nghiêng người đỡ lấy bờ vai hắn, cũng gập người quỳ trước mặt hắn, hai người đối mặt trong gang tấc, Dục Ninh cười nhẹ: “Ta biết chốn này đã là thiên hạ của đệ, ở đây không có gì không thể nói. Hoàng huynh chẳng tài cán gì, không xứng với địa vị Thái tử này, mai sau sẽ không làm một hoàng thượng tốt được. Hôm nay nhường vị trí này cho đệ, hoàng huynh cam tâm tình nguyện, đệ đừng nhường nó cho người khác.”

Dục Sơ nhìn hắn, lặng im, Dục Ninh tiếp lời: “Phụ hoàng thương ai nhất, trong lòng đệ còn rõ hơn ta. Sau này ra tay, cũng vì ca ca ta, đừng mềm lòng, biết không?”

Dục Sơ nghẹn ngào, chỉ nhắm mắt gật đầu. Dục Ninh lại gần đưa tay ôm lấy hắn, tựa đầu lên vai hắn, “Khi còn nhỏ, chỉ có đệ không sợ ta, cũng chỉ có đệ bằng lòng mở rộng vòng tay ôm ta vào lòng.”

Vừa nói chuyện, hắn vừa nâng chén khoan thai đặt bên môi, khẽ nếm một ngụm, nói khẽ: “Đúng là rượu ngon.”

Dục Sơ cả người chấn động, Dục Ninh uống cạn Trậm tửu, lại gần tai hắn, nói: “Dục Sơ, đệ đệ tốt, kiếp sau là huynh đệ, chớ sinh nhà đế vương…”

Chén ngọc rơi xuống đất, âm thanh giòn tan, người trong lòng dường như trúng phải cơn gió lạnh, khẽ khàng run lên, Dục Sơ ôm chặt ca ca mình, nghe nhịp thở của hắn dần đứt quãng, phập phồng vô định, cuối cùng, lặng im mà dừng lại.

Trong lòng hắn rét buốt thấu xương, nhưng chẳng tìm ra điều gì để căm hờn, chỉ còn lại ngỡ ngàng vô biên, nhưng không chút nào hối hận, không một chút nào.

Kiếp sau là huynh đệ, chớ sinh nhà đế vương.

.O.

Chú thích:

*Trích “Tắc thượng khúc Nhị thủ” của Vương Nhai. Dịch bậy:

Thiên kiêu về ải xa, rền tiếng đao xuất vỏ

Ngày báo ân định sẵn, mạng hôm nay nhẹ tênh

Cửa binh ắt có địch, vừa gió đã báo thu

Cả đời ôm chí khí, phóng tiễn tìm phong hầu.

**Nguyên văn là hai câu “Báo quân Hoàng kim đài thượng ý. Đề huề Ngọc Long vi quân tử” trích “Nhạn Môn thái thú hành” của Lý Hạ. Bản dịch của Nguyễn Minh:

Mây đen muốn đè thành tan nát

Vẩy cá vàng áo giáp long lanh

Tù và vang động khắp thành

Ban đêm quan ải sắc xanh phấn màu

Cờ nửa cuốn khi qua sông Dịch

Trời lạnh căm, sương đặc, trống im

Ân sâu trọng nghĩa Hoàng kim

Nguyện đem kiếm Ngọc long đền ơn vua.


(Dục Thanh trên kia có nói: “Hay dẫu là tướng đi chăng nữa, không có đài Hoàng kim kia, thì ai bằng lòng cầm kiếm Ngọc Long chiến đấu cho vua” – Hiểu là: nếu cái đài nó không làm bằng vàng ròng (hoàng kim) thì ai thèm quyết tử vì vua?)