Mê Tông Chi Quốc

Chương 94: cách vỏ trái đất mười ngàn mét - hồi một: kình thép






Tư Mã Khôi nhìn bức tường bắt đầu phân rã, bèn bảo Thắng Hương Lân leo sang mặt bên cạnh lẩn trốn. Hai người soi đèn quặng xuống dưới, thấy sàn căn phòng xoáy lún giống như con quay, tất cả vật chất đều bị không động phân giải thần tốc, khoang bảo mật dưới đáy hố không tồn tại nữa, chỉ còn mẩu lõi đá giống như xác ve khô, to như cái cối xay. Nó đang ùng ục chảy ra thứ nước màu vàng. Ven rìa hố sụt lún là cơn lốc bụi đen mịt mùng cuốn như hốc xoáy. Cảnh tượng này rất giống với hố bom hạt nhân được hình thành sau khi phát nổ.



Tư Mã Khôi thầm thất kinh, anh hỏi Thắng Hương Lân: “Tôi chỉ nghe nói trong thế gian có ‘thực’, nhưng không biết rơi vào ‘vùng thực’ sẽ có kết quả gì? Tôi thấy tình hình bây giờ dường như không phù họp với định luật vật chất lắm thì phải.”



Thắng Hương Lân đáp: “Mật độ trong không động chỉ bằng 1/25 môi trường bình thường; nếu vật chất là chân thực, thì không động giống như hư vô phủ xóa chân thực, rơi xuống đó còn có thể có kết quả gì được nữa chứ?”



Thực ra ngay cả giáo sư Nông địa cầu cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy không động, cho nên nhận thức của Thắng Hương Lân đối với nó cũng dừng lại ở bề mặt lý luận mà thôi. Chỉ biết địa hài là loại vật chất đặc biệt, giá trị lớn nhất của hoạt động điện thần kinh trong cơ thể nó có thể lên tới mười mấy vôn, trong khi điện áp tế bào não người bình thường là 0,07 vôn, còn viên nhục ngọc giấu trên cơ thể gã Điền Khắc Cường – lại được nhiều đời biệt bảo nuôi dưỡng hàng ngàn năm, thì không thể luận bàn theo lẽ thường được.



Nên một khi hút luồng điện của nó, thì cơ thể địa hài sẽ xảy ra hiện tượng điện mức vượt quá phụ tải, dẫn đến việc ăn mòn không gian xung quanh, đồng thời ăn mòn cả chính nó; mãi cho đến khi lõi đá – giống như xác ve ấy, phân giải triệt để, thì toàn bộ quá trình ăn mòn mới dừng lại. Nhưng địa hài vốn là thứ còn sót lại từ khi thiên địa còn chưa phân chia rõ rệt, mật độ của nó lớn đến khiếp người, trong khi tốc độ phân rã trong không động lại diễn ra chậm hơn tốc độ phân giải của vật chất phổ thông ở môi trường bình thường rất nhiều, nên đợi nó hoàn toàn biến mất thì cả trạm thám trắc trung tâm, được làm bằng bê tông cốt thép này cũng bị xóa số triệt để khỏi thực tại.



Tốc độ ăn mòn của không động càng lúc càng nhanh, hai người chưa kịp nói thêm câu gì, chỉ không ngừng di chuyển sang khu vực an toàn hơn, bỗng họ chợt cảm thấy một lực hút rất mạnh, hút chặt hai người xuống dưới, nhưng bên tai vẫn hoàn toàn yên ắng, dường như không một âm thanh nào tồn tại trong không động vậy, hai người dựng đứng chân tóc, tay chân bắt đầu mềm nhũn.




Tư Mã Khôi định liều mình một phen, anh quay sang nói với Thắng Hương Lân: “Cho dù bây giờ chúng ta có tìm thấy cửa ra của nhà kho, thì e rằng cũng không kịp rút khỏi trạm thám trắc trung tâm nữa rồi. Nghe nói, ‘thực’ xuất hiện theo hình xoắn ốc, càng tiếp cận gần khu vực trung tâm thì lại càng an toàn. Tôi thấy phần chính giữa không động không có sương đen…”



Chưa đợi Tư Mã Khôi nói xong, Thắng Hương Lân đã hiểu ý, cô vội can ngăn: “Anh không thể xuống đó được, vì chỉ cần chạm vào nó sẽ lập tức mất sóng não, và trở thành một cái xác vô tri giác.”



Tư Mã Khôi nói: “Cái thứ này cũng không phải không có nhược điểm gì, chẳng qua cũng chỉ biết hút luồng điện sinh vật thôi mà. Lúc đầu, người Liên Xô vẫn có thể đào nó ra khỏi tầng quặng rừng rậm than đá đấy thôi!” – Anh càng nghĩ càng căm hận: “Tiên sư tám đời thằng Điền Khắc Cường, nó dám bắt ông Khôi trở thành thằng trộm vô văn hóa, bố mày tuy chưa đi học ngày nào, nhưng cũng biết thế nào là vật cách điện đấy.”



Năm đó, lúc Tư Mã Khôi còn ở Miến Điện, cũng chính là thời kỳ chiến tranh Việt Nam đang diễn ra ác liệt nhất, ngồi bất cứ chỗ nào có thể nghe được tình hình chiến sự ở Việt Nam, trong đó có một câu chuyện rất ly kỳ. Chuyện đồn rằng: người Mỹ khi đó rất hứng thú với vật thể lạ bay, không chỉ chính phủ và quân đội rất quan tâm đến nó, mà ngay cả thường dân bách tính cũng rất thích bàn luận về chủ đề này. Họ đều cho rằng UFO thường xuất hiện vào ban đêm, chuyên bắt cóc những công dân Mỹ vô tội về hành tinh của chúng để làm thí nghiệm – có lẽ người Mỹ cũng thích buôn chuyện ồn ào, và kết quả là tin đồn thổi bùng lên khắp nơi, rất nhiều người tin đĩa bay có thật bèn nghĩ cách bảo vệ bản thân.



Ví dụ như họ đội thiết bị che chắn trên đầu để UFO không do thám được sóng điện não của mình đang hoạt động. Thậm chí quân Mỹ tác chiến ở Việt Nam, còn tin rằng tình huống này thường xuyên xảy ra, bởi vậy bọn họ không quản ngại thời tiết nóng ẩm oi bức, mà thường lót thêm giấy thiếc cách điện bên trong mũ, để đề phòng sự tấn công của một thế lực mà họ cho là còn khó đối phó hơn cả bộ đội Việt Nam, đó là người ngoài hành tinh. Tất cả những câu chuyện xuất quỷ nhập thần, huyễn hoặc tà mị đó, rất khó nói rốt cục chuyện nào là thật, chuyện nào là giả. Có điều, thiết bị che chắn sóng não – mà người Mỹ sử dụng, cũng không phải những chất cách điện phổ thông. Lúc trước Tư Mã Khôi đã giở hồ sơ sự cố trong mật thất, phát hiện số người bị chết não bất ngờ trong rừng rậm than đá cũng chỉ có một nhóm duy nhất mà thôi. Người Liên Xô chắc chắn đã áp dụng biện pháp đặc biệt nào đó, mới có thể khai quật thành công con yêu quái trong tầng quặng; biện pháp ấy rất có khả năng chính là lợi dụng thiết bị phòng chống hóa chất để cách điện một cách hiệu quả.



Tư Mã Khôi mò mẫm lôi thiết bị máy thở chống hóa chất kiểu mang cá mập trong ba lô ra, thầm nghĩ: “Có thằng cha này chụp lên đầu, có lẽ sẽ phát huy được tác dụng cách ly sóng điện.”



Thắng Hương Lân níu Tư Mã Khôi nói: “Anh đừng cố, nếu chưa chắc chắn. Địa hài là vật chất cổ đại xuất hiện từ niên đại trước đây, đã trải qua vô số đại nạn đại kiếp trời tru đất diệt, thủy hỏa đều không thể xâm hại được nó, thì sau khi anh xuống đó hiện sẽ diệt nó bằng cách nào? Huống hồ, tuy năng lượng điểm trung tâm của không động tương đối yếu, nhưng lại có một lực hút vô hình rất khủng khiếp, nhất định dưới đáy của nó sẽ hình thành giếng trọng lực, cơ thể bằng da bằng thịt như chúng ta thì làm sao có thể chịu đựng được?”



Lúc này, một cái giá thép rất lớn đang đứng sừng sững trên mặt đất, bỗng đổ rầm xuống bức tường. Tư Mã Khôi nghe hơi gió dữ sau lưng, vội vàng né sang bên cạnh. Cùng với độ nghiêng của giá thép chứa đầy tiêu bản lõi đá khoáng vật, những hòn đá đựng bên trong cũng rào rào rơi xuống, trong đó có một tầng đựng mấy lõi đá tinh thể – do thể tích quá lớn, nên bị mắc kẹt ở mé góc rìa. Dường như Thắng Hương Lân phát hiện ra điều gì đó, nên cô bất chấp cái giá sắt có thể bị hút xuống đáy động bất cứ lúc nào, bèn trèo từ trên tường xuống dưới, nhoài người nhặt lấy một viên kết tinh khoáng vật không màu, trông khá to. Tư Mã Khôi thông thạo thuộc tính vật chất, anh vừa nhìn đã biết ngay đó là hàn the, được khai quật trong địa tầng, nó rất thường gặp ở địa tầng khu vực lòng hồ khô cạn. Anh nghĩ thầm, sắp chết đến nơi rồi mà cô nàng còn xả thân nhặt mấy viên tiêu bản khoáng vật làm gì không biết?



Nhưng liền đó nghĩ lại, anh lập tức hiểu ra: hàn the gặp nước sẽ tạo thành a xít đậm đặc, có thể thúc đẩy tốc độ phân rã của địa hài, đồng thời ngăn chặn sự ăn mòn của không động ra bốn phía xung quanh. Anh vội chạy đến giúp cô một tay. Hai người dựa vào vách tường, dùng chân đạp cái giá sắt nặng trịch ra ngoài, mấy viên hàn the thuận thế rơi xuống vùng trung tâm không động đang bị sương đen bao vây. Trong khoảnh khắc, mấy viên hàn the đã hòa tan vào dòng nước vàng dưới đáy động. Địa hài giống như xác ve khô, phân rã cực nhanh dưới tác dụng ăn mòn của axít bôric nồng độ đậm đặc, nên chẳng bao lâu, khối đá chỉ còn lại khúc bé tẹo như ruột côn trùng. Cùng với sự biến mất của không động, cơn lốc bụi đen ở gần đó cũng từ từ tản đi, diện mạo mặt sàn căn phòng hoàn toàn bị hủy hoại, giờ đây đã nối thông với tầng đáy của trạm thám trắc trung tâm, tạo ra một cái hố khổng lồ hình xoắn ốc, bê tông cốt thép bốn phía xung quanh đều méo mó biến dạng.



Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân lau mồ hôi lạnh trên trán, lòng thầm hiểu: lần này đúng là nguy hiểm đến cực điểm, nếu không kịp thời phát hiện ra hàn the, thì cùng lắm cũng chỉ mấy chục giây nữa, tất cả sẽ bị không động hư vô nuốt chửng. Hai người càng nghĩ càng khiếp đảm, vì nếu gã Điền Khắc Cường cứ lẩn vào khoang bảo mật, rồi lặng lẽ ra tay, thì có khi mọi người chết cũng không biết vì sao mình chết; may nhờ tâm lý lệch lạc của gã dị hình đó trước lúc lâm chung, lại cứ muốn mọi người phải lý giải được sự hy sinh của hắn vĩ đại đến nhường nào, nếu không hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi.




Tư Mã Khôi vốn hơi e ngại việc giáo sư Nông địa câu cho Thắng Hương Lân gia nhập đội thám hiểm, vì người xưa thường có câu: “Ba quân mà có đàn bà, quân uy bất vượng họa đà kéo theo”. Tuy đây chỉ là quan niệm cũ, nhưng Tư Mã Khôi cứ thấy Thắng Hương Lân chẳng qua chỉ là cô nhân viên trắc họa, đã không có y thuật cao minh như Tuyệt thì thôi, lại cũng không phải hạng giặc đất trộm mộ giống Ngọc Phi Yến, nên cho cô đi theo bên mình chỉ tổ rước nợ vào thân. Thế nhưng trải qua tình cảnh thập tử nhất sinh vừa rồi, anh mới cảm thấy tầm hiểu biết của mình chưa chắc đã nhiều hơn người ta bao nhiêu, thậm chí có mặt còn thua xa, thế là anh bảo Thắng Hương Lân: “Bận này trở về nhà, tôi phải hiệu triệu hội Hải ngọng tích cực học tập theo tấm gương của cô, tranh thủ đẩy phong trào ‘Học tập, thi đua, đuổi kịp, giúp đỡ, vượt qua’(1) lên một tầm cao mới”.



(1) “Học tập, thi đua, đuổi kịp, giúp đỡ, vượt qua”: là khẩu hiệu do nhà nước Trung Quốc đề ra vào đầu những năm 60, được đăng trên tờ Thạch Hóa. Khẩu hiệu này đã dấy lên cao trào mới trong thi đua lao động của nhân dân cả nước.



Thắng Hương Lân lại cho rằng: kiểu người như Tư Mã Khôi, tuy rằng thân thủ đảm khí đều phi phàm nhưng phẩm chất và tư tưởng thì có vấn đề nặng, thích khua môi múa mép làm lệch lạc sự thật, ai mà biết được lúc này anh ta lại nghĩ ra trò quỷ gì nữa, bởi vậy cô không thèm để ý đến lời anh vừa nói.



Hai người lo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng gặp phải nguy hiểm, nên chỉ dừng lại thở dốc một lúc rồi vội tìm khe nứt giữa các dầm hộp xi măng, trèo ra khỏi căn phòng chứa tiêu bản. Khi lên đến gần phòng cung ứng điện ở tầng thượng, Tư Mã Khôi mới phát hiện hai người đó căn bản không hề hay biết sự cố vừa xảy ra ở tầng dưới, họ vẫn đang cắm cúi bên cỗ máy phát điện cấu hình Desire của Liên Xô. Hải ngọng tự nhận mình lành nghề, nhưng không ngờ lợn càng chữa càng què, thấy Tư Mã Khôi quay lại, bèn thoái thác nói: lúc trước tính toán không chu toàn, bây giờ mới thấy chí ít cũng phải mất năm tiếng nữa, mới khôi phục được hệ thống điện. Nhân lúc Tư Mã Khôi ra xem xét máy phát điện, anh quay sang thì thầm to nhỏ hỏi Thắng Hương Lân: “Sao hai người đi đâu mà lâu dữ vậy, thằng ôn Khôi có giở trò đồi bại gì ra với cô không? Nếu cô bị nó bắt nạt, thì cứ nói với anh Hải đây, thằng anh này sẽ đứng ra lo liệu cho cô”.



Thắng Hương Lân đáp: “Cảm tạ sự nhắc nhở của anh vô cùng, nhưng nhân dân quần chúng bọn tôi đã sớm nhìn thấu bộ mặt phản động xấu xa tàn ác của anh Khôi từ lâu rồi”. Sau đó, cô thuật lại cảnh ngộ vừa gặp ở tầng dưới cho Hải ngọng và Lưu Giang Hà nghe một lượt, đồng thời đưa cho Lưu Giang Hà tập bảng kê điện mật đã bị cháy rụi mất một nửa, và hỏi: “Anh Khôi nói: có thể anh hiểu được mật mã liên lạc của lực lượng vũ trang Liên Xô những năm 50, vậy anh thử đọc xem có giải mã được không?”. Đội trưởng Lưu Giang Hà trước đây chưa bao giờ tiếp xúc với lĩnh vực này, nhưng trước khi tiếp nhận nhiệm vụ



thám trắc kính viễn vọng Lopnor, anh chàng cũng đã tham gia khóa huấn luyện tăng cường hai tháng, tuy chỉ thuộc dạng “lâm trận mới mài gươm”, nhưng cũng coi là đã có sự chuẩn bị. Anh lập tức lôi một bản tài liệu và cây bút trong người ra, dưới ánh đèn quặng, chăm chú dịch từng chữ một trong tập bảng kê điện mật còn sót lại.



Hải ngọng nghe kể dây dẫn điện ngầm đã bị không động phá hủy, thì biết máy phát điện có hồi phục lại cũng vô tác dụng, nên mặc kệ không làm nữa mà ngồi xuống bàn luận bước hành động tiếp theo cùng Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân.



Tư Mã Khôi nói: “Tên ‘Căn phòng số 86’ bây giờ đã tiêu tan cả hài cốt, nên cuối cùng chúng ta cũng giải quyết được mối hiểm họa lớn nhất. Nhưng nhân viên mà Nấm mồ xanh cử đến liệu có phải chỉ có một mình gã Điền Khắc Cường hay không, thì chúng ta khó có thể phán đoán được, nói không chừng, kẻ địch tiếp theo sắp xuất hiện rồi cũng nên. Những nguy hiểm còn chưa biết vẫn tồn tại ở mọi chỗ mọi nơi, lần này thoát hiếm thực sự là dựa vào may mắn, nhưng lần sau chưa chắc đã gặp vận đỏ như vậy được đâu.”



Hải ngọng nói: “Thế thì chúng ta càng không được mài sắc nhuệ khí của kẻ địch mà tự triệt uy phong của chính mình. Tớ thấy gã Điền Khắc Cường đó cũng chẳng có gì đáng gọi là quái dị cả. Năm đó, ở lâm trường núi Đông Bắc, từng có một gã thân hình rất khôi ngô tuấn tú đến đó làm công nhân đốn gỗ. Lúc thường anh ta vẫn cùng mọi người lao động, ăn uống, xuống sông tắm táp, chẳng khác gì người thường cả, chỉ duy có điều là ban đêm rất hay nói mê sảng. Trong trại gỗ, mỗi giường phải có bảy tám người ngủ chung, nửa đêm tối lửa tắt đèn, thì mọi người phải nghe một mình anh ta nói lảm nhảm luôn mồm, không ai hiểu anh ta nói gì, giống như bị ma nhập vậy, người nào cũng sợ hết vía, vả lại cho dù có bịt miệng, thì giọng nói cũng vẫn phát ra.



Sau này mọi người mới tá hỏa, thì ra sau gáy gã đó còn có một cái đầu nhỏ, nó trốn biệt trong đám tóc. Nó có tóc xanh đen, mày thanh tú, trông cũng khá được mắt; hơn nữa trong mắt có con ngươi, trong miệng có lưỡi đàng hoàng. Ban ngày cái đầu to tỉnh táo thì cái đầu nhỏ đi ngủ, đêm đến cái đầu nhỏ mới mở mắt há miệng lảm nhà lảm nhảm nói chuyện. Trước đó, gã đó hoàn toàn không hề hay biết gì về điều này, cuối cùng anh ta tìm một thầy lang lấy que sắt nung làm nó bỏng chết, từ đó không còn xảy ra chuyện gì quái lạ nữa. Gã đó cũng đâu khác gã Điền Khắc Cường là mấy?”



Tư Mã Khôi nói: “Tiên sư nhà cậu, giống với khác cái gì; thằng cha ‘Căn phòng số 86’ chẳng qua chỉ là một đặc vụ của Nấm mồ xanh được cài vào phân đội vật lý thăm dò thôi, thế mà chúng ta không những không thể vạch trần được thủ đoạn của gã, lại còn bị đánh cho thua to lỗ nặng. Tuy cách hành sự của gã rất quái dị, nhưng gã rốt cục vẫn là người sống, còn kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh thì tinh ranh như yêu quái, hoàn toàn khác với Căn phòng số 86. Chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm trước đây, để phán đoán những nguy hiểm có khả năng sẽ gặp sau này.




Bây giờ đã không phục hồi được máy phát điện, cũng không rõ tình hình cụ thể ở nơi sâu nhất dưới kính viễn vọng Lopnor, chỉ biết cực vực là huyệt động ở giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, có lẽ nó nằm xung quanh đâu đấy, vị trí… cái gì mà điểm gián đoạn Moho, còn mọi tình trạng xảy ra trong lòng nó đến giờ vẫn là một ẩn số lớn. Chuyện hai mươi hai thành viên đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích một cách thần bí dưới lòng đất vào năm đó, và cả chuyện cứ cách 48 tiếng lại xảy ra một lần chấn động dữ dội, thì chúng ta đều chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Nhưng cho dù kính viễn vọng Lopnor có thông xuống địa ngục chăng nữa, thì chúng ta vẫn phải liều mình xuống đó thăm dò cho rõ mới được.”



Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà nói với Tư Mã Khôi: bảng kê điện mật bị cháy không còn nguyên vẹn, hơn nữa lại là loại ám ngữ mật kép, phải mang về hậu phương đưa cho các chuyên gia thì mới có thể phân tích nội dung toàn vẹn. Hiện giờ, em chỉ giải mã được một câu liên tục xuất hiện nhiều lần trong văn bản, đó là: “Dưới lòng đất không có chùm sáng”.



Hải ngọng nói: “Chú em đừng nói nhảm nữa! Dưới lòng đất đến một tia sáng còn chẳng có, chứ nói gì đến cả chùm sáng”.



Tư Mã Khôi phát hiện sắc mặt Lưu Giang Hà có vẻ khác lạ, bèn chặn Hải ngọng lại, hỏi tiếp: “Có phải chú em biết chuyện gì mà bọn anh chưa biết không?”



Đội trưởng Lưu Giang Hà chần chừ mãi mới ấp úng nói: “Chùm sáng khả năng… khả năng là… của bọn Liên Xô.”



Tư Mã Khôi tiếp tục gạn hỏi, mới phát hiện: anh chàng liên lạc quèn như Lưu Giang Hà không ngờ còn biết cả việc tàu ngầm động cơ diesel 615-Z số hiệu 107 của hải quân Liên Xô đã mang hai trái tên lửa ngầm R-19 ra biển vào cuối năm 1953; đồng thời vì thiết bị bánh lái hỏng hóc, nên sau khi ra khơi nó đã biến mất một cách hết sức kỳ lạ. Quân đội Liên Xô đã cố công tìm kiếm, nhưng vẫn vô hiệu. Con cá kình bằng thép đó là chi đội tàu ngầm thứ 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, khả năng chạy liên tục trên biển là 11 ngàn hải lý, có thể lặn sâu 200 mét, động cơ chính gồm ba bộ động cơ diesel P37-D mỗi bộ 6000 mã lực, lượng thoát nước dưới mặt nước là 2475 tấn trên mặt nước là 1952 tấn, chiều dài 91 mét, chiều rộng 7,5 mét, kể cả thuyền trưởng thì trên tàu có tất cả 72 thành viên, trong trạng thái độc lập hoàn toàn, sức duy trì có thể kéo dài đến 53 ngày.



Tên lửa ngầm do cục UKB-17 thiết kế, có mã hiệu Sunshine, nghĩa là chùm sáng, là hệ thống trợ lực bắn đạn đạo. Vào những năm 50, loại tên lửa này vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, thuộc hàng cơ mật quân sự cao độ. Tuy người Liên Xô luôn chiếm vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này, nhưng cùng với thời gian, loại tên lửa ngầm này đã nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cuộc chạy đua vũ khí chiến tranh đầy ác liệt.



Năm 1955, phía Liên Xô căn cứ vào tin tình báo nhận được từ một số nguồn kênh đặc biệt, cho rằng tàu ngầm Z-615 bị mất tích có khả năng nằm dưới huyệt động kính viễn vọng Lopnor, nên hy vọng được hợp tác với phía Trung Quốc đã tiến hành khoan đào khai quật, thứ nhất là mong tìm thấy tên lửa ngầm, thứ hai là muốn thăm dò kết cấu địa chất thần bí trong cực vực. Điều kiện họ đưa ra là cung cấp toàn bộ thiết bị và đội ngũ chuyên gia, đồng thời trao đổi với phía Trung Quốc những kỹ thuật quan trọng, nhưng đoàn chuyên gia Liên Xô chưa tìm thấy mục tiêu đã định thì đã đột ngột rút về nước vào cuối năm 1958, động đạo kính viễn vọng Lopnor đã bị phá hủy.



Kỳ thực, về mặt lý luận, cho dù lòng đất và đáy biển có thông nhau, thì chiếc tàu ngầm chỉ có động lực động cơ diesel Z-615, duy trì mức 11 ngàn hải lý, căn bản không thể xuất hiện trong lòng cực vực được. Phía Liên Xô chỉ căn cứ vào một số tin tình báo mơ hồ để đưa ra phán đoán, hơn nữa sự thật cuối cùng cũng chứng minh: đây là một phán đoán hoàn toàn sai lầm. Nhưng đến tận lúc này, ngoại trừ đội khảo sát liên hợp Liên Trung đã mất tích ra, thì chưa một ai tận mắt nhìn thấy: rốt cục trong cực vực Lopnor tồn tại thứ gì.