Gần mộ huyệt khu nghĩa địa ở ngoại thành chôn giấu rất nhiều “lò lửa”, những lò lửa đó đều do xác chết mục rữa phân hủy, trộn lẫn với bùn Hydrocacbua dưới lòng đất, từ đó hình thành một loại khí đốt đặc biệt. Hỗn hợp chất này bị vùi lấp nhiều năm trong động huyệt, một khi bất ngờ được giải phóng và tiếp xúc với không khí bên ngoài, nó sẽ sinh ra hiện tượng đốt cháy cực mạnh.
Lần này coi như Triệu Lão Biệt gặp vận rủi, viên Lôi Công Mặc mà lão ta muốn có lại vừa vặn nằm ngay giữa lò lửa tràn ngập khí hydrocacbua, lão nhờ mọi người buộc sợi dây thừng vào viên đá để kéo lên, vô tình đã khiến vách đất hai bên mép khe bị sụt lở, hàng chuỗi cầu lửa từ trong kẽ phun lên nghe “phừng phừng”, quả cầu lửa thiêu đốt toàn thân khiến Triệu Lão Biệt giãy dụa quằn quại đầy đau đớn, thảm thiết gào thét cha mẹ, sợi dây thừng buộc quanh người lão ta cũng bị đứt thành từng đoạn, cả người và viên đá cùng rơi tõm xuống kẽ đất sâu hun hút.
Hội ba người Tư Mã Khôi nhìn thấy sự việc diễn ra ngoài dự liệu liền vội vàng trườn người xuống xem tình hình bên dưới, chỉ thấy đất đá cát sỏi từ hai bên vách đất rào rào lăn xuống, chiếc đèn kéo quân cũng bị rơi tắt cả lửa, dưới đáy hố tối như hũ nút, không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì ở bên trong.
May mà ở gần chỗ viên Lôi Công Mặc là sào huyệt sinh sôi nảy nở của vô vàn kén nhộng đom đóm, hàng ngàn vạn con đom đóm bị giật mình, bay túa ra từ gốc cỏ, điên loạn đâm lung tung khắp nơi, ánh sáng đom đóm chập chờn di chuyển khắp khe nứt trong lòng đất. Nhờ vào màn sương ánh sáng nhàn nhạt âm u, hội Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy lờ mờ cảnh tượng phía dưới. Sau khi Triệu Lão Biệt bị rơi xuống khe, lão ta nằm ở chỗ cách mặt đất khoảng ba mươi mấy mét, bị một đụn nham thạch thò ra chắn lấy, đầu lão ta cắm xuống, chẳng rõ sống chết thế nào.
Tư Mã Khôi ở bên trên ra sức hét gọi Triệu Lão Biệt mấy câu, không nghe thấy tiếng trả lời, trong lòng cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng, bèn định mạo hiểm lao xuống cứu người.
Hải ngọng thấy vậy vội cuống quýt can ngăn: “Thằng điên này! khe đất kia là cái bình đất rỗng ruột đấy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị sụt lở, cậu giờ mà xuống chắc chắn sẽ bị nó chôn sống dưới đó. Lưng dắt mỗi cái cào gẫy mà dám liều mạng vào rừng săn cọp. Tớ nói cho cậu tỉnh ngộ, lúc này không phải lúc giở thói anh hùng ra đâu nhé!”.
Hạ Cần cũng bấn loạn hết cả lên, nhưng cô nàng còn thiếu chủ kiến hơn cả Hải ngọng, chỉ biết hỏi rối rít: “Bây giờ phải làm sao? Hay là chúng ta mau quay về tìm người đến giúp….”
Tuy rằng Tư Mã Khôi cũng biết việc này vô cùng nguy hiểm, nhưng trực giác mách bảo cho cậu, Triệu Lão Biệt là một nhân vật kỳ tài hiếm có với bản lĩnh rất đỗi phi phàm, nếu lão ta phải bỏ mạng một cách lãng nhách và bất minh như vậy trong nghĩa địa La Sư này thì quả là đáng tiếc, cậu không thể thấy chết mà vô tình nhắm mắt, phẩy tay làm ngơ được. Trước mắt việc cứu người là quan trọng, Tư Mã Khôi không thể nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ rờ rờ vào dây lưng cài vũ khí buộc chặt ở ngang hông, đầu thoắt nghĩ một thoáng bèn nảy ra một kế sách. Cậu lập tức bảo La Đại Hải và Hạ Cần đưa dây lưng của hai người cho mình rồi để họ ở bên trên tiếp ứng, sau đó liền phi thân bò xuống khe nứt phía dưới.
La Đại Hải và Hạ Cần vốn định tiếp tục khuyên ngăn nhưng nhìn thấy tư thế bò xuống hố của Tư Mã Khôi, cả hai đều tròn mắt cứng miệng kinh ngạc. Nếu là người bình thường, bất luận là bò lên hay bò xuống, đương nhiên đều phải “đầu hướng lên trên, lòng bàn chân hướng xuống dưới”, nhưng Tư Mã Khôi lại làm trái ngược hoàn toàn, chỉ thấy cậu ta “Đỉnh đầu chúc xuống dưới, hai gối co lại, ngón chân bám chặt vào mép đá, hai cánh tay dang rộng đan chéo nhau nâng đỡ trọng tâm, trông chẳng khác nào một con thạch thùng bám chặt vào bờ tường chúc đầu thong dong bò xuống”, hai người bọn họ chưa từng nhìn thấy loại thủ pháp quái dị như thế này trước đây, cho nên giờ cứ ngây người ra, tim dường như trồi lên, đập phập phồng ngay trên cổ họng.
Thì ra món bản lĩnh leo vách vượt tường này của Tư Mã Khôi vốn là một tuyệt kỹ lục lâm được tổ tiên truyền lại, có tên “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, hay còn gọi “cởi giầy ngược”. Nghe nói, món “Bọ cạp bò tường” này vốn là một môn trong nghệ thuật xiếc dân gian, quê hương nổi tiếng nhất của bộ môn xiếc ở Trung Quốc phải kể đến huyện Ngô Kiều thuộc tỉnh Hà Bắc, nơi này từ ông cụ đã 99 tuổi đến đứa trẻ mới chập chững biết đi, bất luận già trẻ gái trai người nào người nấy đều có vài món bí kíp nhà nghề dắt lưng, phòng khi gặp phải những năm tình cảnh làm ăn khốn khó, họ liền tụ hợp nhau lại thành từng nhóm đi nơi khác mãi nghệ mua vui cho người để kiếm chút tiền mưu sinh. Đây là truyền thống của người bản địa đời con nối đời cha từ thời thủa xa xưa, chẳng ai nói được chính xác phong tục này bắt đầu hình thành từ triều đại nào. Cách đây không lâu, ở gần khu vực Ngô Kiều, người ta mới khai quật được một ngôi mộ cổ có từ thời Ngụy Tấn, trên vách tường mộ thấy khắc một bức bích họa, trong đó mô tả các động tác biểu diễn xiếc thời cổ đại như “rốn đội bát, bọ cạp bò tường, lửa sao băng”, điều đó chứng tỏ những tuyệt kỹ kiểu này đã có từ xa xưa với lịch sử rất lâu đời.
Tuy nhiên trong các động tác tạp kỹ có từ mấy trăm năm trước, môn công phu “bọ cạp đảo đầu bò tường” đã sớm bị thất truyền, có điều nó vẫn được tiếp tục kế thừa và giữ gìn trong hàng ngũ quân nhân trong quân đội ngày xưa, những kẻ nắm giữ được bí kíp này phần lớn đều là những đạo tặc lục lâm được triều đình chiêu an, khi bọn họ lẻn trộm vào doanh trại hoặc ra vào thành đều dùng chiêu thức đầu chúc ngược xuống, hai chân ôm lấy góc tường thành, nhanh chóng bò lên trên với tốc độ như gió cuốn. Những người nhìn thấy cảnh tượng này không ai không kinh ngạc, liền đặt tên cho tư thế đó là “bọ cạp đảo đầu bò tường”.
Kỳ thực, kỹ thuật chúc đầu leo tường trong tuyệt kỹ “bọ cạp đảo đầu bò tường” rất thích hợp với lý thuyết về thể lực con người, chỉ có điều ít ai có đủ can đảm thử nghiệm chúng, thậm chí những người có đầu óc bình thường ngay cả nghĩ cũng không thể nghĩ ra tư thế quái dị đó. Tổ tiên mấy đời trước nhà Tư Mã Khôi từng làm quân quan trong quân đội thời mạt Thanh, lại là nhân vật kiệt xuất trong giới lục lâm, thực sự là người có bản lĩnh “thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ” nên mới đủ khả năng khiến bí thuật này đến tận bây giờ vẫn còn truyền nhân. Từ nhỏ, Tư Mã Khôi đã theo học Văn Võ tiên sinh và luyện thành một thân tuyệt kỹ. Có điều hỏa hầu chưa đủ đượm nên từ trước đến nay, cậu không dám thi triển nó trước mặt người khác.
Lúc này Tư Mã Khôi hít một hơi dài rồi bám chặt lấy mép vách nhanh chóng di chuyển xuống phía dưới, chẳng mấy chốc đã bò xuống cạnh thi thể Triệu Lão Biệt, nhờ vào ánh sáng lờ mờ phát ra từ từng đàn đom đóm bay lượn gần đó, cậu phát hiện mũi và miệng lão ta đều đang chảy máu, nằm vật ra bất tỉnh nhân sự. Tuy rằng chiếc áo da thú dày dạn khoác trên người coi như đã cứu lão một mạng khỏi bàn tay tử thần nhưng những vết bỏng loang rộng khắp cơ thể vô cùng nghiêm trọng, thò tay ra sờ thử, cậu phát hiện trên mũi lão phập phồng hơi thở yếu ớt, nếu kịp thời cõng trở lên, nói không chừng vẫn còn cơ hội cứu sống.
Tư Mã Khôi lập tức quay ngược lại, dùng thắt lưng da buộc vào ngang hông Triệu Lão Biệt, sợi còn lại đem nối với chiếc thắt lưng da mà mình đang đeo trên người, rồi buộc lão trên lưng. May mà cơ thể Triệu Lão Biệt mỏng dẹt như thanh củi khô, hom hem toàn da bọc xương, thêm vào đó sợi thắt lưng vũ trang dùng cho quân nhân khá chắc chắn nên cậu có thể miễn cưỡng lôi lão lên. Tư Mã Khôi nheo mắt ngắm nhìn lớp đất dưới đáy khe, nó trông có vẻ rất yếu ớt, chẳng biết sẽ sụt xuống lúc nào, cậu không dám chần chừ nán lại đây lâu thêm nữa. Trong lúc Tư Mã Khôi đang định bò ngược trở lên theo đường cũ, đột nhiên nghe thấy Triệu Lão Biệt rên rỉ một tiếng trong cổ họng, thì ra lão ta đã thoát khỏi hôn mê và tỉnh lại. Lão dùng chút sức lực yếu ớt gắng sức giơ tay lên chỉ xuống chỗ sâu hút ở phía dưới khe nứt.
Tư Mã Khôi cúi đầu xuống thấp, thuận theo chiều tay lão ta chỉ. Cậu nhìn thấy trong tầng tầng lớp lớp ổ đom đóm giữa khe nứt, màn ánh sáng xanh mờ mờ bao trùm lên viên Lôi Công Mặc đen bóng như ngọc. Viên vẫn thạch pha lê vừa vặn rơi cách đó chừng nửa mét về phía dưới, khoảng cách không xa lắm, gần như chỉ cần dang tay ra là có thể chạm tới.
Dường như Triệu Lão Biệt có ý muốn Tư Mã Khôi mang viên Lôi Công Mặc theo cùng, bởi vì khe đất sâu cả mấy trăm mét, lớp vỏ bên ngoài và tầng nham thạch lại có thể sập xuống bất cứ lúc nào, nó sẵn sàng chôn vùi mọi thứ dưới đáy khe rồi nêm lại chặt cứng. Tuy toàn thân Triệu Lão Biệt đang bị thương nặng nhưng tà niệm tham sân si trong đầu óc lão ta còn nặng nề hơn nhiều, lão không đành lòng vứt bỏ miếng ngọc Lôi Công Mặc ngàn năm khó gặp này dưới đáy vực sâu nên đến giờ vẫn còn vọng tưởng chiếm lấy nó làm của riêng.
Tư Mã Khôi cõng Triệu Lão Biệt trên lưng, leo lên được vách đá đã thấy rất vất vả, hơn nữa nếu trọng lực quá lớn thì lớp đất đá phía bên trong địa tầng sẽ bị lở ra và rơi xuống càng mạnh mẽ hơn. Cậu nhìn thấy tình hình không hay, trong lòng thầm định lượng sự sống mới là điều quan trọng, làm gì còn tâm trạng nào mà để ý đến viên Lôi Công Mặc. Nghĩ đoạn cậu liền hít một hơi thật sâu rồi thi triển tuyệt kỹ “bọ cạp bò tường” leo ngược lên mặt đất.
La Đại Hải và Hạ Cần đứng ở bên trên nhìn từng mảng từng mảng đất đá lớn đang không ngừng sụt xuống, lại thấy Tư Mã Khôi mấy lần suýt bị chôn sống dưới nấm mồ, bọn họ không tự chủ nổi cơ tim co thắt lên từng hồi. Cuối cùng khi thấy cậu ta lên được gần mặt đất, cả hai liền vội vàng chìa tay ra, gắng hết sức kéo bật cả Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt lên. Hai người họ vừa mới thoát thân ra khỏi miệng khe nứt thì nghe thấy một tiếng “ầm ầm” nổi lên, một lượng lớn đá sỏi bùn đất từ bên trên thi nhau rào rào chảy xuống, lấp kín mít miệng hố, viên Lôi Công Mặc và vô vàn con đom đóm đều bị chôn vùi tận sâu trong lòng đất, xem ra chúng khó có ngày trở lại chốn phàm trần.
Tư Mã Khôi lên được tới nơi thì mồ hôi đã chảy ướt đầm đìa lưng áo, cậu ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Khi nãy, trong lúc bốc đồng, máu yêng hùng nổi lên ngùn ngụt khiến cậu làm mà không hề suy tính nhưng giờ nghĩ lại cũng cảm thấy rợn hết cả chân tóc, chỉ cần chậm một bước thôi, có lẽ giờ này cậu đã chôn thây ở dưới lòng đất kia rồi.
La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh mặt sang bên cạnh nhìn thấy thương thế của Triệu Lão Biệt, cậu ta liền phẩy tay than dài: “Vừa bị bỏng lại vừa bị ngã thế kia, lão này chắc tiệt đường sống rồi, chỉ e bây giờ có đưa đến bệnh viện cũng không còn kịp. Nhân lúc còn sớm sủa, bọn ta hãy đào một cái hố chôn lão xuống cho xong, không khéo lôi thôi lại vướng vào án giết người thì bọn mình chẳng gánh vác nổi đâu”.
Tư Mã Khôi định thần lại, nói: “Khó khăn lắm mới cứu được lão ta từ dưới đáy mồ lên đây, ít ra cậu cũng phải nghĩ ra cách gì cứu sống lão, trước khi ký giấy khai tử chứ. Lão ta vẫn còn thoi thóp thở đấy, làm gì có chuyện nói chôn là chôn quách ngay được?”
La Đại Hải bất lực bảo: “Bọn mình chẳng phải bác sĩ, làm sao cứu lão được? Không tin cậu cứ thử nhìn xem, cái lão Triệu này bây giờ thở ra thì mạnh, hít vào thì yếu, nửa khuôn mặt đã bị thiêu rụi, toàn thân lùng nhùng một mớ nhầy nhụa, chẳng mấy chốc nữa là lão cất bước xuống hố nghe dế kêu cho mà xem”.
Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ ra một việc: “Mẹ của Hạ Cần là bác sĩ trong bệnh viện quân khu, chắc chắn con nhỏ cũng được tôi luyện từ môi trường của gia đình, ít nhiều cũng phải hiểu đôi chút về y thuật chứ”. Thế là cậu vội vã bắt Hạ Cần nghĩ cách cấp cứu cho Triệu Lão Biệt, sau đó sẽ tìm biện pháp đưa đi bệnh viện.
Hạ Cần còn chưa đầy mười sáu tuổi, làm gì có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tuy cô nàng cũng hiểu biết đôi chút về những kiến thức y học thường thức. Nhưng bây giờ nhìn thấy cả người Triệu Lão Biệt bê bết toàn là máu, gương mặt lại bị cháy mất một nửa, hai hàm răng chìa hết cả ra ngoài, trông bộ dạng vô cùng đáng sợ. Đầu óc cô nàng chỉ quay mòng mòng mỗi hai chữ “hoảng sợ”, thì làm gì còn nghĩ ra nổi cách nào mà cứu chữa. Hơn nữa, quả đúng mẹ cô nàng làm bác sĩ không sai, nhưng bà lại là bác sĩ khoa sản.
Tư Mã Khôi thực lòng không muốn nhìn thấy Triệu Lão Biệt cứ như vậy từ giã cõi đời nên dù chỉ còn một tia hi vọng, cũng đừng mong cậu bỏ qua. Cậu ngoan cố yêu cầu Hạ Cần: “Bác sĩ khoa sản thì cũng vẫn là bác sĩ chứ gì, cậu cóc cần phải nghĩ ngợi nhiều thế, chỉ cần chữa được ngựa chết thành ngựa sống là ổn. Nói chi ông lão Triệu đang nằm cong queo chờ chết đằng kia chắc cũng chẳng thèm quan tâm bệnh viện nhà cậu treo biển hiệu gì đâu”.
Hạ Cần không nỡ khước từ lời thỉnh cầu tha thiết của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, nên đành bạo gan đến kiểm tra tình trạng vết thương của Triệu Lão Biệt. Ngoại trừ những vết bỏng vô cùng nghiêm trọng trên gương mặt lão ra thì xương sườn cũng bị gẫy mất mấy thanh, đâm rách cả nội tạng, gây nên tình trạng xuất huyết trong, miệng lão sủi lên toàn bòn bọt máu, hô hấp ngắt quãng từng hơi, thần trí lúc tỉnh lúc mơ. Khu vực nghĩa địa La Sư này lại nằm ở vùng ngoại ô hoang vắng, nên bọn họ căn bản khó có thể đưa lão đến bệnh viện được, mà cho dù có đưa tới nơi chăng nữa, cũng chắc chắn không thể cứu sống nổi.
Tuy Hạ Cần tất bật cứu chữa suốt một hồi nhưng cô nàng vừa không có kinh nghiệm lại không có y cụ, cuối cùng cũng đành bó tay bất lực. Hạ Cần lo lắng đến nỗi nước mắt bỗng dưng không ngừng tuôn rơi.
Đúng lúc này, cả hội chợt nghe thấy Triệu Lão Biệt ho lên mấy tiếng, dường như lão ta vừa tỉnh lại từ cơn hôn mê sâu. La Đại Hải lại tưởng rằng Hạ Cần có bản lĩnh cải tử hoàn sinh, liền không ngớt lời ngợi khen cô nàng y thuật cao siêu.
Nhưng Tư Mã Khôi lại nhìn thấy Triệu Lão Biệt lúc này hồi quang phản chiếu, tính mạng chắc chỉ còn tính từng khắc nữa thôi, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác u buồn ứ lên tận cổ, cậu nhỏ giọng ân cần hỏi: “Lão Triệu ơi! lão có còn anh em bạn bè thân thích nào nữa không? Có muốn nhờ bọn tôi nhắn nhủ điều gì đến họ không?”
Triệu Lão Biệt đưa cặp mắt đờ dại nhìn Tư Mã Khôi một thoáng rồi lắc đầu, ngắt quãng nói phều phào: “Triệu Lão Biệt mỗ… kiếp này sóng to gió lớn nào cũng từng trải qua, chẳng ngờ lại bị lật thuyền ở rãnh con sông nhỏ nơi nghĩa địa La Sư này, xem ra tất cả đều tại số mệnh cả, hừ…số mệnh tám thước, khó cầu một trượng, câu nói này quả chẳng sai chút nào. Nhưng điều càng khiến mỗ bất ngờ hơn là Tư Mã đầu lĩnh cậu đây mới một nhúm tuổi mà có thể thi triển được tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, cậu được cao nhân nào truyền dạy bản lĩnh này vậy?”
Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ sẽ sắp đoạn khí đến nơi, trong lòng nghĩ chẳng cần phải giấu diếm lão ta thêm điềm gì nữa, liền tóm tắt cho lão nghe tất cả lai lịch xuất thân gia đình của mình.
Triệu Lão Biệt có đôi chút kinh ngạc nhưng lão cũng cảm thấy mệnh mình chẳng kéo dài được bao lâu, nên gắng gượng dùng chút sức tàn chăng chối lại: “Triệu Lão Biệt mỗ trên đời này tứ cố vô thân, niệm tình bằng hữu ít nhiều chúng ta từng có với nhau, các cậu hãy giúp mỗ đưa nắm xương già này vùi ở nghĩa địa La Sư, sống chẳng có phúc nhìn thấy Lôi Công Mặc thì sau khi chết mỗ sẽ hóa thành quỷ thủ bên cạnh nó cũng tốt vậy….”, lời nói đến đây, lão khẽ rùng mình mấy cái, tay chỉ xuống phía dưới lòng đất, rồi đầu môi mấp máy một câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn…”
Tư Mã Khôi hướng mắt theo tay lão chỉ, thì ra đó chính là nơi viên Lôi Công Mặc vừa bị đất đá sụt vỡ chôn vùi ở bên dưới. Cậu lại nghe thấy mấy lời sau cùng của Triệu Lão Biệt có phần rất cổ quái liền vội vàng quay sang hỏi: “Lão vừa nói gì vậy?”.
Nhưng ánh mắt của Triệu Lão Biệt hốt nhiên trở nên thất thần, chẳng đợi nói dứt câu thì đã không thể thở ra nổi nữa, lão ta nằm chết ngay trước mặt Tư Mã Khôi.
Hội ba người Tư Mã Khôi tuy rằng chỉ quen biết Triệu Lão Biệt được ít lâu nhưng lại cùng trải qua cơn hoạn nạn, nay tận mắt nhìn thấy lão chết mà không được toàn thây, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác đau buồn, bùi ngùi. Mọi người lặng lẽ ngồi thủ bên thi thể lão một hồi khá lâu, mãi cho đến khi thành đom đóm bay tứ tán khắp cánh đồng hoang rồi từ từ biến mất, cả hội mới đứng dậy dùng mấy phiến đá nhọn đào một chiếc hố nông, khiêng xác lão chôn xuống đó.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ trong lòng, viên Lôi Công Mặc đã bị vùi chôn ở nơi sâu nhất dưới đáy khe, từ nay về sau e rằng người đời chẳng bao giờ còn nhìn thấy kỳ quan “thành đom đóm” tái hiện giữa nhân gian thêm lần nữa, cậu lại tự nhủ mình đợi đến tết Thanh minh, nhất định sẽ quay về đây quét mộ cho Triệu Lão Biệt một chuyến.
Ba người cùng nhau cáo biệt trước nơi Triệu Lão Biệt chôn thân, rồi lững thững quay trở lại cầu La Sư, trên đường về trong lòng người nào cũng nặng đầy tâm sự, chẳng ai mở miệng nói với ai câu nào, đợi mãi khi đến chân cầu, La Đại Hải mới nhớ ra một chuyện, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Câu Triệu Lão Biệt nói trước khi lâm chung có ý nghĩa gì nhỉ?”, Tư Mã Khôi lắc đầu trả lời: “Tớ chẳng nghe rõ, đại loại là mấy lời lung tung lúc hấp hối ấy mà”. Nói vậy nhưng trong lòng cậu vẫn đang suy nghĩ rất mông lung, chẳng ai có thể hỏi được đáp án từ miệng người đã chết, giờ đây thân thế lai lịch của Triệu Lão Biệt và cả bí mật ẩn giấu trong viên Lôi Công Mặc nữa, tất cả đều trở thành một chuỗi câu đố vĩnh viễn không có lời giải.
Trong lòng Tư Mã Khôi tâm sự trĩu nặng, ngẩng đầu lên, cậu mới phát hiện lúc này hừng đông đã lộ ra vầng trắng sáng như bụng cá, hồi tưởng lại toàn bộ sự việc xảy ra đêm hôm qua, quả giống như một cơn ác mộng, vươn vai một cái để co giãn gân cốt cho bớt đau người, cậu quay sang nói với Hạ Cần: “Cả đêm hôm qua cậu không về nhà, chắc bố cậu phải lên cơn điên mất, không khéo lúc này đã điều động cả thế giới đi săn tìm tông tích của cậu cũng nên, mau về nhà đi!”.
La Đại Hải cũng vội vàng dặn dò theo: “Đừng có kể với bố cậu chuyện của tôi và Tư Mã Khôi đấy, thanh danh hai đứa bọn tôi từ trước đến nay cực kỳ trong sạch”.
Hạ Cần lắc đầu nói: “Không sao đâu, tôi đã nói trước với bố sẽ ngủ qua đêm ở nhà dì rồi”.
Hải ngọng tủm tỉm cười: “Khôi ơi, cậu xem bạn Hạ Cần đối xử với anh em ta tốt chưa kìa, cậu ấy nghe thấy bố mình nói sắp tới đây quét sạch băng đảng xã hội cặn bã rác rưởi, liền đặc biệt nói dối cha mẹ đi qua đêm không về nhà, lại từ xa xôi mãi tít trong thành chạy vội về đây mật báo cho chúng ta nữa đấy”.
Hạ Cần lại lắc đầu, tỏ ý không phải vậy. Do dự một lát, cô nàng mới thổ lộ: “Thực ra lần này tớ đến tìm các cậu là có một việc rất quan trọng muốn nói, nhưng tớ sợ sau khi các cậu biết rồi sẽ lại gây ra tai họa, cho nên bây giờ vẫn chưa quyết định được rốt cục có nên nói hay không”.
Tư Mã Khôi và La Đại Hải vừa nghe nói liền cùng nhau vội vã hỏi xem rốt cục cô nàng có chuyện gì hay ho muốn kể? Dù sao thì trong con mắt của quần chúng nhân dân bọn họ sinh ra vốn đã là một tai họa, bây giờ từ trong thành đến ngoài thành, chỗ nào có thể đập phá được thì đã đập phá cả rồi, còn tai họa gì có thể gây ra thêm nữa? Hai con người trẻ tuổi nghĩ vậy mà không hề biết rằng: “Nhân tình thế thái mênh mang tựa biển lớn, kiếp con người nào thiếu sóng gió phong ba”.