Mê Tông Chi Quốc

Chương 109: Hồi bảy: bóng ma trong tấm ảnh






Tư Mã Khôi cực kì kinh hãi, anh hỏi: “Kia rốt cục là cái gì thế?”. Anh ra sức lau kính chắn gió, muốn trông cho rõ hơn.



Ba người còn lại cũng lặng người không biết nói gì, cố hết sức tránh lớp bão cát quất tới tấp vào mặt để bò ra ven hố tròn, tim gan ớn lạnh nhìn chằm chằm vào kỳ quan hiếm có vừa diễm lệ vừa ma quái đến cực điểm.



Vật thể phát sáng trong tầng mây di chuyển rất nhanh, nó đi đến đâu là một lượng lớn bụi băng cuốn theo gió lại lả tả rơi xuống, âm thanh như sấm dội, chuyển động như dời núi, dường như đó là mây mưa ứ đọng làm lạnh ngưng tụ dưới lòng đất, bị dòng khí đối lưu kéo theo, hình thành dải bụi băng trải dài hàng chục cây số, rồi chịu sự ma sát của địa áp, các hạt sương ánh sáng biến đổi khôn lường quấn vòng xung quanh dòng khí đối lưu, nhờ thế đã tạo ra hiện tượng cực kỳ quái dị. Mọi người chỉ cảm thấy má như bị dao cứa, chẳng ai dám tiếp tục nhìn nữa, tất cả đều buộc mình vào tấm ván trượt cát nặng trịch, ôm đầu co gọn người trong hố tròn đé tránh bụi băng. Khá lâu sau đó, dải mây khí tượng làm lanh dưới lòng đất cuối cùng cũng tiêu tan, nhiệt độ trong biển cát tăng trở lại như cũ, khiến các hạt bụi băng còn sót lại chuyển hóa thành sương mai, trắng mờ mịt giăng mắc khắp không gian.



Hội Tư Mã Khôi bị bão cát vùi lấp quá nửa thân người, chân tay lạnh buốt đến tê dại, mãi một lúc sau mới cử động được. Mọi người lục tục trèo ra cởi dây thừng, phủi sạch cát bụi trên người, thấy không ai bị thương hoặc mất tích mới thở phào nhẹ nhõm. Sau đó cả đội nằm lăn ra lòng hố nghỉ ngơi hồi lâu, đến lúc cảm giác bức bối đến ngột thở trong lồng ngực giảm nhẹ, họ mới kéo ván trượt cát ra, chuẩn bị tiếp tục lên đường.



Trước khi khởi hành, Tư Mã Khôi lại rút bức ảnh trong túi áo ra xem. Khi nãy lốc tố ập đến đột ngột, anh vẫn chưa kịp quan sát kỹ, bây giờ mới có thời gian ngắm ngía lại, thấy bức ảnh được chụp rất rõ nét, những chỗ khác đều không phát hiện có điểm gì khác thường, chỉ mỗi thành viên đứng đầu tiên ở hàng thứ hai bên trái, là xuất hiện đốm sáng mờ nhạt trên khuôn mặt, khiến ngũ quan bỗng dưng bị kéo dài, không thể phân biệt các đường nét, trông vô cùng quái dị.




Lúc này, Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng xúm lại xem. Trước đây mọi người từng nghe nói có một sổ bức ảnh chụp được cả bóng ma, bởi vì máy ảnh là thiết bị cảm quang, có thể chộp được một số thứ mà mắt thường không thể trông thấy, nhưng cả hội chưa bao giờ tận mắt trông thấy bức ảnh ma kiểu ấy, cũng không biết quan điểm đó là thật hay giả.



Nhưng nếu quả thật có loại máy ảnh nào đó chụp được u hồn, thì có lẽ nó cũng chỉ đến thế này mà thôi, đây chính là cảm giác trực quan mà tấm ảnh tập thể của đội khảo sát liên hợp năm 1958 đem lại cho hội Tư Mã Khôi.



Bởi vì, xem ra mọi thứ trong bức ảnh đều bình thường, chỉ duy gương mặt của thành viên đứng đầu tiên mé trái hàng thứ hai là nhòe nhoẹt. Nếu bảo do lỗi kỹ thuật hoặc máy móc hỏng hóc, thì sao không mờ mịt chỗ khác mà lại đúng ngay chỗ trên khuôn mặt?



Trước đây, Tư Mã Khôi từng xem rất nhiều bức ảnh chụp hình xác chết, anh biết, ảnh chụp xác chết không hề bị biến dạng, huống hồ lúc chụp ảnh toàn bộ thành viên đội khảo sát hãy còn sống, vậy sao gương mặt đó lại xuất hiện bóng ma?



Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Tôi cũng không biết bức ảnh có xuất hiện thứ gì đó mà mắt người không nhìn thấy được hay không, nhưng trong nhiếp ảnh đúng là có xuất hiện hai từ “ảnh ma”, gọi chung là “ảnh chụp bóng ma”. Thực ra, không phải các nhiếp ảnh gia thực sự chụp được hình u hồn, mà chỉ là một loại kỹ xảo khúc xạ vệt sáng. Trước đây, chúng ta chưa có nhiều tư liệu cụ thể về đội khảo sát liên hợp, bây giờ tuy phát hiện bức ảnh này, nhưng lại không thể xác định thân phận của một thành viên trong đội.”



Hải ngọng ra vẻ am hiểu nói: “Ảnh chụp bóng ma tức là ảnh ma chứ còn gì, bất kể thứ phản xạ đến máy ảnh là gì, thì nó cũng phải có nguồn gốc hẳn hoi chứ hả?”



Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Tuy tôi không hiểu thế nào gọi là ảnh chụp bóng ma, nhưng cứ cảm giác bức ảnh này có vấn đề, nếu vấn đề không nằm ở ảnh, thì vấn đề phải nằm ở… bản thân thành viên bị máy ảnh xóa mờ gương mặt kia…”



Mỗi người góp một câu, thảo luận khá rôm rả, nhưng cuối cùng vẫn không ra đầu ra đũa gì cả, trước mắt tuy rằng có tấm hình, nhưng tung tích đội khảo sát vẫn là một ẩn số. Cả đội đành đánh dấu lại đầu mối này, tiếp tục chỉnh đốn hành trang chuẩn bị xuất phát về phía trước theo tín hiệu sóng điện yếu ớt phát ra từ nơi sâu trong biển cát.



Phần lớn thời gian, nhiệt độ trong dòng cát lún dưới lòng đất lên đến bốn mươi, năm mươi độ C. Dưới tác dụng của địa áp, sương mù lơ lửng giữa tầng không cứ ngưng tụ mãi không tan, thỉnh thoảng lại xuất hiện cơn mưa đá hoặc giông tố mang tính cục bộ. Để tiết kiệm pin và lương thực, đội khảo cổ chuyển sang đốt xương cá voi và mỡ rắn để lấy ánh sáng soi la bàn rồi từ từ tiến vào sâu hơn.



Lòng đất tối đen như hũ nút, thỉnh thoảng lại xuất hiện lằn sáng, báo hiệu con bão quy mô lớn hơn sắp xuất hiện. Trong hoàn cảnh này, thiết bị đo lường hoàn toàn mất tác dụng, mọi người không rõ mình đã đi bao xa trong biển cát, và cũng không rõ sau này còn phải tiếp tục đi bao xa nữa, chỉ biết lần theo các tín hiệu lúc có lúc mất, để không ngừng di chuyển về phía trước.




Đội khảo cổ chưa thể xác định không gian trong không động dưới lòng đất liệu có tồn tại điểm tận cùng hay không, mà chỉ cảm thấy mình đã thoát ra khỏi khu vực sương đen lai vãng, còn tín hiệu sóng ngắn của con tàu Z-615 thì vẫn chìm ở nơi sâu hơn trong bóng đêm.



Mọi người càng đi càng cảm thấy hoang mang. Trong không gian tăm tối, chỉ dựa vào vật tham chiếu hết sức có hạn, cả đội hoàn toàn không biết mình đang ở đâu, hơn nữa hoàn cảnh hiện tại lại cách biệt với thế giới bên ngoài, mỗi người đều phải chịu đựng sức ép tâm lý đang đè nặng trong lòng. Đội khảo cổ đi mãi hồi lâu, thì thấy phía trước xuất hiện một khe sâu rất rộng rãi khoáng đạt. Thắng Hương Lân lấy đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực ra xem một hồi, cô nhận định: trong thâm cốc chắc không tồn tại bất kỳ vật chất kim loại nào, bèn hỏi Tư Mã Khôi có nên đi vòng qua khe sâu hay không.



Tư Mã Khôi thấy địa thế yếu hiểm, bên dưới lại sâu khôn lường, anh phỏng đoán nơi này trước đây từng là khe biển trong cực vực, dòng nước ngầm và hố xoáy đều ùn lên từ chỗ này. Tuy bây giờ đại dương dưới lòng đất đã khô cạn, nhưng tình hình dưới sâu vẫn không biết thế nào, đương nhiên là “thà đi xa ba bước lành còn hơn sà một bước hiểm”, anh thấy đi đường vòng vẫn ổn thỏa hơn.



Nhưng đội trưởng Lưu Giang Hà lúc này lại báo cáo: đoạn mật mã Morse yếu ớt như hồn ma kia, có lẽ được bắt nguồn từ trong khe sâu này.



Tư Mã Khôi kinh ngạc bội phần, đồng hồ thám trắc rõ ràng hiển thị không tồn tại vật thể kim loại ở đáy cốc, nhưng đội trưởng lại nhận định, tín hiệu sóng điện của tàu ngầm Z615 đến từ đáy khe, còn nếu không, thì phải là máy thám trắc hỏng, hoặc là thiết bị phát sóng ngắn có vấn đề. Anh hỏi Lưu Giang Hà xem khẳng định chắc chắn không?



Đội trưởng Lưu Giang Hà bảo là dám lấy đầu ra đảm bảo không có gì sai sót, công việc khảo cổ thám hiểm hang động thì đúng là anh chịu chết, nhưng về phương diện thông tin, thì anh tự tin mình là mũi nhọn kỹ thuật.



Tư Mã Khôi tạm tin đội trưởng Lưu Giang Hà, nhưng thể tích chiếc tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô to lớn dường ấy, đúng là chẳng khác gì con cá kình bằng thép dài cả trăm mét, thì sự tồn tại của nó chẳng khiến các chỉ số thám trắc của đồng hồ đo lường phải nhảy điên cuồng như phát rồ ấy chứ, nhưng sao nó lại im lìm không chút phản ứng như vậy nhỉ?



Mọi người nhìn nhau, ai cũng biết dưới đó chắc chắn có vấn đề, nhưng vấn đề nằm ở đâu? Theo lý mà nói, thì chiếc tàu ngầm không thể xuất hiện dưới đáy kính viễn vọng Lopnor mới là điều bình thường, nhưng nguồn gốc tín hiệu đoạn mật mã Morse là gì vậy?



Đội khảo cổ cân nhắc thiệt hơn, rồi đều cho rằng: dù có là con thiêu thân lao vào lửa thì họ cũng phải xuống dưới đó thăm dò cho rõ nhẽ. Thế là, mọi người bỏ ván trượt cát xuống, rồi từng người tự đeo ba lô hành lý và súng ống của mình, mò mẫm đi xuống khu vực chật hẹp, thoai thoải phía dưới, những chỗ cheo leo hiểm trở thì họ dùng dây thừng có móc câu, móc vào kẽ đá mà tụt xuống. Cả hội xuyên qua từng tầng sương mỏng như tấm màn che, cuối cùng cũng xuống được dưới lòng cốc sâu khoảng trăm mét.



Tư Mã Khôi soi đèn quặng, thấy tứ bề tầng tầng lớp lớp san hô hóa đá kề nhau san sát, cao đến mấy mét, ngả màu trắng xám, hình thù giống tùng bách cổ xưa, bề mặt lỗ chỗ những hố thông nhau, khiến địa hình cao thấp xen kẽ ban đầu càng trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn. Những vũng nước đọng trong lõi hóa thạch, bốc mùi hôi thối đến khó chịu.



Để đề phòng sự cố ngoài ý muốn, Tư Mã Khôi bảo mọi người phải đeo mặt nạ chống độc, sau đó mở chốt an toàn khẩu súng xung phong, rồi lấy tay ra hiệu, lệnh cho đội trưởng liên lạc xác định lại tín hiệu. Cuối cùng anh chỉ về hướng phát ra tín hiệu, bảo Hải ngọng: “Ngụy quân các ngươi đi trước, dẫn đường cho hoàng quân bọn ta nào!”




Hải ngọng rất bất bình, miệng lầu bầu trách móc câu gì đó nghe không rõ, nhung vì đang đeo mặt nạ phòng độc, nên âm thanh rất trầm và nhỏ, bởi vậy chẳng ai rõ cậu ta định nói gì. Người nọ bám sát người kia, lục soát theo chiều dọc thâm cốc.



Đoạn tín hiệu thần bí liên tục phát đi đã gần hai mươi năm, lúc này không ai nắm được vị trí khởi phát của nó ở đâu, nên càng đến gần thì trong lòng ai nấy càng thắc thỏm bất an.



Mọi người vừa nơm nớp lo sợ, vừa tiến thêm đoạn nữa, thì thấy trong khe nứt do dung nham núi lửa dưới đất tạo thành, có một bộ xương sinh vật cỡ lớn, mà nhìn xương hàm của nó thì có vẻ không giống cá voi lắm. Mọi người đi đến gần, phát hiện mình còn chưa cao đên nửa xương hàm dưới của sinh vật cổ, thì ai nấy đều bất giác rùng mình ớn lạnh, rồi phỏng đoán bên trong khe nứt chắc từng là sào huyệt của loài sinh vật đại dương cổ đại nào đó, còn lòng đại dương chết chóc trong cực vực đã sớm khô kiệt từ mấy ngàn năm trước. Nhưng liệu có phải sóng điện đến từ tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô thực sự phát ra từ nơi này hay không?



Nghe nói, thiết bị thám trắc ngoài không gian thời kỳ đầu của Liên Xô và Mỹ, từng thu được nhiều tín hiệu sóng điện thần bí, không thể giải thích được. Khi đó, có một số người đã cho rằng, vong hồn người chết đều tụ tập ở đó, thậm chí còn xuất hiện tin đồn là trong sóng điện có lời cảnh báo, bảo thế nhân tuyệt đối không được đến gần. Phải mãi mấy năm sau thì sự thật mới ba năm rõ mười, thì ra tín hiệu mà máy thám trắc thu được, chỉ là hiện tượng khúc xạ vi sóng vũ trụ sản sinh do điện từ; loại sóng điện này tồn tại ở đó ngay từ thuở hằng cổ hồng hoang. Hiện tượng nhiễu sóng trên ti vi hay tạp âm lạo xạo trong đài, cũng có nguồn gốc tương tự, đó chỉ là hiện tượng nhiễu loạn sóng điện từ không có chút ý nghĩa nào.



Tuy tín hiệu đội khảo cổ nhận được rất yếu ớt, nhưng lại không phải hiện tượng khúc xạ vi sóng thiếu nội dung thực tế. Hội Tư Mã Khôi vừa phỏng đoán nguồn gốc của tín hiệu, vừa tiếp tục mò mẫm về hướng huyệt động hóa thạch, nhưng lúc này đội trưởng Lưu Giang Hà lại báo cáo: tình hình không ổn, tín hiệu sóng ngắn đột nhiên trở nên càng lúc càng yếu, rồi cuối cùng hoàn toàn im lìm biến mất, không thể thu nhận được nữa.



Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc này vô cùng bất thường: “Tín hiệu sóng ngắn liên tục được phát ra suốt nhiều năm, sao đột nhiên lại biến mất đúng vào thời khắc then chốt thế này được nhỉ?”



Đội trưởng liên lạc đã dám dùng quân lệnh để đảm bảo không thể xảy ra sai sót, anh suy đoán tín hiệu sóng ngắn 615 không phải bị ngừng lại, mà là biến mất; nguồn tín hiệu bị biến mất, còn nguyên do xuất hiện tình huống này, e rằng chỉ có một sự giải thích hợp lý duy nhất.



Tư Mã Khôi quay đầu nhìn đội trưởng liên lạc, lúc này, qua máy thở phòng độc, anh không quan sát được sắc mặt đối phương thế nào, nhưng thấy mắt đối phương chợt lóe lên tia sáng khác lạ màu xanh âm u, trong thâm cốc tăm tối, cho dù cách mặt nạ nhưng anh vẫn phát hiện thấy. Tư Mã Khôi sinh nghi, bước lại gần hỏi: “Hai điều này có gì khác nhau? Vì sao tín hiệu lại đột nhiên biến mất?”