Mê Tông Chi Quốc

Chương 91: Hồi bảy: sự hi sinh vĩ đại vì mục đích vĩ đại






Thắng Hương Lân hiếu kỳ, bèn lên trước ghé mắt vào xem, cô cũng cảm thấy kỳ lạ đến mức dựng cả tóc gáy lên. Trong bóng tối dường như đúng là có một sinh vật đáng sợ nào đó. Trong căn phòng cất chứa tiêu bản hóa thạch và lõi đá, không khí lâu ngày không lưu thông, tuy bây giờ đã mở cánh cửa sắt ra khá lâu, nhưng vẫn cảm thấy rất khó thở. Khoang bảo mật có cửa sổ quan sát được bọc thép xung quanh, xem ra xung quanh hoàn toàn kín bưng không có khe hở nào. Mọi vật đã tồn tại trong trạng thái ấy những mười sáu năm, thì làm sao bên trong còn sinh vật nào sống sót được?



Tư Mã Khôi cảm thấy khi nãy mình vừa nhìn một cái, thì hồn suýt chút nữa đã bị xé rời khỏi xác. Tuy lòng bồn chồn thấp thỏm, nhưng anh vẫn muốn tìm xung quanh xem có cửa khoang không, để làm rõ rốt cục nó là thứ gì.



Thắng Hương Lân nói: “Anh đừng vội, tôi thấy những ghi chép ở đây thể hiện rõ, tất cả tiêu bản lõi đá trong phòng đều được đào trong động đạo và rừng rậm than đá, không liên quan gì đến cực vực dưới lòng đất đâu.”



Tư Mã Khôi đang định lên tiếng, thì chợt nghe âm thanh sột soạt rất nhỏ phát ra từ phía trên khoang bảo mật. Động tĩnh đó chỉ khẽ khàng như tiếng chuột chạy, nhưng vì căn phòng lúc này yên ắng như tờ, lại thêm thính giác của Tư Mã Khôi vô cùng nhạy bén, nên anh lập tức phát hiện ra điều khác thường. Tư Mã Khôi ngẩng phắt đầu lên, thì thấy có một bóng đen đang nằm phục trên trần.



Đối phương bị ánh sáng đèn quặng soi vào, liền nhanh chóng quay người rút lui. Tư Mã Khôi chỉ nhìn thấy cái đầu người mờ mờ trên đỉnh khoang, đầu không có tóc, mũi diều hâu, miệng nhô ra, một mắt to một mắt nhỏ, con mắt nhỏ lộ ánh nhìn hiểm độc, trong khi con mắt trái thì mờ đục. Khuôn mặt quái dị đó lướt qua trước ánh đèn, rồi vụt biến vào bóng tối chỉ trong nháy mắt.




Tư Mã Khôi biết, theo cổ thuật tướng vật, người có mắt to mắt bé rất hiếm gặp, đôi mắt đó được gọi là yêu nhãn, mắt to để nhìn vào ban ngày còn mắt bé nhìn ban đêm, cho dù không sử dụng đèn nến trong bóng tối, thì cũng vẫn có thể duy trì thị lực như bình thường. Thế nhưng khuôn mặt này, hai người chưa từng gặp bao giờ.



Tư Mã Khôi định tâm bắt sống, bèn khoác súng lên lưng, tung người bám tấm thép leo lên khoang bảo mật đuổi theo tên quái nhân. Thắng Hương Lân là con gái nhà nòi, cô cũng am hiểu một số kỹ nghệ thời xưa. Lúc này thấy Tư Mã Khôi giống con thạch sùng lặng lẽ chúc đầu bám sát tường, động tác nhanh nhẹn không khác gì loài khỉ, cô không khỏi thốt lên đầy thán phục: “Ồ! Tháo ủng ngược!” – Cô lo ngộ nhỡ Tư Mã Khôi xảy ra điều bất trắc, bèn leo lên bám theo anh.



Tư Mã Khôi leo lên đến nơi bèn soi đèn nhìn quanh, nhưng không thấy bóng dáng tên quái nhân đâu cả, mà chỉ có chiếc ba lô tác nghiệp khoan thăm dò của phân đội số sáu Karamay sử dụng, đang nằm chỏng chơ trên đó. Lúc này Thắng Hương Lân cũng trèo tới nơi, hai người đều nhận ra chiếc ba lô của gã Điền Khắc Cường, lòng bất giác dấy lên dự cảm chẳng lành: “Gã Điền Khắc Cường này trà trộn vào phân đội vật lý thăm dò ngay từ những năm 50. Trong lần xảy ra sự cố ở cánh rừng rậm than đá, chỉ một mình gã may mắn sống sót.



Giờ đây lại được Nấm mồ xanh cử đến để phá hoại hành động của đội thám hiểm. Sau khi thân phận bị bại lộ, đầu tiên gã bị Hải ngọng vặn gãy cổ, rồi lại gặp thảm cảnh phanh thây ở sông ngầm. Lúc này, chiếc ba lô của hắn một lần nữa lại xuất hiện ở đây, điều đó chứng tỏ mọi người chưa hoàn toàn thoát khỏi sự theo dõi của gã. Kẻ khi nãy nằm phục trên đỉnh khoang có dung mạo giống như quỷ hiện hình vậy, rõ ràng trông khác xa gã Điền Khắc Cường. Tên đặc vụ này nhiều lần chết đi sống lại, thử hỏi gã có phải con người hay không?”



Tư Mã Khôi cảm thấy hơi thở tỏa ra ở khu vực gần đây, gã Điền Khắc Cường có lẽ đang trốn trong chiếc ba lô, hơn nữa hắn vẫn còn sống, mà điều kỳ lạ là không gian chiếc ba lô căn bản không thể chứa nổi một người. Anh lấy tay ra hiệu, bảo Thắng Hương Lân không được mạo hiểm đến gần, sau đó hít sâu một hơi, rờ thắt lưng rút dao săn, anh định lên trước mở ba lô ra để làm rõ sự tình.



Ai ngờ Tư Mã Khôi vừa sờ vào ba lô, thì một cánh tay không có da người từ bên trong thò ra, liền sau đó nửa thân trước cũng thò ra theo.



Lúc này, Tư Mã Khôi có thể nhìn rõ mồn một dung nhan tên dị nhân dưới ánh sáng đèn quặng. Đúng là chiếc ba lô có đủ chỗ cho người trốn, có điều con người này không phải con người hoàn chỉnh theo ý nghĩa thông thường, nhiều nhất nó chỉ có một phần năm cơ thể. Phía dưới chiếc đầu là một phần nội tạng, chỉ có một cánh tay, phần thân dưới còn kéo lê một đường cột sống.



Tuy rằng Tư Mã Khôi là người rất cứng vía nhưng nhìn thấy cảnh tượng đó, anh cũng bất giác nổi da gà khắp toàn thân, kinh ngạc nghĩ thầm “Người hai đầu ư?”



Thuở nhỏ, anh sống ở Bắc Kinh, từng nhìn thấy một đám đông, cả già trẻ gái trai tụ tập túm tụm lại, khiến đường phố tắc nghẽn như bị tắc cống. Anh chen qua khe hở giữa làn người chui vào trong ngó thử. Thì ra mọi người đang vây quanh xem một người ăn mày trên phố. Ăn mày trước đây lưu lạc tứ phương, hoặc mang theo trẻ nhỏ hoặc lê lết tấm thân tàn tật, phô bày ra giữa phố nỗi thống khổ của mình để tìm kiếm chút lòng thương hại của kẻ qua đường. Tay gãy chân cụt, thân mình lở loét, đều là vốn kiếm ăn của họ. Tục ngữ có câu: “Ba năm làm kiếp ăn mày, đổi thành hoàng đế một ngày không ham”. Có những kẻ sinh ra đã lười nhác, muốn ngồi mát ăn bát vàng, bọn họ không muốn lao động sản xuất, cũng không có trình độ văn hóa gì, lại thấy nghề ăn mày có thể ăn không của thiên hạ, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, thì còn gì thoải mái hơn.



Loại ăn mày này đúng là không đáng để người đời cảm thông. Nhưng cũng có một số người đúng là thực sự tàn tật khốn khổ, họ không có kế gì để sinh nhai, đành phải ra phố ngửa tay xin ăn. Kẻ ăn mày lần này lại là một thiếu niên, anh ta phanh ngực ra giữa phố, trước ngực mọc một cái cổ trẻ con, chân tay mắt mũi mồm miệng đều đầy đủ, nhưng mắt cứ khép chặt, vạch mí mắt ra thì thấy bên trong không có con ngươi, sờ mũi miệng cũng không thấy hơi thở, chân tay mềm nhũn như không xương, có đầu ti nhưng không có rốn, mông lại nằm phía trước, ai nhìn cũng thấy rất kỳ dị. Thiếu niên đó tự xưng cùng người anh sinh đôi dính liền cơ thể từ Sơn Đông đến đây. Nếu ai đưa cho ít tiền, cậu ta sẽ mở khuy áo cho mọi người xem người anh dị hình trong lòng mình.



Cậu ta chạy khắp hang cùng ngõ hẻm, quanh năm kiếm sống bằng nghề này, nhiều lần được chính phủ đưa vào trại tế bần nhưng lại trốn ra ngoài, vì không chịu được cảnh bị quản thúc. Cậu ta định xin ít tiền, đợi sau khi đến Thiên An Môn sẽ đi Thượng Hải để mở mang tầm mắt. Trên đường cũng có rất nhiều người hảo tâm, thấy cậu ta đáng thương, bèn móc tiền quyên góp. Có người hỏi cậu thiếu niên: “Sao người trong lòng lại là anh trai cậu được?”. Cậu thiếu niên đáp: “Người nào sinh ra trước đương nhiên sẽ là anh, mấy năm trước anh ấy còn có thể nói chuyện, nhưng mấy năm nay mặc kệ hô hoán thế nào, anh ấy cũng không phản ứng gì nữa”. Tư Mã Khôi thấy cảnh đó thì tròn mắt thất kinh, vừa thấy cảm thông vừa thấy kì quái, nên còn bám theo nhìn cả nửa ngày trời, mãi đến khi người của sở cảnh sát đến bắt cậu thiếu niên mang về mới thôi. Sau này, anh nghe cụ nội nói mới biết: “Đây không phải sự lạ, chỉ là dị dạng mà thôi, có thể thấy trời cho ta sinh ra làm người nhưng đôi khi vẫn có điểm biến hóa khó lường.”




Việc cũ cách đây đã nhiều năm, Tư Mã Khôi quên khuấy từ lâu, lúc này, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, anh chợt hồi tưởng lại. Không ngờ đối phương lại là cặp song sinh ký sinh dị hình. Gã Điền Khắc Cường mà mọi người vẫn trông thấy, thực ra chỉ là con rối vô tri vô giác, còn ý thức chủ quan thực sự là của vật quái thai nằm trong cơ thể gã.



Trong lúc anh đang ngẩn người, thì gã Điền Khắc Cường đã kéo lết nửa cái sống lưng từ đầu kia của khoang bảo mật xuống dưới đất. Giống như sinh vật đầu người mình rắn, gã hành động vô cùng mau lẹ. Tư Mã Khôi thầm biết không ổn, làm gì có chuyện anh cho phép gã đó dễ dàng chạy thoát thân, nên cũng lật người lộn xuống, cầm dao ráo riết bổ theo, nào ngờ hành tung đối phương quái dị khó lường, hắn quay người trốn vào góc chết, và “chiu” một cái, đã luồn vào trong khoang qua cánh cửa ở mặt bên, rồi dùng khóa sắt khóa trái, tự nhốt mình bên trong.



Tư Mã Khôi thầm than: “Hỏng hẳn rồi! Lúc trước chưa kịp phát hiện vị trí cửa khoang. Xem ra cái ngữ này lẳng lặng chuồn vào trạm thám trắc dưới lòng đất và sắp đặt sẵn đường rút lui, hắn cố ý xuất hiện để dẫn dụ bọn ta đến chỗ này đây mà!”



Hàng loạt biến cố chỉ diễn ra trong khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi, Thắng Hương Lân bám sát sau lưng Tư Mã Khôi, cô thậm chí còn chưa kịp nhìn rõ thứ bò ra khỏi ba lô là gì, chỉ thấy dưới chùm sáng lay lắt của ánh đèn quặng, cô thấy một bóng đen luồn vào khoang bảo mật, tim cô đập thình thịch liên hồi.



Tư Mã Khôi chặn cửa khoang, thuật lại tình hình, Thắng Hương Lân kinh hãi đến cực điểm, nhưng cô cảm thấy có vấn đề uẩn khúc còn đáng quan tâm hơn: “Vì sao đối phương lại trốn vào trong khoang bảo mật, một khi người bên ngoài đóng chặt cánh cửa, thì bên trong đừng mơ chui ra.”



Lúc này chợt nghe thấy âm giọng sắc lạnh, thê lương của gã Điền Khắc Cường vọng qua khe cửa: “Mẹ kiếp! Bọn mày đừng phí công tốn sức làm gì. Điền mỗ đây đã tự nguyện vào thì không nghĩ đến chuyện còn sống mà chui ra. Nói thật cho bọn mày biết, bọn mày cũng vĩnh viễn không thể rời khỏi căn phòng này đâu.”



Tư Mã Khôi bừng bừng lửa giận, lớn tiếng chửi: “Bịt cái miệng thối của mày lại, bố mày sợ quái gì? Tao cóc tin…”



Điền Khắc Cường cười gian manh: “Thực ra tao hoàn toàn có thể lặng lẽ xử lý mấy thằng trộm quèn bọn mày, nhưng bây giờ tao lộ mặt vì muốn tận mắt chứng kiến thần sắc tuyệt vọng của chúng mày, vì muốn để chúng mày biết vì sao mình lại phải chết, và chết thảm khốc ra sao. Nếu không, lũ chuột yếu đuối nhỏ nhoi chúng mày vĩnh viễn không thể lý giải được tao đã hi sinh vĩ đại vì mục đích vĩ đại đến nhường nào.”



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: tâm lý gã này méo mó lệch lạc cực độ, chắc hắn điên thật rồi, nhưng mình cũng có thể lợi dụng điểm này để thăm dò bí mật của Nấm mồ xanh.



Thế là anh lấy tay ra hiệu, bảo Thắng Hương Lân chuẩn bị rút lui khỏi căn phòng bất cứ lúc nào.




Gã Điền Khắc Cường tự biết mạng sống của mình chỉ có thể kéo dài trong khoảnh khắc, nên tinh thần hắn càng kích động phẫn uất hơn. Hắn kể lể, ngay từ những năm 30, lúc đó đúng thời điểm nạn đói đang hoành hành dữ dội, mọi người lại kéo nhau nhập ngũ hết, bá tính ly tán lưu lạc tứ phương, phần đông đều chạy sang nơi khác lánh nạn.



Lúc ấy, cô con dâu nhà họ Điền cũng chạy loạn cùng gia đình và bị lạc. Một mình cô đi vào núi hoang, ban đêm gió lạnh thổi hun hút, tuyết rơi nặng hạt, một mình đi bộ vừa lạnh vừa đói, cô bèn trốn vào trong một ngôi miếu thổ địa tránh gió. Cô thấy trong ngôi miếu đổ nát có một bà già đang lấy cái nồi to hầm thức ăn. Cứ nghĩ đó là canh rau dại, cô bèn kể cho bà lão nghe hoàn cảnh hoạn nạn của mình, rồi ngỏ ý xin một bát canh nóng. Nhưng bà lão thoái thác: “Một mình già đơn độc ở đây, tứ cố vô thân, khó khăn lắm mới hầm được nồi canh, đâu dễ chia cho người khác? Cho cô uống thì tôi hết đường sống mất”. Cô con dâu nhà họ Điền khổ sở van nài mãi, cuối cùng cũng được bà lão chia cho một bát, nào ngờ đó lại là canh thịt.



Cô vừa lạnh vừa đói, không quản gì nữa, bèn húp sùm sụp, ngay cả đáy bát cũng liếm sạch trơn. Sau đó, cô nhìn thấy bà lão vớt một cái chân trẻ con từ đáy nồi lên, mới hoảng hốt hiểu ra, bát canh khi nãy uống là canh thịt người. Cô vội vã đội gió tuyết chạy trốn khỏi miếu thổ địa, kết quả ngã gục giữa đường vì quá khiếp sợ, may mà người nhà tìm thấy và kịp thời cứu sống. Người dân xung quanh biết việc, bèn đốt đuốc quay trở lại tìm ngôi miếu đổ nát, nhưng không biết nó đã biến mất đằng nào.



Sau khi cô con dâu họ Điền trở về quê, cô bắt đầu mang thai, nhưng thời đó người ta rất mê tín, biết cô ăn thịt đứa trẻ con chết, ai cũng ngấm ngầm sợ hãi, họ lo oan hồn của đứa trẻ sẽ tìm đến đầu thai đòi trả nợ. Người nhà biết việc này đều đối xử với cô rất ghẻ lạnh và hà khắc, động một chút là đánh chửi những lời cay nghiệt. Cô cắn răng chịu đựng, chỉ mong đứa trẻ sinh ra tất cả đều bình thường, nếu được như vậy, cô có thể tiêp tục gắng gượng sống những ngày còn lại. Nào ngờ, cô vác bụng bầu, hoài thai suốt hai mươi tháng mà vẫn chưa thấy lâm bồn. Cuối cùng cực chẳng đã, cô quyết định bỏ nhà đi tìm cái chết. Cô vào một rừng cây hoang vắng, treo cổ tự vẫn mà không biết rằng hành tung của mình đã sớm bị một tay biệt bảo lõi đời để mắt đến. Nhân lúc thai phụ vừa mới qua đời, hắn liền mổ bụng cô lấy bào thai ra.



Trước ngực thai nhi đó có một dấu tích hình mặt người mờ mờ, khung hình không rõ lắm, chỉ có hai con mắt khép hờ, quả nhiên là một bào thai nửa người nửa quỷ. Tay biệt bảo biết yêu nhãn của đứa trẻ này có thể nhìn thấy khoáng quặng dưới lòng đất, bèn bắt đầu nuôi nấng nó từ đấy, đồng thời nhận nó làm đồ đệ. Có điều, hắn không truyền thụ cho nó bất kỳ tài nghệ đích thực nào, mà ngày nào cũng cho nó uống thuốc để cơ thể hình người luôn trong trạng thái hôn mê, chỉ để con mắt yêu dị gắn bên trong cơ thể tỉnh táo, nhằm phục vụ cho mục đích của hắn.



Sau này, khi quân Nhật xâm lăng, khắp Trung Nguyên dậy sóng, thầy trò phải chạy về Tây Nam. Tên đồ đệ vốn ôm mối hận trong lòng, biết sư phụ là hạng người không ra gì, hắn bèn nhân cơ hội ra tay giết hại tính mạng ông thầy biệt bảo, sau đó được thủ lĩnh Nấm mồ xanh thu nạp vào tổ chức ngầm, tuyên thệ sẵn sàng xả thân vì tổ chức. Sau giải phóng, hắn lấy tên giả là Điền Khắc Cường và trở thành nhân viên liên lạc tình báo được gài ở Tân Cương.



Năm 1955, Liên Xô nhận được tin tình báo của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, mới chủ động cung cấp đoàn chuyên gia cố vấn và các thiết bị khoan thăm dò hạng nặng, khoan thông thẳng xuống kính viễn vọng Lopnor dưới lòng đất. Lúc đó, gã Điền Khắc Cường cũng tham gia công trình, với tư cách nhân viên kỹ thuật vật lý thăm dò. Cuối năm 1958, đường dây điện thoại thạch từ dùng để thám trắc tình hình dưới lòng đất xảy ra sự cố, hắn ta và một nhóm đồng sự, cùng viên cố vấn Liên Xô, thâm nhập rừng rậm than đá để xác minh nguyên nhân, nào ngờ lại phát hiện thấy một số thứ rất đáng sợ nằm trong lớp than, rồi tất cả mọi người đều chết một cách kỳ bí. Thực ra, cái chết được chia ra làm hai loại, loại thứ nhất là chết về mặt thể xác, loại thức hai là chết về mặt linh hồn. Nếu thể xác vẫn sống, nhưng đại não rơi vào trạng thái tử vong, thì người đó trở thành người thực vật, cũng không khác đã chết là bao nhiêu. Tình huống mà nhóm vật lý thăm dò gặp phải có lẽ là não chết.



Não của gã Điền Khắc Cường khi đó cũng đột nhiên tử vong, từ đó trở đi, hai mắt không thể nhắm chớp được nữa. Cũng bởi hắn đi chậm hơn mọi người, nên mới may mắn giữ được cái mạng. Không lâu sau đó, kế hoạch kính viễn vọng Lopnor đành gác lại, gã Điền Khắc Cường nằm mai phục ở mỏ dầu Karamay đợi lệnh. Giờ đây, gã lại được cử đến để phá hoại hành động đội thám hiểm, cản trở bất kỳ kẻ nào muốn dòm ngó bí mật của Nâm mồ xanh. Lúc đầu mọi chuyện còn khá suôn sẻ, nhưng không ngờ Tư Mã Khôi lại nhanh nhạy, mưu trí đến vậy, buộc hắn phải lộ diện. Hai lần ba lượt hành hung đều thất bại, cuối cùng hắn định hủy quan tài, cũng bất thành, nên đành phải băm nát thân mình, cắt bỏ phần cơ thể đã sớm trở thành người thực vật từ lâu, lẩn trốn trong quan tài tiếp tục bám đuôi đội thám hiểm. Lợi dụng mùi máu tanh chảy ra từ miệng vết thương của giáo sư Nông địa cầu, và mùi hôi thối của vải vóc khâm liệm hàng ngàn năm trong quan tài, hắn đã thuận lợi che mắt mọi người ẩn giấu tung tích.



Cơ thể không có phần thân dưới hiện giờ của hắn, sau khi cắt đi chủ thể thì không sống được bao lâu, hắn gộp tất cả món nợ đổ dồn lên đầu Tư Mã Khôi. Hắn cho rằng lũ chuột nhát gan này có tư cách gì mà dám thăm dò bí mật lớn nhất của thế giới? Nhưng hắn cũng tự lượng sức mình không phải đối thủ của Tư Mã Khôi, nên đành cắn răng nhẫn nhịn, đợi đến khi lừa anh vào trong phòng cất chứa mẫu đá mới ra tay hành động. Đây là cơ hội cuối cùng của hắn, đồng thời cũng là cơ hội tuyệt đối không thế thất bại. Bởi vì con yêu quái mà người Liên Xô đã đào được trong cánh rừng rậm than đá, lúc này đang ở trong khoang bảo mật, nên phàm những ai bước chân vào kính viễn vọng Lopnor, đều trở thành người chết không có sóng điện não.