Mê Tông Chi Quốc

Chương 165: Hồi 8: tấm bia cổ của vũ vương






Nấm mồ xanh thấy hội Tư Mã Khôi không lập tức trả lời, thì đoán chắc vẫn còn đất thương lượng. Hắn nói từ thuở xa xưa, khi hồng hoang sơ khai, âm dương hòa hợp sinh ra trời đất, mặt đất là những vòng nham thạch dày mấy ngàn mét, trong tầng nham thạch có sông ngầm, vì trong huyệt địa, khe giếng, thường có dòng nước phun trào, mà trên thực tế là do áp lực tạo thành, nên thời cổ người ta gọi nước dưới lòng đất là “tuyền’, thủy thể khổng lồ nằm dưới vành đai 30° vĩ Bắc, chính là nơi có dòng suối lớn sâu vô tận.



Dòng suối này sâu như vực, không nhìn thấy đáy, phía trên bị bao phủ bởi lớp mây từ dày đặc, xung quanh là hỗn độn chưa phân chia, nhưng tận cùng dưới sóng nước còn có một cái máng lõm hình tròn, đó mới chính là vực sâu đích thực nằm dưới cửu tuyền. Thủy thể nguyên thủy dưới lòng đất chính là mô hình thu nhỏ của đại dương ngày nay, trong lòng nó từng tồn tại rất nhiều loài sinh vật có vỏ, sau này bãi biển hóa nương dâu, địa hình thay đổi đột ngột.



Một số loài sinh vật như ốc anh vũ cổ đã bị dòng nước ngầm cuốn xuống vực sâu, và nhờ lớp vỏ có khả năng chịu thừa áp tốt, chúng chui vào không động rồi dần dần trở thành hóa thạch, sau đó lại bị dung nham phun ra từ tầng quyển manti đẩy ra ngoài thủy thể, trôi bập bềnh trong biển tối mênh mông, cho đến khi núi từ bị sụt lún xuống đây, những vỏ ốc này mới bị hút vào quanh lòng núi.



Khi Thần Nông gá gỗ làm ổ, người thượng cổ đã đi lạc vào lòng đất, lúc đó núi từ vẫn cao sừng sững, còn động nham thạch phía dưới biển m Hải lại thò hẳn vào trong sương. Sau vụ va chạm, mặt đất xảy ra địa chấn, khiến núi từ bị chặn lại tại chỗ, phần lòng núi sụt lở đã lộ ra một vòm hang lớn, nhờ vậy mà con người mới có thể chui vào bên trong và phát hiện ra vàng, mã não.



Nhưng ngọn núi lại trôi nổi bất định, đến lúc họ muốn quay lại lấy tiếp, thì đã không thấy tung tích của nó đâu nữa. Người đời sau lắp ghép những phần khoáng vật giống như xương khô này thành một cỗ di hài, rồi gọi nó là thánh vật, vì trong núi từ không có mạch vàng, nên người cổ đại suy đoán: có lẽ di hài trong hang động trôi đến từ dòng suối lớn dưới lòng đất.




Đến thời Vũ Vương đào kênh trị thủy, ông ta muốn tìm nhật quỹ để đo xem trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc. Lại được biết nước Toại Minh cổ đại có một cái cây thần, uốn lượn vạn mẫu, thông thiên tiếp đất, mây sương vờn vũ lưng chừng thân cây, núi từ cũng bị rễ của nó quấn chặt dưới lòng đất.



Bởi thế Văn Vương đã nhìn thấy ngọn núi này, đồng thời cũng phát hiện con người không được lưu lại đây lâu, vì chỉ cần quá một ngày sẽ biến thành ác quỷ, nên đã đặt tên cho núi là Âm Sơn. Lúc đó, người ta đã phát hiện ra một tấm bia cổ rất lớn ở Hoài Nguyên, trên đó khắc rất nhiều chữ triện hình long ly, đây là một phần bị thất lạc sớm nhất của chữ long triện triều nhà Hạ.



Nghe nói sau đó Vũ Vương đã nhốt con rắn lớn dưới sông Hoài Thủy, còn tấm bia này là cổ vật của tộc người Bái Xà, trên đó ghi chép rất nhiều bí mật kinh thiên động địa. Thuở ấy, hồng hoang sơ khai, núi sâu đất mỏng, liên tục bị nứt đôi, nên bất kể thành quách, quốc gia hay con người, chỉ cần sụt xuống đó thì đừng mong có ngày lên được.



Sau khi xin thần khấn phật, Vũ Vương liền ném tấm bia cổ xuống lấp kín hoàng tuyền, phân ra hai cực đất trời, sau đó lại cho chặt đứt cây thần, khiến núi Âm Sơn từ đó hoàn toàn biến mất giữa sóng nước mênh mông. Trong khi đó, tộc người Bái Xà bị nhốt dưới Vũ khư lại cứ đau đáu muốn tìm lại tấm bia cổ, nhưng cho đến ngày họ bị diệt vong thì hoàn toàn vẫn không có kết quả gì; có điều, những sự tích này đều được ghi chép lại trên các di tích mà tộc Bái Xà để lại bằng chữ triện cổ triều Hạ.



Về sau, thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương đã lần lượt đúc chín pho tượng vàng hình người để tế ma, chặn kín trước núi Âm Sơn, và kết quả đã khiến địa tầng sụt lở, lớp sương từ nhanh chóng bủa vây khắp nơi, người nào vào bên trong, người đó tất bỏ mạng. Nấm mồ xanh nói với mọi người, những pho tượng quỷ trong hành lang hóa thạch này đều là của tộc người Bái Xà để lại, nên chỉ cần làm theo lời hắn, thì sẽ khiến vỏ ốc thoát ra khỏi lực hút của núi Âm Sơn, tuy chưa thể đến nơi an toàn, nhưng có thể thâm nhập đáy vực sâu.



Đến lúc đó, hắn sẽ tình nguyện nói ra toàn bộ bí mật kinh thiên động địa trên tấm bia cổ của Vũ Vương cho hội Tư Mã Khôi. Nếu hai bên cùng hợp sức, lo gì không tìm được đường sống, sao phải giằng co với nhau ở đây làm gì cho vô nghĩa. Tư Mã Khôi nghe Nấm mồ xanh nói mà thầm kinh hãi, không ngờ hắn lại biết rành rẽ mọi chuyện đến thế, và chắc hắn vẫn còn giấu giếm hội anh rất nhiều thông tin quan trọng khác.



Anh trầm ngâm một lát, tuy hiểu rõ Nấm mồ xanh sẽ không nói sự thật, nhưng anh vẫn không kìm được nên hỏi: “Hội tao có bốn người thoát khỏi núi Dã Nhân, Miến Điện, trừ tao và Hải ngọng ra, hai người còn lại bây giờ thế nào rồi?” Nấm mồ xanh nham hiểm nói: “Thực ra, mi đã biết rồi, thì việc gì phải hỏi nữa? Nếu ta có lòng lừa dối, thì hoàn toàn có thể nói hai người kia vẫn còn sống; nhưng nếu thế ngươi sẽ thấy mọi lời nói của ta về sau đều không đáng tin.



Thời gian không còn nhiều, ngươi phải tin lời ta, dịch chuyển pho tượng cụt đầu kia sang một bên, vì bản thân pho tượng là một khối huyền từ, nó có khả năng làm lệch vị trí của khối từ khác, rồi hang động cổ hóa thạch sẽ bị sóng đẩy đi, hoàn toàn thoát khỏi núi Âm Sơn. Người Bái Xà rất am hiểu từ tính, họ đã lợi dụng vẫn thạch sắt dưới lòng đất làm cột dẫn đường cho tàu thuyền.




Phương pháp cổ xưa này khá hiệu quả, nếu bọn ngươi không muốn biến thành những cỗ hoạt thi, thì mau hành động theo lời ta nói”. hoatanhoano.wordpress.com Tư Mã Khôi thầm nghiến răng, anh nhất thời không biết nên quyết định thế nào, mấy lời Nấm mồ xanh vừa nói chẳng khác nào một quả lựu đạn khói, tin cũng không được, không tin cũng không xong.



Anh không hề lo việc bị nhốt đến chết trong núi Âm Sơn, mà là không thể xác định được đối phương thực hư thế nào. Cao Tư Dương tiến sát gần, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ hắn cách chúng ta một vách tường, chẳng ai làm gì được ai, chi bằng mình cứ đẩy pho tượng ra theo lời hắn, đợi khi xuống đến đáy vực, lo gì không có cơ hội tóm cổ hắn”.



Tư Mã Khôi nhíu mày, rồi lắc đầu không đồng ý, anh thầm nghĩ: cô chưa bao giờ tiếp xúc với Nấm mồ xanh, nên không biết tâm địa hắn thâm hiểm, ác độc đến mức nào đâu. Làm gì có chuyện hắn tốt bụng chỉ điểm đường sống cho chúng ta? Ngoài ra, chắc chắn đối phương biết tôi sẽ không tin mấy lời quỷ quái của hắn, và không biết hắn có cố ý bày kế “nghi binh” để khiến hội mình không dám chạm vào bức tượng không đầu đó không? Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì quay sang nhìn Thắng Hương Lân, nhưng nét mặt Thắng Hương Lân cũng nghi hoặc không kém, cô nhè nhẹ lắc đầu, ra hiệu không thể đoán được thực hư.



Tình hình bây giờ không khác gì trong tay Nấm mồ xanh có một đồng xu với hai mặt sấp ngửa, trong đó có một mặt khi tung sẽ ngửa lên; trong lòng Nấm mồ xanh biết rõ mặt nào sẽ ngửa, đồng thời hắn cũng nói với mọi người kết quả, nhưng không rõ kết quả đó là thật hay giả. Trước khi hắn xòe bàn tay ra, thì không ai có thể xác định đồng xu sấp ngửa thế nào.



Nấm mồ xanh thấy mọi người vẫn do dự không quyêt, hắn lại tiếp tục bồi thêm đòn tâm lý, nào là bí mật dưới vực sâu và trên tấm bia cổ Vũ Vương kinh thiên động địa ra sao, nào là kết cục bị nhốt dưới núi Âm Sơn sẽ bi thảm, khủng khiếp đến mức nào. Tư Mã Khôi nghe đến đây thì bỗng cười nhạt, mọi người giật mình, lòng thầm kinh hãi: “Tình thế đang lúc nước sôi lửa bỏng, cậu ta dở hâm hay sao mà đột nhiên lại cười nhăn nhở thế nhỉ?” Nấm mồ xanh cũng bất ngờ: “Ngươi… ngươi có định đẩy bức tượng đó hay không?” Tư Mã Khôi nói: “Suýt nữa ông bị mày lừa, dưới vực sâu có liên quan đếch gì đến ông, sao ông lại phải mệt người đi đẩy bức tượng đá đó?” Nấm mồ xanh hỏi: “Thế ngươi muốn cả hội bị nhốt trong núi Âm Sơn đến chết sao?” Cao Tư Dương chột dạ: “Sao Tư Mã Khôi dám tự tiện quyết định thay mọi người.



Anh ta làm thế khác gì lấy mạng của bọn mình”. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cô lại thấy: “Bây giờ có trời mới biết mình đang ở chỗ nào, hi vọng sống sót sau khi chạy thoát khỏi lòng đất vẫn rất vô cùng mờ mịt, sao mình phải thể hiện sự nhát gan ra như vậy chứ?” – Thế là cô nhịn lại không nói gì.



Lúc này, Tư Mã Khôi cũng im lặng, chỉ bật đứng dậy, gọi Hải ngọng đến giúp, hai người hợp sức đẩy đổ một pho tượng xuống dất. Hải ngọng chưa hiểu dụng ý của anh, thắc mắc: “Cậu lại định giở trò gì thế?” Mặt Tư Mã Khôi thấp thoáng sát khí, nhỏ giọng trả lời: “Tớ đoán tượng đá rất nặng, nếu đập vỡ vách đá này, đến lúc đó, cậu nhớ nhanh tay lẹ chân một chút, đừng để cái thằng chó đẻ kia trốn mất đấy”.



Hải ngọng đỏ mắt từ lâu, vừa nghe đã hiểu Tư Mã Khôi muốn gì, anh lập tức nghiến răng ken két nói: “Bận này cậu cứ việc chống mắt mà xem, tớ không lột da nó không xong…” Hai người vận hết công lực, dồn toàn bộ sức vào đôi bàn tay, đồng thanh hét lớn, ôm tượng đá nhất tề thúc mạnh vào vách, tai nghe thấy “rầm” một tiếng”, vách đá thủng một lỗ lớn.



Nấm mồ xanh tự thấy kế sách của hắn kín kẽ từ đầu chí cuối, chẳng ngờ Tư Mã Khôi còn có chiêu này, hắn quay người định trốn vào nơi sâu giữa tầng kép, chẳng ngờ lại bị gạch cổ sụt lở đè vào, hắn đành giãy giụa bò ra ngoài. Tư Mã Khôi quăng tượng đá, nhìn chằm chằm vào Nấm mồ xanh hãy còn đang giãy đạp giữa đống đổ nát, quát lớn: “Phen này xem mày chạy đằng trời, để ông Khôi nhìn kỹ mày rốt cuộc là người hay ma?” – Nói xong, anh liền xách súng chạy đến gần.




Mọi người bám theo sau, Thắng Hương Lân khẽ nhắc: “Cẩn thận kẻo trúng quỷ kế của hắn!” Ai ngờ, phía sau chợt vang lên âm thanh “kẹt kẹt kẹt”, đó là tiếng phát ra do gạch đá ma sát vào nhau. Hội Tư Mã Khôi lo bọn cương thi kịp bò vào trong, nhưng quay đầu lại thì thấy Nhị Học Sinh đang nhễ nhại mồ hôi, dùng vai đẩy pho tượng không đầu, gắng gượng di chuyển nó về phía trước.



Pho tượng rất nặng, phần đáy còn bị từ thạch hút chặt, Nhị Học Sinh đã vận hết sức bình sinh, nó mới di chuyển nửa thước. Mọi người đồng thanh hét “Dừng tay!” – Tư Mã Khôi bừng bừng sát khí, liền giương súng bắn, nhưng Thắng Hương Lân cảm thấy Nhị Học Sinh không phải thành viên của tổ chức ngầm, mà cậu ta làm vậy chẳng qua vì lòng hiếu kì quá lớn, chắc chắn bị mấy lời dụ dỗ của Nấm mồ xanh mê hoặc, muốn biết bí mật tồn tại trong vực sâu, nếu luận về tội trạng thì cũng chưa đến mức phải xử bắn; bởi vậy, cô đẩy cánh tay anh, viên đạn không bắn trúng đầu, mà bay thẳng vào phần thân pho tượng.



Khi nãy, Nhị Học Sinh còn nóng máu, nhưng giờ thấy hội Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa tức giận, thì lòng cậu ta phút chốc liền hối hận, nét mặt hốt hoảng, quỳ vội xuống đất: “Chắc chắn chúng ta… không ra khỏi đây được đâu. Trước khi chết, tôi chỉ muốn nhìn… nhìn xem trên tấm bia Vũ Vương viết gì mà thôi…” Tư Mã Khôi chỉ sợ Nấm mồ xanh nhân cơ hội này lủi mất, anh mặc xác Nhị Học Sinh đang phân bua, vội quay đầu lại, nhưng vừa nhìn đã thấy hang động hóa thạch này không biết ngâm bao năm trong nước, thân nó bị xâm thực nghiêm trọng, nó đứng vững được ở đây hoàn toàn là nhờ pho tượng đá huyền từ cố định nó lại, sau khi Nhị Học Sinh di chuyển pho tượng, cực từ bị thay đổi, nên trong phút chốc nó trượt từ sườn núi xuống dòng nước xiết, rồi chìm vào Vũ khư sâu hun hút.



Mọi người đứng trong thạch thất bỗng chốc thấy trời đất quay cuồng, tai không nghe thấy bất kì âm thanh gì nữa, những pho tượng quỷ và gạch đá xung quanh rơi xuống rào rào. Tư Mã Khôi thầm biết tình hình không ổn, anh vội vàng cố gắng đứng vững, soi đèn ra xa, chỉ thấy gạch đá đang đè trên người Nấm mồ xanh trượt sang một bên, hắn nhân cơ hội này chạy thoát thân, nhanh chóng bò vào nơi sâu trong kẽ hở của vách đá.



Mọi người định nhất loạt giương súng bắn loạn xạ, nhưng vì mất trọng tâm nên chẳng phát đạn nào phát huy được tác dụng. Giờ đây, cơ hội ngàn năm khó gặp đã vuột khỏi tầm tay, mọi người đành phải tự cứu mình trước. Hỏa thạch ốc anh vũ cổ đại vốn là sinh vật không có sự sống, nó bị rơi xuống sóng nước cuồn cuộn, nước ngầm dưới lòng đất chảy tràn vào trong, nhưng cấu trúc từng gian từng gian thạch thất ăn thông với nhau, cũng giúp nó phần nào giảm nhẹ được áp lực và lượng nước tràn vào.



Nó chìm xuống như đá rơi xuống biển, xuyên qua hỗn độn mịt mùng vô biên, rơi xuống vực sâu không đáy. Mọi người nhanh chóng mất hết tri giác trong gian thạch thất tối om. Đến khi Tư Mã Khôi tỉnh lại, anh thấy đầu óc ong ong, gần như không thể nhớ chuyện gì đã xảy ra, còn tứ chi tựa hồ bị xé đứt, gân cốt cảm giác không có vấn đề gì lớn, nhưng khắp cả toàn thân đau tê dại.



Anh thử mở đèn quặng, may mà thứ này cũng khá nồi đồng cối đá, rồi nhờ ánh sáng đèn quặng, anh thấy khắp vách động toàn là những vết rạn hình mai rùa, nhưng về tổng thể thì vẫn còn nguyên vẹn, trước mắt mịt mù hơi nước ẩm ướt, xung quanh lại toàn sương mây đen ngòm. Anh nghĩ, có lẽ mình đã rơi xuống không động dưới đáy cửu tuyền.