Chủ soái rất vui vẻ.
Mặc dù vẫn đôi môi mím chặt, vẫn gương mặt lạnh lùng, nhưng cái vẻ thoải mái giữa hai hàng mày thì không giấu đi đâu được, những tướng sĩ đã theo hắn chinh chiến bao năm nay sao có thể không nhìn thấy đây.
Lý do vui vẻ ấy à… Ngay cả Ngọc Túy Khinh Tuyết mà ngài vẫn thường yêu thương nhất kia cũng đem cho người ta cưỡi… Vị Phương đại nhân đó, không biết đã tu mấy đời rồi.
Thấy đám bộ tốt cứ nhao nhao nhìn bảo mã của mình, rồi lại nhìn Phương Đỗ Nhược đang cưỡi trên nó, trưng ra vẻ mặt hâm mộ với người và thương xót cho ngựa, Dục Thanh thấy rất buồn cười, thúc vào Đạp Vân dưới chân lao lên hàng đầu đội ngũ, vung tay xuất phát.
Chuyến đi này không nhanh không chậm. Phương Đỗ Nhược vốn biết tính tình Dục Thanh, nếu đã lĩnh nhiệm vụ đi thảo phạt phản tặc, nhất định sẽ bôn tẩu ngàn dặm tập kích bất ngờ tốc chiến tốc thắng, không ngờ đại quân đi cả đoạn đường, đi đường lót đất, đi cầu bắc ngang, thậm chí gặp chốn phong cảnh kỳ lệ còn chậm lại nhịp bước, tỉ mỉ thưởng thức, không hề giống như đang ra trận mà y hệt như đi du ngoạn. Song ngoài mặt, quân mệnh chưa hạ, Phương Đỗ Nhược còn là văn quan tùy quân, càng không thể nhúng tay, khi đối mặt với Dục Thanh, y vẫn trưng ra nụ cười ôn hòa.
Thảng khi, Dục Thanh lên kiểm tra đội ngũ phía trước, Phương Đỗ Nhược thường nhìn ánh nắng phản chiếu trên mái tóc hắn đến ngẩn ngơ, rồi miên man nghĩ, mái tóc màu mật cột bừa lên ấy, khi tung bay trên chiến trường trông sẽ như thế nào đây, có phải sẽ giống như lá cờ chiến, mặc sức mà đón gió, không trói buộc không dựa dẫm hay chăng.
Loan điểu phượng hoàng, hùng dũng bay lượn giữa trời cao, sợi tơ cuốn lấy đôi cánh hắn, từ trước tới nay, vẫn là mình nắm trong tay.
Từ lần gặp mặt ở pháp trường ấy, chỉ trong nháy mắt, rất nhiều việc đã rõ ràng, nhưng rất nhiều lời, lại càng chẳng thể nói rõ.
Dục Thanh thấy Phương Đỗ Nhược cứ luôn cúi đầu suy nghĩ, bảo với hắn là đang lo lắng cho chiến cuộc, hơn nữa hắn vốn chẳng phải người nhiều lời, trước mặt tướng sĩ càng không thể mất uy nghiêm, thế nên ngày ngày chỉ cưỡi ngựa đi song song bên Phương Đỗ Nhược, ngoại trừ việc ngắm sơn thủy, thì không hề nói chuyện với y.
Vì trước khi tới được Ung, nhất định phải đi qua Tần Lĩnh đầy hiểm trở, từ khi vào núi đến nay, đường núi gập ghềnh, việc hành quân bị trì trệ. Dục Thanh thấy vẻ mặt lo âu của Phương Đỗ Nhược, liền liếc mắt hỏi dò, Phương Đỗ Nhược nói: “Đỗ Nhược đang nghĩ, nếu Lư Hoành phái binh mai phục ở đây, chẳng phải quân ta không thể đánh trả sao?”
Dục Thanh đáp: “Một bên là vách đá cheo leo, một bên là vực thẳm, nếu binh sĩ của Lư Hoành không được gắn thêm đôi cánh, thì tấn công thế nào đây?”
Phương Đỗ Nhược mỉm cười, “Điện hạ cũng biết Đỗ Nhược không thông binh pháp, là Đỗ Nhược lo thừa rồi.”
“Cũng không hẳn là lo thừa, có câu binh vô thường pháp thủy vô thường hình*, nếu là kẻ khác, chuyện ra lệnh cho thuộc hạ trèo lên đỉnh tuyệt bích ném đá quăng lửa xuống dưới cũng chẳng hiếm lạ, nhưng kẻ này là Lư Hoành, ta không hề lo lắng.”
(Binh vô thường pháp, thủy vô thường hình: binh pháp thì vô thường, nước thì không có hình dạng cố định.)
“Vì sao?”
“Cả triều đều nói Lư Hoành thiện chiến, cũng không phải nói bậy. Gã ở biên cương từng ấy năm, dù thường xuyên phải giao chiến với Tây Thương, với Thổ Dục Hồn, gã cũng chưa từng để mất một thành, có thể khen là thiện thủ chi tướng. Có câu thước có sở đoản, tấc có sở trường*, nhược điểm của Lư Hoành là gã thiện thủ bất thiện công, trước khi xuất binh ta có tới Binh bộ xem qua ghi chép về những lần tác chiến của gã, luôn viết là gã đẩy lùi quân địch công thành, chưa từng thấy gã chủ động xuất thành nghênh địch bao giờ. Ở thành còn như vậy, ở nơi hiểm trở này, gã làm sao chịu dấy binh rời tổ? Nhất định gã đã đóng quân vững vàng ở quan ải phía trước, đợi ta lâu rồi.”
(1 thước = 10 tấc, thước dài hơn tấc, nhưng thước cũng có sở đoản, mà tấc cũng có sở trường.)
“Điện hạ nói là, Lam Điền quan?”
Lam quan trấn giữ đường giao thông quan trọng ở phía Tây, là dư mạch của Tần Lĩnh. Ra khỏi cửa quan này, là ruộng đất màu mỡ của Thiểm Tây, giơ roi thúc ngựa đi một ngày nữa là tới Trường An.
Dục Thanh nhếch miệng, “Lam quan xưa nay khó hạ, nếu ngươi dùng ba tấc lưỡi mà đàm phán được, xem như là thiên cổ kỳ văn.”
Phương Đỗ Nhược chỉ cười nói: “Việc do người định, thử rồi sẽ biết.”
Dục Thanh không nói gì nữa, ánh mắt nhìn về con đường phía trước thấm đẫm sắc lạnh.
Khi đại quân tới Lam Điền quan, sắc trời còn sớm, Dục Thanh lệnh cho quân đào đất, nấu cơm, hạ trại tựa núi. Phương Đỗ Nhược muốn làm lễ với cửa quan, Dục Thanh nói hành quân cực khổ, trước hết cứ nghỉ ngơi mấy ngày cũng không sao, liền ngăn y lại.
Hôm sau, lương thảo quân nhu được vận chuyển đến, công binh bắt đầu xây dựng tháp để công thành, các doanh cần vụ cũng giúp đỡ lắp ráp pháo bắn đá và thang mây, bộ tốt thì chỉnh thương giáo, chải lông cho ngựa, dưới Lam Điền quan là cảnh tượng cả một công trường. Phương Đỗ Nhược không được nhập quan, chỉ đành phát huy sở trường chức vụ của y, chỉ điểm khắp xung quanh, khiến tiến độ nhanh hơn bình thường rất nhiều. Hai ngày sau, tháp lâu dựng xong, pháo đá an tọa, thang mây xếp sẵn, chiến lũy gia tăng. Dục Thanh ngưỡng vọng tường thành Lam quan rất lâu, mới nói với Phương Đỗ Nhược: “Nếu ngươi nhất định muốn đi, hôm nay, đi được rồi.”
Phương Đỗ Nhược cầm sứ cờ đứng trước quan ải, xin được vào, cũng có cung thủ bắn bái thiếp lên đầu cửa khẩu. Đợi hồi lâu, một góc cửa quan dành riêng cho quân cưỡi ngựa chầm chậm mở ra, một vị tướng giục ngựa ra nghênh đón.
Người đi tới nói: “Lư đại nhân mời Phương đại nhân nhập quan một mình.”
Phương Đỗ Nhược ruổi ngựa lên đằng trước, chợt nghe phía sau vang lên tiếng vó ngựa, Đạp Vân của Dục Thanh chốc lát đã tới trước cửa quan.
Vị tướng nọ thấy trong đội ngũ công thành đột ngột có người xông ra, kinh nghi rút đao, chợt nghe vị tướng quân cưỡi ngựa hoa màu đen kia cao giọng nói: “Ta là Lục hoàng tử Dục Thanh, về bẩm báo với Lư Hoành, hai quân giao chiến không liên can tới sứ thần, hẹn trước một canh giờ, để y bình yên trở lại, nếu thiếu nửa cọng tóc, ta xin thề, sẽ diệt sạch tam tộc Lam quan nhà các ngươi!”
Đã sớm nghe danh Tu La của Dục Thanh, hôm nay phải đối mặt với đôi mắt như lưỡi đao ấy, viên tướng nọ chỉ thấy toàn thân mướt mồ hôi lạnh, không dám nhiều lời, vội đưa Phương Đỗ Nhược vào cửa.
Lam Điền là cửa quan trọng yếu, kết cấu chặt chẽ, Phương Đỗ Nhược nhập quan xuống ngựa, được dẫn tới một tiểu viện nằm bên cạnh tường quan, trong viện mọi người đang chạy qua chạy lại, vẻ mặt nặng nề. Lư Hoành ngồi trên chính sảnh, thấy y đến liền đứng dậy nghênh đón: “Mấy năm không gặp, Đỗ Nhược hiền đệ vẫn khỏe chứ?”
Người dạy binh pháp cho Lư Hoành là Phương lão tướng quân, từ nhỏ gã đã quen biết Phương Đỗ Nhược, người ta nói sư môn như thân môn, luận về giao tình tất nhiên không giống với người ngoài. Phương Đỗ Nhược cúi đầu làm lễ: “Hoành huynh khỏe mạnh, tiểu đệ hữu lễ rồi.”
Lời vừa ra khỏi miệng, chỉ thấy lòng sao mà xót xa, lại đáp: “Tiểu đệ đến muộn, Hoành huynh thứ lỗi.”
Lư Hoành nói: “Hai quân giao binh, tất cả đều do họ sắp xếp, hiền đệ cũng là thân bất do kỷ.”
Phương Đỗ Nhược dành cơ hội nói luôn: “Có lẽ Hoành huynh cũng là thân bất do kỷ, nếu vốn đã không có phản tâm, vì sao lại dấy binh?”
Lư Hoành cười đáp: “Hiền đệ thông minh, cái gọi là quân bức thần phản, là thế này đây.”
“Lần này tiểu đệ phụng quân mệnh đến đây. Hoàng thượng thánh ý đã quyết, chỉ cần Hoành huynh từ đây thu binh, vì bách tính Ung Châu dừng đợt can qua này, bệ hạ nhất định giữ cho toàn gia được yên ổn.”
Lư Hoành không trực tiếp đáp lại y, chỉ hỏi: “Hiền đệ có biết bản án Mật đồ bức vua thoái vị của An Tây tướng quân Chung Thừa Ân cấu kết với phế Thái tử không?”
“Việc đó trong triều không ai không biết. Năm ấy, sau khi bại sự, Chung tướng quân giương binh đầu hành, triều đình khen gã biết quay đầu là bờ, chỉ giáng chức chứ không trảm, toàn gia chuyển tới trấn thủ biên cương, không hề tổn hại đến tính mạng bất kỳ một ai. Có tiền lệ ấy, đủ thấy lòng nhân từ của triều đình, Hoành huynh cũng không cần băn khoăn thêm nữa.”
Lư Hoành nói: “Thì ra ân sư chưa kể sự thật cho đệ biết.”
Phương Đỗ Nhược nghe lời gã nói hàm thâm ý, nhất thời không biết đáp thế nào.
“Chung Thừa Ân ấy là phụ thân thân sinh của đệ, nếu triều đình chưa từng tổn hại đến tính mạng bất kỳ một ai, vậy những thân tộc còn lại nhà đệ, bây giờ ở đâu?”
Lời này vừa nói ra, đất bằng dậy sóng, Phương Đỗ Nhược kinh hoảng không nói nên lời.
“Khi Chung gia đang trên đường tới biên cương đã bị quan quân giết sạch, bỏ thây hoang dã. Chỉ có duy anh hài chưa tròn một tuổi nọ, vị tham tướng cầm đầu nhất thời mềm lòng, đã len lén giấu đi, tham tướng ấy hôm nay là Phương Bình Cư lão tướng quân, anh hài ấy là Phương đại nhân đệ!”
“… Chuyện bí mật như thế, Hoành huynh sao mà biết được?”
“Khi ấy vì hành sự cơ mật, kẻ chủ mưu đó chỉ dám chọn mấy tên cận vệ thân tộc đắc lực nhất, cho nên gia phụ cũng ở trong quân. Nói đến đây, đệ còn không biết chủ mưu là ai?”
Phương Đỗ Nhược nhìn Lư Hoành, nghe từng từ từng chữ bật ra từ miệng gã ——
“Thất điện hạ khi ấy, là đương kim thiên tử bây giờ.”
Phương Đỗ Nhược rũ mắt, trái tim hỗn loạn sục sôi, nghe Lư Hoành nói tiếp: “Khi ấy Lư gia ta là cận thần tâm phúc bên hắn, cô mẫu ta gả vào nhà đế vương, sinh trưởng tử Dục Ninh, hai nhà trở thành nhất thể đồng tâm. Dù năm đó tình nghĩ như thế, hôm nay không cho phân bua một lời đã khởi động binh đao. Thường nói gần vua như gần cọp, mà nhi tử thiên gia nếu tâm đã mang hoàng vị, có ai lòng không như lang hổ? Hôm nay diễn lại trò cũ, dù thiên tử có bằng lòng tha, những hoàng tử có quyền có thế kia nhất định sẽ không tha cho ta, có điều, không biết ai sẽ là kẻ gây họa đây, là Tam hoàng tử hiền đức, hay là Ngự Tu La được ân sủng sâu đậm bên ngoài cửa quan kia? Lục hoàng tử hôm nay ân sâu nghĩa dày với đệ, mai kia hoàng bào khoác thân, cũng vẫn sẽ trở mặt vô tình thế thôi, lịch triều lịch đại từng ấy năm, có thấy ai kết được tình máu mủ ruột thịt với thiên tử? Hắn là con trai kẻ thù diệt tộc của đệ, đệ không giúp ta báo thù rửa hận, còn muốn ta thu binh dừng can qua?”
“Chuyện của Thái tử, không hề liên quan gì tới Lục điện hạ.”
Lư Hoành cười hỏi: “Không hề liên quan? Vậy vì sao khi thượng triều không thấy hắn đứng ra nói đỡ cho Thái tử, ngược lại tự đề bạt xuất binh, trăm dặm tới đây? Muốn ngồi trên ngai vàng thiên tử, từ trước tới nay binh quyền luôn quan trọng hơn ngọc tỉ, hiền đệ tin hắn nhường ấy, thật quá ngây thơ!”
Phương Đỗ Nhược biết Dục Thanh tự đề bạt chỉ vì muốn trì hoãn hôn sự, bây giờ không lời nào giải thích cho được, đành nói thẳng: “Hoành huynh vội vàng dấy binh, có khác nào chống đối cả thiên hạ? Giả như sau đó thất bại, nhất định tai họa sẽ giáng lên đầu quan viên bách tính Ung Châu, Hoành huynh dù không suy xét cho bản thân mình, cũng nên vì người dân Ung Châu cân nhắc một chút.”
Lư Hoành nhất thời im lặng, cuối cùng thở dài: “Bách vô nhất dụng* đúng là thư sinh! Lư Hoành ta đường đường một võ tướng, nếu chiến cũng chết, không chiến cũng chết, thay vì thúc thủ chịu trói, chẳng bằng ta khoái chí xuất trận, hoàn thành uy danh cả đời của ta! Huống hồ, đệ nói ta vội vàng dấy binh? Lư Hoành ta là ngoại thích của Thái tử, binh nhung tất nhiên đã chuẩn bị từ lâu, dù không thể nào giành được thiên hạ, nhưng cắt cứ Ung Châu cũng nào phải việc khó. Những thuộc hạ này bình thường nhận được rất nhiều ân huệ từ ta, hôm nay nhân khi cần đến người, họ sẽ gắng sức phục tùng cũng vì cái nghĩa nhân thần, về phần dân chúng, việc đã đến nước này, ta cần gì phải để tâm nữa?”
(Bách vô nhất dụng: Trăm nết chẳng được một nết, hình dung sự vô dụng.)
“… Thái thú Hàm Dương tố huynh thường xuyên xuất binh, thì ra chuyện mưu phản cũng chẳng phải oan uổng.”
“Khoan nói thân phận là ngoại thích Thái tử, dù có là bên ngoại Tam hoàng tử hay Lục hoàng tử, giả như nói chưa từng giữ cho mình một đường lui, người trong triều kẻ thiên hạ, có ai tin không?” Lư Hoành vừa nói vừa cười, “Hiền đệ bất chấp nợ máu của gia tộc, chẳng qua vì thèm muốn vinh lộc thiên gia, bây giờ nếu gia nhập dưới trướng ta, thứ thiên tử cho được, Ung Châu vương ta cũng cho được, ta với đệ là huynh đệ từ nhỏ, mọi sự dễ bàn, ý đệ thế nào đây?”
Phương Đỗ Nhược khẽ cười, “Ung Châu vương, khẩu khí của Hoành huynh lớn thật. Đỗ Nhược thân là thiên tử triều thần, kể cả Hoành huynh có tự phong mình là Thần Châu vương, Đỗ Nhược cũng không thể gia nhập.”
Lư Hoành nghe vậy tức giận: “Hiền đệ chấp mê đến nước này, tại hạ với ngươi không còn gì để nói. Chẳng qua cố nhân đường xa tới thăm, tại hạ cũng không thể thất lễ —— Người đâu! Tìm một gian phòng thượng hạng, đưa Phương đại nhân xuống nghỉ ngơi!”
Người đứng ngoài cửa nghe tiếng liền bước vào. Phương Đỗ Nhược đứng dậy, chăm chú nhìn Lư Hoành chốc lát, nâng tay vén tóc rủ trên trán, để lộ giới ba giữa hàng mày.
“Lục điện hạ từng hỏi đệ, vì sao gia phụ phải để đứa trẻ năm tuổi học cư sĩ giới, khi ấy đệ không biết, nhưng giờ đã hiểu rồi.”
Lư Hoành thấy vẻ mặt ôn hòa của y, khi nói không có lấy nửa phần làm bộ làm tịch, nhất thời ngây người.
“Gia phụ sợ sẽ có một ngày đệ biết được chân tướng, sẽ vịn vào địa vị của người mà hưng binh loạn quốc nên mới sớm từ quan, rời xa triều đình, cũng không hề dạy đệ binh pháp võ nghệ, lại dùng Sát sinh Đại giới khuyên răn đệ. Thứ Hoành huynh coi trọng thanh danh võ tướng, dã tâm địa vị, phân tách Hoa Hạ*, khiến thuộc hạ vì huynh mà vô cớ bỏ mạng, còn thứ gia phụ coi trọng, là thiên hạ thương sinh. Người chết đã chết rồi, Hoành huynh nói ta bách vô nhất dụng cũng thế, thèm muốn vinh lộc cũng được, Đỗ Nhược là người nhà Phật, làm người làm việc, chỉ lấy từ bi làm gốc. Hiện giờ chỉ mong chóng hạ Lam quan, nhanh chóng đưa bách tính Ung Châu khỏi tai họa binh đao, Đỗ Nhược thân là sứ giả, không thể không trở về phục mệnh, hôm nay từ biệt, Hoành huynh, xin huynh thứ lỗi.”
(Hoa Hạ: tên cũ của Trung Quốc.)
“Hay cho một Phương Bồ Tát,” Lư Hoành cười lạnh đứng dậy, rút đao kề lên cổ Phương Đỗ Nhược, “Ta chỉ biết ngươi bẩm tính nhu nhược, không ngờ còn cả tài ăn nói khéo léo nữa. Ngươi tự chầu trời làm Bồ Tát của ngươi đi, ta muốn xem cái đầu của Bồ Tát này, thanh cương đao của ta đây có chặt xuống được hay không!”
Tướng lĩnh đứng dưới đường ban nãy vừa đón Phương Đỗ Nhược nhập quan, thấy tình cảnh lúc này, cuống quýt nói với Lư Hoành: “Đại nhân bớt giận! Trảm sứ bất tường*!”
(Trảm sứ bất tường: Trảm sứ giả là điềm xấu.)
Lư Hoành cười với gã: “Vậy thì Vương hiền đệ không biết rồi, đừng thấy dáng vẻ thủ cựu của y mà đoán, năm ấy y đỗ Nhất giáp nhị danh* đó, đem y tế cờ, chẳng phải càng may mắn sao.” Dứt lời giơ đao muốn chém xuống. Tướng lĩnh họ Vương nọ tuy chỉ gặp Dục Thanh một lần, nhưng biết hắn là kiểu người nói được làm được, nghĩ đến bốn chữ “diệt sạch tam tộc” kia, không khỏi run rẩy, bước lên ngăn lại cánh tay Lư Hoành: “Đại nhân muốn lấy Bảng nhãn tế cờ, Ung Châu to lớn như vậy, còn lo không có sao, đừng nói chỉ là Bảng nhãn, ngay cả Trạng nguyên cũng tìm được. Nhưng trảm sứ bất tường là quy củ nghìn đời nay lưu truyền trong quân ngũ, đại nhân không sợ nhưng tiểu nhân sợ. Hôm nay chúng bày trận nghiêm ngặt ngoài quan ải, Lục hoàng tử cầm quân kia nói, nếu một canh giờ sau sứ giả không về, sẽ huy binh công thành, hơn nữa một thư sinh như vậy, với chiến cục cũng đâu ảnh hưởng gì, đại nhân cứ thả y về đi.”
(Nhất giáp nhị danh: tóm lại là top 2, đỗ Bảng Nhãn.)
Lư Hoành nghe thế thì cười: “Giả như ta có thả y về, Lục hoàng tử sẽ không công thành nữa sao? Dù không ảnh hưởng tới chiến cục, song để y ở đây dù không thể hoàn toàn giam chân Dục Thanh nhưng sẽ khiến hắn phần nào cố kỵ, âu cũng là chuyện tốt. Ngươi cứ giữ y lại, trông chừng cho tốt, chờ đến khi kỳ khai đắc thắng*, chiến cục đại định giết y cũng không muộn.”
(Kỳ khai đắc thắng: thắng ngay từ trận đầu tiên.)
Vương tướng lĩnh nghe lời áp giải Phương Đỗ Nhược xuống dưới. Dục Thanh bên này đứng đợi ngoài cửa quan, đồng hồ nước từng giọt từng giọt chảy hết một canh giờ, trong Lam Điền quan không chút động tĩnh. Dục Thanh cúi đầu cắn răng, nhắm mắt hồi lâu, cuối cùng giục ngựa quay đầu, dẫn quân về doanh.
Người trông giữ Lam Điền quan nhìn Dục Thanh rút lui, thấy khó hiểu khôn cùng, vừa thả lỏng tinh thần, vừa kinh nghi trong dạ. Cả một ngày hai quân đều vô sự, sắc trời trầm dần, nấu cơm xong thì đã tối mịt. Mấy doanh binh đóng trên tường quan đi qua đi lại tuần tra, khi hai bên sóng vai cạnh nhau, khó khỏi tán gẫu mấy câu, nhắc tới việc hình như Lư đại nhân trảm sứ giả trong chính sảnh, sắc mặt mỗi người liền tái xanh.
Hiện giờ Lư Hoành hưng binh tạo phản, đại đa số binh sĩ chịu sự quản thúc của thượng cấp bị bắt đi theo. Việc cố thủ quan ải đã khiến người ta nóng lòng không thôi, hơn nữa còn chuyện “trảm sứ bất tường” nữa, càng khiến sự bất an phủ thêm mấy tầng lên cửa quan. Tuần tra đến tảng sáng, chợt nghe đằng xa có tiếng hô giết ầm vang, chúng binh sĩ vịn tường nhìn về phía trước, dưới cửa quan không hề có một ngọn đuốc nào, tỉ mỉ lắng nghe mới phát hiện ra âm thanh đó truyền đến từ bên trong. Trong lòng mọi người hoảng loạn khó bình, ngơ ngác nhìn nhau, đột ngột có người lên tiếng: “Ta nghe người ta đồn rằng Lục hoàng tử là Minh vương giáng thế, hôm nay… chiêu hạ thiên binh xuống đây ư?”
Mọi người kinh hoảng thất thanh, có mấy người run rẩy từ đầu đến chân, bấy giờ tướng lĩnh thủ thành tìm đến, vừa kịp nghe câu này, cao giọng quát: “Thiên binh cái gì! Tất cả các ngươi chán sống rồi à! Còn không mau đi kiểm tra các nơi khác đi?”
Chúng binh sĩ lộn xộn giải tán. Tiếng hô giết nọ càng này càng lớn, quả nhiên là từ bên trong cửa quan công tới. Chư tướng thủ thành trở tay không kịp, chỉ huy thuộc quay về phòng thủ, nhất thời trong thành đại loạn. Lư Hoành nửa đêm kinh hãi, đem theo tùy tùng xông lên quan tường, tóm lấy một tướng thủ thành hỏi vội: “Chiến cục sao rồi?!”
Vị tướng nọ run giọng đáp: “Bỗng nhiên có đại quân từ trong cửa quan công tới… Binh sĩ chứng kiến nói… nói… là thiên binh!”
“Bên trong quan sao? Phía Trường An?!” Lư Hoành ngẩng đầy nhìn về chân trời đằng Tây Bắc, chợt thấy ánh lửa xung thiên, kèm theo là tiếng hô giết ầm vang như sấm, hun đỏ một nửa bầu trời đêm. Lư Hoành quyết không thể ngờ được quân đội của Dục Thanh có thể vượt qua Tần Lĩnh hiểm trở, tấn công từ phía sau, đương lúc lưỡng lự, cửa sau bạc nhược của Lam quan đã nghe thấy tiếng va đập.
Lư Hoành lệnh cho thuộc hạ toàn lực quay về phòng thủ, chính gã cũng chạy đến sau thành, đi được hơn nửa tường thành, chợt nghe sau lưng lại nổi lên tiếng hô giết, quay đầu nhìn, màn trời đằng Đông Nam cũng bừng bừng ánh lửa.
Dục Thanh nhìn đại quân sau lưng, họ đã lẳng lặng chờ đợi suốt hai canh giờ trong bóng đêm dưới Lam Điền quan, cao giọng nói: “Người đầu tiên vào thành, phong làm Thiên hộ, thưởng ngàn lượng bạc trắng.” Nói xong giục ngựa quay đầu, vung đao quát: “Khi đã vào thành, giữ lại mạng sống cho tất cả bọn chúng. Bây giờ, công!”
Phút chốc, pháo đá dưới thành bắn đi hàng loạt, tên lao như mưa, các binh sĩ đã leo lên thành lũy che chắn trận mưa tên cho những người bên dưới di chuyển thang mây về phía tường thành, tiếng hô giết rung trời. Lam Điền quan kiến thành hơn sáu trăm năm qua, lần đầu tiên để lộ nguyên hình yếu đuối rỗng tuếch như vậy, một đám quan quân trèo lên đầu thành, nô nức như cá, binh sĩ thủ thành không hề phản kích, nhao nhao chạy trốn, một vài viên tướng ra tay giết chết những thuộc hạ đang trốn thoát chạy ngang qua mình, nhưng giết chết mấy kẻ đó cũng không thể ngưng lại sự lụn bại của đoàn quân.
Dưới sự điều khiển của vài trăm binh sĩ, xe công thành tiến thẳng tới trước cửa Lam quan, trùng kích đến lần thứ chín, cửa thành bị phá, quan quân như thủy triều tràn vào thành, rất nhiều quân phòng thủ nhao nhao buông khí giới, quỳ gối hai bên đường, gần như không một ai chống cự. Khi Dục Thanh vào thành, thậm chí có những binh sĩ đầu hàng còn hô to Phật hiệu, khiến cả một khoảng trời tràn ngập âm thanh khẩn cầu.
Dục Thanh đang muốn sai người ra mở cửa sau của Lam quan, đã thấy tham tướng Tề Lăng được phái đi tập kích bên kia núi đang thúc ngựa chạy tới từ hướng con đường đối diện, khi đến trước ngựa Dục Thanh, gã ném người ngồi đằng sau xuống khỏi ngựa, rồi mới xuống ngựa thi lễ: “Mấy ngày nay chắc hẳn điện hạ đã phải chờ đợi mỏi mòn, Tề Lăng xin chúc mừng điện hạ kỳ mưu đắc thành!”
Dục Thanh nói: “Lần này thành công, đều nhờ có ngươi và thuộc hạ liều chết vượt hiểm nguy, hoàn thành sứ mạng, sau khi về kinh, ta sẽ bày tiệc đãi khánh công của các ngươi ở Hoàng tử phủ!”
Tề Lăng sang sảng cười khấu tạ, lại xách người đang bị trói dưới đất lên báo với Dục Thanh: “Điện hạ nói tòa thành đã kín kẽ, vậy phải công kích từ bên trong, tiêu hao từng ấy ngày, cũng tiêu hao từng ấy sự bình tĩnh trong thành, tên phản tặc này bị thuộc hạ của hắn bắt lại, cửa sau của Lam quan cũng do quân thủ thành tự mở.”
Dục Thanh nhìn Lư Hoành, tung người xuống ngựa, roi ngựa trong tay ngoan lệ quất tới, quát: “Phương Đỗ Nhược bây giờ ở đâu!”
Lư Hoành đã bị trói chặt tay chân, ấy mà lúc này gã vẫn tươi cười, nghiêng ngả trên đất ngước nhìn đôi mắt Dục Thanh: “Ngươi vừa xuất binh đã thẳng tay công thành, bây giờ còn để tâm đến sự sống chết của y sao? Ta thì lại chẳng có lòng tốt như ngươi —— “
Dục Thanh giơ roi quất mù một con mắt của gã, quát lên với thuộc hạ: “Treo gã lên lột da cho ta! Dù… dù người đã chết rồi, cũng phải bắt gã khai ra y chết ở đâu!
Tề Lăng nhìn vẻ cuồng loạn ngồn ngộn trong con ngươi Dục Thanh, vội vã nắm lấy cánh tay hắn, kéo sang một bên nói: “Điện hạ, tên này bản lĩnh không lớn nhưng xương thì cứng lắm, gã nói như thế để chọc tức điện hạ, điện hạ chớ trúng mưu kế của gã mà tức giận hại sức khỏe. Theo thuộc hạ thấy, chúng ta bất ngờ đánh úp như vậy, Lư Hoành giữ thành còn chẳng kịp, làm gì có lòng dạ đi giết người nữa. Thuộc hạ sẽ phái người đi tìm, Lam quan thành lớn nhường này, không thể nhất thời mà tìm ra được.”
Dục Thanh đưa tay ấn vào mi tâm, nhẹ nhàng gật đầu, nhìn Tề Lăng đi thu xếp, tự hắn cũng xoay người lên ngựa, chỉ huy mấy thân binh bước vào cửa quan. Vội vàng tìm mấy gian phòng, chợt nghe phía hậu viện hét lớn, trong chấp sự phòng có người. Dục Thanh chạy vội sang, thân binh đứng ngoài cửa cuống cuồng nhường đường, Dục Thanh đoạt lấy cây đuốc bước vào phòng, thư sinh mảnh khảnh bị trói chặt tay chân đang nằm trong góc giường nhìn về phía hắn kia không phải Phương Đỗ Nhược thì còn ai vào đây nữa. Trong phút chốc, Dục Thanh thấy uất ức tới mức muốn rơi lệ, quay đầu nói với thân binh đứng sau: “Truyền lệnh, đồ thành*.”
(Đồ thành: tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành.)
Thân binh nọ quay người rời đi, Phương Đỗ Nhược mở miệng muốn nói, nhưng một ngày một đêm không ăn không uống, yết hầu đau buốt như bốc cháy, chỉ miễn cưỡng thốt được vài lời: “Điện hạ… Đừng…”
Dục Thanh cắm đuốc lên giá đèn, bước lên cởi dây trói trên người cho y, Phương Đỗ Nhược khàn giọng gọi hắn, Dục Thanh không hề đáp lại. Ngoài viện đã lầm rầm truyền đến tiếng khóc thét, hai tay Phương Đỗ Nhược được tự do, bám lấy hai vai Dục Thanh, vội vàng nói: “Điện hạ… Dục Thanh, tha cho mọi người trong thành đi, đừng vì tôi tạo thêm sát nghiệp, Dục Thanh!”
Dục Thanh giơ tay nâng lên gương mặt Phương Đỗ Nhược, nhìn trân trân vào hai mắt y, yên lặng chốc lát rồi tiến lại gần, đưa lưỡi nhẹ nhàng liếm đôi môi khô khốc của y. Lời khẩn cầu của Phương Đỗ Nhược bị chặn lại nơi yết hầu, kinh hãi lui ra sau né tránh, nhưng bị Dục Thanh kiềm chặt bả vai, kề sát ngực hắn. Dục Thanh chậm rãi hôn y, một lát sau tăng thêm lực trên tay, đè y ngã lên giường, chính hắn cũng nằm xuống theo, nghiêng người tựa vào, xiết chặt y trong lòng.
“Nếu ngươi thiếu đi nửa sợi tóc, nhất định sẽ diệt sạch tam tộc trong Lam quan. Lời Dục Thanh ta nói, chưa bao giờ coi như không tính cả.”
Hắn như một đứa trẻ bị hoảng sợ, cúi đầu chôn mặt trong lòng Phương Đỗ Nhược, vừa nói vừa run rẩy.
“Vậy Đỗ Nhược cũng không sống thêm được nữa.”
Nghe tiếng bội đao rút khỏi vỏ, Dục Thanh nghiêng đầu. Cổ tay Phương Đỗ Nhược đặt trên phần lưỡi đao lộ khỏi vỏ, tơ máu nồng đậm chậm rãi chạy dọc theo thân đao.
Dục Thanh ghì lại chuôi dao, nâng tay đè chặt mạch máu trên cổ tay Phương Đỗ Nhược, cầm máu cho y, sau đó ngồi dậy khỏi giường, nhìn bầu trời ngoài song đã gần bạc màu, giọng nói hơi run: “Nhắm mắt lại, ta đưa ngươi ra ngoài… Hạ lệnh dừng tay.”
Phương Đỗ Nhược nhắm mắt, đứng dậy từ sau lưng hắn, nhẹ nhàng đặt một cánh tay lên vai Dục Thanh, ghé vào bên tai hắn, nói: “Được rồi, đừng sợ. Sau này dù ngài không đuổi tôi, tôi cũng không đi nữa đâu.”
“Tam điện hạ đi thăm Thái tử rồi?” Thượng thư Hình bộ Tống Ân Khu bước tới ngồi xuống bên hiên nhà chính sảnh của Đại Lý tự, hỏi Việt Lâm Xuyên đang ngồi trước án xem hồ sơ.
Việt Lâm Xuyên đứng dậy thi lễ: “Vừa mới vào đó thôi, vẫn chưa ra.”
“Người ta bảo thiên uy khó dò, thật ra tâm tư vị hoàng tử này cũng đâu dễ đoán, đáng lý ra, Lư Hoành binh bại, mà tấu chương của Phương Đỗ Nhược cũng viết thế này, tội mưu phản đã định, Thái tử nhất định chẳng thể trở mình được nữa, Tam điện hạ còn đi thăm hắn, để làm gì chứ?”
Việt Lâm Xuyên cười, “Đó chính là điểm khác nhau giữa Tam hoàng tử và những hoàng tử bình thường khác.”
“Làm cho…” Tống Ân Khi nhớ tới vẫn còn Lục Diệu Am ở đó, hạ giọng, “Làm cho Thánh thượng xem? Đây đúng là nước cờ hiểm, ngộ nhỡ Hoàng thượng nghi ngờ điện hạ là đồng lõa với Thái tử, chẳng phải mọi chuyện đổ bể hết sao?”
Bấy giờ Lục Diệu Am cầm mấy bản điều trần bước ra từ trong phòng, đúng lúc nghe được. Y làm lễ với Tống Ân Khu, nói: “Có lòng hiếu kính là nhân chi thường tình, nếu lấy công danh lợi lộc ra mà đo đếm, e rằng lầm lỡ bản ý của điện hạ.”
Tống Ân Khu biết Lục Diệu Am tuy là bè cánh của Tam hoàng tử, nhưng lại không dính dáng quá sâu với đại cuộc, vì thế chỉ cười cho qua.
Việt Lâm Xuyên thấy Tống Ân Khi không đồng ý, nói với gã: “Lời ấy của Lục đại nhân cũng không phải là không có đạo lý. Những nhân chi thường tình này bây giờ đặt trên người Tam hoàng tử sẽ hơi bất bình thường. Theo ý hạ quan, Tống đại nhân không nên lo lắng, tâm tư Tam hoàng tử khó đoán cũng chẳng phải chuyện gì xấu, nếu chuyện gì cũng án theo lẽ thường mà đoán ra, thì làm sao kham được xưng hào quân chủ.”
Lục Diệu Am nghe thấy quát lên: “Nói bậy gì thế, nếu có người vô tình nghe được, sẽ lại hại oan Tam điện hạ cái danh bất nghĩa!”
Việt Lâm Xuyên chớp chớp mắt nhìn Tống Ân Khu, quay sang Lục Diệu Am, đáp: “Lục đại nhân lo lắng nhiều rồi, nếu để người ngoài nghe được nửa câu trong Đại Lý tự này thì quan giám ngục chúng ta đây cắt hết lưỡi mình cho chó ăn được rồi đấy.”
Lục Diệu Am thấy Việt Lâm Xuyên nói một câu vô lễ như vậy mà còn kéo theo cả Tống Ân Khu vào, bỗng thấy xấu hổ, mà Tống Ân Khu chỉ lắc đầu cười, dường như đã quen với cái kiểu nói năng chả nể nang ai như vậy rồi. Lục Diệu Am đành phải chuyển đề tài khác, nói: “Bây giờ Tam pháp ti đều tề tựu cả, vụ án của Thái tử thẩm tra thế nào, chúng ta vẫn cần phải thương nghị cẩn thận.”
Tống Ân Khi nói: “Bây giờ Lư Hoành bên kia có chứng cứ xác đáng, song Thái tử bên này lại chỉ có mật tín làm bằng chứng. Tuy ở trên triều Hoàng thượng có nói mấy câu như không hợp lễ pháp, nhưng câu ‘chủ mưu phạm thượng’ vẫn còn kém xa lắm. Chuyện lấy chứng cớ, cần phải bàn bạc kỹ hơn.”
Việt Lâm Xuyên nghe trong lời Tống Ân Khu có thâm ý, nhẹ nhàng gật đầu, lại nghe Lục Diệu Am nói: “Tống đại nhân nói rất đúng, hạ quan đã xem qua mấy phong thư mật làm bằng chứng kia rồi, quả thật trong đó cũng không có ngôn từ ngỗ nghịch gì cả, tôi đang định viết tấu chương, ngày mai thượng triều sẽ giải thích với Hoàng thượng.”
Việt Lâm Xuyên nhất thời kinh hãi, cao giọng nói: “Tuyệt đối không thể được! Tố cáo là người, khuyên giải cũng là người, không muốn sống nữa sao!”
Lục Diệu Am đang định biện bạch, Tống Ân Khu đã đẩy chung trà trên bàn đến trước mặt y, cười bảo: “Từ xưa đến nay ngôn quan đã chẳng biết tiếc mạng, hôm nay rốt cuộc tại hạ cũng được chứng kiến rồi. Ta nói Lục đại nhân này, ngỗ nghịch là việc nhà, Hoàng thượng là cha ruột của Thái tử, Hoàng thượng nói là ngỗ nghịch, những người ngoài như chúng ta đây còn có thể nói thêm gì nữa? Có câu, nói được nhi tử của bách tính, còn nhi tử của thiên gia cả đời không thể nói, dù muốn nói, cũng không thể là người bên ngoài nói, càng không thể dùng giấy trắng mực đen mà viết rõ ràng được. Đạo lý này Thái tử không hiểu, nhưng ta với Việt đại nhân nhiều năm bươn trải trong đống hồ sơ tài liệu này cũng hiểu được nhiều lắm, Lục đại nhân tin ta một câu, muốn dâng tấu khuyên can, chỉ rước về tai vạ mà thôi.”
Lục Diệu Am không lời nào biện giải được, nhìn về phía Việt Lâm Xuyên một lúc, cúi đầu im lặng. Tống Ân Khu nói tiếp: “Tuy nói tội danh đã định, nhưng những chứng cứ khẩu cung này chung quy vẫn thiếu chút thị phi. Danh tiếng của Thái tử bây giờ vẫn còn, phạt không phạt được, chỉ có thể, tịch thu.”
Gia sản của Thái tử lớn như thế, còn phải lo không tịch thu được chút bằng chứng thật thật giả giả nào sao? Việt Lâm Xuyên và Tống Ân Khu bốn mắt nhìn nhau, trong lòng hiểu rõ.
Ngày Tam điện hạ thượng đài, sẽ chẳng còn xa nữa.